Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề cương ôn tập xã hội học pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.27 KB, 17 trang )

Câu 8. Xã hội học nông thôn là? Đặc trưng cơ bản của xã hội nông thôn
hiện nay ở nước ta? Các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học nông thôn
Việt Nam?
XHH nông thôn là một chuyên ngành của XHH. Phạm vi nghiên cứu của nó được xác
định theo lát cắt lãnh thổ. Vì thế, khách thể nghiên của XHH là toàn bộ XHH nông thôn.
XHH nông thôn với nghĩa rộng, cũng là khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội
và nhân văn khác. Vì vậy, tham gia nghiên cứu XHH nông thôn, XHH lấy các hiện tượng
xã hội, các vấn đề xã hội và các quá trình XHH nông thôn làm đối tượng nghiên cứu của
mình. Để đi đến làm rõ đối tượng XHH nông thôn cần hiểu dược nông thôn và XHH
nông thôn
. Đặc điểm của xã hội nông thôn nói chung và nông thôn Việt Nam nói riêng
* Đặc điểm của xã hội nông thôn
- Sinh thái nông thôn mang nhiều yếu tố tự nhiên: Nhà, vườn, ao, ruộng. Chúng
thường gắn với những điều kiện địa lý sẵn có, ít được cải tạo nên chưa thuận tiện cho
sinh hoạt giao lưu kinh tế văn hoá…
- Kinh tế nông thôn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp (thường chiếm từ 50% lao
động trở lên). Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chính, ngoài ra còn có các nghề thủ
công, chế biến lương thực, thực phẩm, buôn bán nhỏ theo hộ gia đình.
- Chính trị ở nông thôn: Ngoài hệ thống chính quyền xã, ấp, thôn do Nhà nước
điều hành trên cơ sở pháp luật còn có hệ thống cương vị chức sắc trong dòng tộc, già
làng, thân thuộc, tôn giáo… điều chỉnh hành vi của các thành viên bằng tục lệ những quy
ước ngoài pháp luật (phép vua thua lệ làng). Sự cưỡng chế việc thực hiện chuẩn mực đó
là uy tín, danh dự, dư luận xã hội. Hệ thống chính quyền pháp luật nhiều khi không có
hiệu lực bằng hệ thống dòng tộc, tôn giáo, và các chuẩn mực có tính quy ước trên.
- Văn hoá nông thôn chủ yếu là văn hoá dân gian, thông qua lễ, hội, ca hát, hò, vè,
kể chuyện… để truyền những giá trị thẩm mỹ, đạo đức, lối sống, kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm sản xuất… từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hoá nông thôn đã bảo tồn được
những giá trị quý báu mang tính truyền thống, nhưng nó cũng chứa đựng những yếu tố
không có lợi cho sự phát triển.
* Đặc điểm của nông thôn Việt Nam:
- Hiện nay ở nước ta có 85% dân cư sống ở vùng nông thôn. Xã hội nông thôn


Việt Nam là xã hội nông thôn vùng Đông Nam Á. Nó vừa mang tính chất của xã hội
nông thôn vùng Đông Á, vừa mang tính chất xã hội nông thôn vùng Nam Á. Xã hội nông
thôn vùng Đông Á chịu ảnh hưởng nhiều của văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ. Làng xóm
quần tụ trên một mảnh đất nhỏ, xung quanh là đồng ruộng. Trong làng một vài dòng họ
sống với nhau từ lâu đời, với nền kinh tế tự cung tự cấp, với hệ thống của những quy ước
riêng đặc trưng cho cộng đồng dân cư đó.
- Xã hội nông thôn vùng Nam Á ở phần lớn là miền đất xã ấp rải theo bờ kênh,
đường bộ gồm nhiều gia đình ở nhiều nơi khác nhau quần tụ thành, ít gắn bó với tục lệ,
dòng họ mà gắn bó với nhau bằng công việc làm ăn, với một nền sản xuất hàng hoá đã có
những tiền đề phát triển. Nông thôn Việt Nam cũng có những đặc trưng đó.
- Nông thôn miền Bắc và miền Trung còn mang nhiều đặc điểm xã hội nông thôn
Đông Á. Xã hội nông thôn miền Nam còn lưu lại những đặc điểm của xã hội nông thôn
Đông Á nhưng chủ yếu là những đặc trưng của xã hội nông thôn Nam Á.
. Các lĩnh vực nghiên cứu của XHH nông thôn
- Nghiên cứu về vị trí, vai trò của nông thôn trong xã hội và trong cơ cấu cộng
đồng lãnh thổ.
- Nghiên cứu về cộng đồng cư dân nông thôn: Các mối quan hệ chủ yếu của xã
hội nông thôn về nghề nghiệp, về các nhóm xã hội, và quan hệ giữa các vùng nông thôn
với nhau.
- Nghiên cứu về các đặc trưng văn hoá và lối sống nông thôn.
- Nghiên cứu về sự biến đổi của môi trường nông thôn dưới tác động của các yếu
tố phi tự nhiên.
- Nghiên cứu về hoạt động quản lý nông thôn…
Câu 9. Hãy phân tích những nội dung của cơ cấu xã hội nông thôn và đặc
điểm của thiết chế chính trị - xã hội ở nông thôn Việt Nam.
Cơ cấu xã hội nông thôn
Cơ cấu xã hội giai cấp và phân tầng xã hội ở nông thôn
- Cơ cấu xã hội giai cấp: cần tập trung phân tích cơ cấu giai cấp ở nông thôn.
Bao gồm giai cấp địa chủ, trung nông, bần nông…
- Sự phân tầng thu nhập và mức sống ở nông thôn: Phân tầng thu nhập là

hiện tượng xã hội mang tính khách quan, nó tồn tại trong điều kiện kinh tế- xã hội. Đến
một trình độ phát triển nhất định của xã hội loài người, sự phân tầng về thu nhập, về mức
sống vẫn đang còn tồn tại. Trong các xã hội nông nghiệp và nông thôn, sự phân tầng đó
cũng thể hiện sự cấp bách hơn bởi quy mô và tính chất nghiêm trọng của nó.
- Phân tầng xã hội về thu nhập và mức sống mà biểu hiện trực tiếp của nó là sự phân hoá
giàu - nghèo ở nông thôn không chỉ là hiện tượng kinh tế mà còn là vấn đề xã hôị lớn.
Con số tỷ lệ phản ánh chất lượng nghèo đói, con số biểu thị khoảng cách thu nhập giữa
người giàu và người nghèo giúp chung ta đọc được sự
phát triển và tiến bộ xã hội, đọc được sự quan tâm tới con người của chính phủ các quốc
gia. Đồng thời, qua những biện pháp của chính phủ, của cộng đồng đối với vấn đề đói
nghèo hiểu được các hành vi trong xã hội, hiểu được lối ứng xử với nhau giữa những
người cùng sống ở nông thôn. Hầu hết cac quốc gia trên thế giới, nông nghiệp còn chiếm
tỷ trọng lớn, các nước mới phát triển còn đang phải đương đầu với hiện tượng nghèo đói,
đó là sự biểu hiện phân tầng xã hội ở nông thôn. Sự phân hóa giàu - nghèo không chỉ là
hiện tượng kinh tế mà còn là một hiện tượng xã hội. Chúng ta cũng biết rằng, có nhiều
nguyên nhân đẫ đến nghèo đói,
nhưng ngoài những nguyên nhân về kinh tế như thiếu vốn, gặp khó khăn do đầu vào và
đầu ra trong sản xuất … còn có những nguyên nhân xã hội. Hơn nữa, những nguyên nhân
này lại chiếm tỷ trọng lớn như đông con,già cả, neo người, ốm đau đột xuất, thiếu kinh
nghiệm làm ăn …
5.1.5. Các thiết chế chính trị – xã hội ở nông thôn
5.1.5.1. Thiết chế làng
Làng (bản) xét về mặt xã hội là một tổ chức chính trị - xã hội mang sắc thái
của Việt Nam. Làng là một liên kết chặt chẽ về kinh tế và xã hội, giữa tập thể và gia đình,
giữa cá nhân và cộng đồng. Làng Việt Nam là chỗ dựa vững chắc về đời sống vật chất và
tinh thần cho người nông dân và người cư chú ở nông thôn. Làng ở nông thôn tồn tại lâu
dài trong lịch sử, nó đã được khẳng định như một đơn vị hành chính - kinh tế, là một đơn
vị xã hội có văn hoá. Vì vậy, sự vận động và phát triển của xã hội nông thôn, của quốc
gia đều có sự đóng góp của làng. Vì làng trong một chừng mực nhất định đã quy định
cuộc sống, mẫu người, phương thức làm ăn và ứng sử của những người sinh sống ở đó.

Trong điều kiện cụ thể, làng đã tạo cho dân cư một môi trường kinh tế - xã
hội và cả tinh thần khá đầy đủ. Nên con người có thể dựa vào làng trong cả cuộc đời
mình. Là một đơn vị dân cư hoàn chỉnh, có các chức năng phong phú xoay quanh nhu cầu
đa dạng của người sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nên các làng nói chung đều có điểm
giống nhau về cơ cấu tổ chức, về hoạt động kinh tế - xã hội, về tổ chức chính trị. Vì vậy,
để nắm vững và quản lý được xã hội nông thôn trực tiếp đến người dân thì trong mọi điều
kiện chính trị - xã hội, đều phải rất chú trọng tới sự vận động và phát triển mọi mặt của
làng; coi làng là một môi trường xã hội, không thể xem nhẹ việc hoạch định các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế -
xã hội. Từ góc độ XHH có thể thấy rằng, về cơ bản thì xã hội nông thôn thông qua làng,
là một cộng đồng tự quản lý chặt chẽ, làng đã đào luyện lối ứng xử, làng luôn lấy mục
tiêu hoà nhập vào cộng đồng để hoàn thiện mình, có sự quan tâm đến lợi ích của cộng
đồng, đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Làng còn đào luyện những người có
kỹ năng tổ chức sản xuất nông nghiệp, tạo nên một nếp sống, lối ứng xử có bản sắc văn
hoá riêng phù hợp với điều kiện cư trú sản xuất ở nông thôn.
Ở xã hội nông thôn, các yếu tố của tồn tại xã hội như vị trí địa lý, địa bàn cư trú, những
hoạt động vật chất của con người trên địa bàn đó là tương đối ổn định và ít thay đổi. Vì
vậy, các yếu tố của ý thức xã hội ở nông thôn cũng chỉ có những thay ở một chừng mực
nhất định. Những thay đổi các yếu tố thuộc ý thức xã hội, có lúc bị mất đi hoặc thu hẹp,
có lúc được khôi phục lại, nhưng sự khôi phục, duy trì nó ở mức nào là phù hợp, có thể
được cắt nghĩa một cách đầy đủ hơn từ góc độ tiếp cận XHH. Sự khôi phục lại nhiều hình
thức sinh hoạt văn hoá đã từng tồn tại trước đây ở nông thôn như lễ, hội, các phong tục,
văn hoá đã từng tồn tại trước đây ở
nông thôn như lễ hội, các phong tục, văn hóa đã từng tồn tại trước đây được các nhà
XHH nhận thức như là sự hình thành các yếu tố của ý thức xã hội tương ứng với sự tồn
tại xã hội ở nông thôn như những khuôn mẫu văn hóa, giúp người dân nông thôn hòa
nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội và của cộng đồng.
5.1.5.2. Gia đình và dòng họ
Làng, đơn vị xã hội cơ bản ở nông thôn, phần đáng kể được hình thành từ
các dòng họ, quan hệ thân tộc, gia đình. Ở một phương diện nào đó, có thể nói, các dòng

họ là những thành tố cấu thành cơ cấu xã hội nông thôn và làng là đơn vị cơ bản. Dòng
họ trong các làng xã – nông thôn có quá trình hình thành và tạo dựng nên đã trở thành cái
bảo đảm giá trị tinh thần cho mỗi thành viên trong dòng họ. Ở một chừng mực nhất định
như trong ứng xử, mỗi thành viên xuất hiện ngoài xã hội, còn có chỗ dựa tinh thần và thế
lực của gia đình và dòng họ. Là thành viên của gia đình, dòng họ, mỗi người đầu phải
tuân theo những quy ước, quy định vừa có tính
khách quan, vừa có tính chủ quan của thiết chế xã hội này. Đó là những quy định về thứ
bậc theo huyết thống, những quy ước về sinh hoạt dòng họ như lễ tế họ, giỗ chạp mồ mả,
hình thành ruộng họ, quỹ họ… Những quy định, quy ước đó vừa hình thành những khuôn
mẫu hành động những giá trị để định hướng cho con người tồn
tại và phát triển. Trong phạm vi không gian là làng – xã, mối quan hệ của những người
cùng dòng họ, huyết thống, cùng tổ tiên, có lúc đã trở thành mối quan hệ cơ bản nhất,
chặt chẽ nhất. Quan hệ họ hàng đã tạo nên sự ố kết, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau,
động viên nhau những lúc khó khăn, kể cả những thành đạt của các thành viên trong các
lĩnh vực đời sống, sản xuất, học hành. Quan hệ họ hàng là một trong những cơ sở hình
thành nên tình cảm quê hương, cội nguồn, có giá trị trong đời
sống tinh thần của người dân nói chung, và của người nông dân nói riêng.
Với những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định, quan hệ dòng họ, thân tộc cũng dễ
làm nảy sinh tính chất cục bộ, hẹp hòi trong sự đánh giá, nhìn nhận các dòng họ khác,
hoặc trong ứng xử ở cộng đồng. Cùng với các hiện tượng tâm lý, xã hội khác, quan hệ
dòng họ cũng có thể bị lợi dụng trong việc tranh chấp quyền lực của cá nhân, hay một
dòng họ nào đó trong làng – xã. Tuy vậy, thiết chế dòng họ, thân tộc từ xưa đến nay,
chưa khi nào giữ vai trò quyết định đối với mọi mặt đời sống của làng – xã nói riêng và
của nông thôn nói chung.
5.1.5.3. Hệ thống chính trị ở nông thôn
Quản lý và điều hành sự vận động, phát triển xã hội ở nông thôn là cả một hệ thống các
thiết chế chính trị – xã hội. Làng và quan hệ dòng họ thân thuộc là những thiết chế xã hội
cơ sở và cơ bản, nhưng chưa đủ để quản lý xã hội nông thôn. Trong những điều kiện lịch
sử, xã hội cụ thể, các đơn vị xã hội cơ bản ở nông là làng – xã có tính độc lập tương đối
và nó có “thế giới riêng”. Những đơn vị xã hội cơ bản đó cũng là một bộ phận hợp thành

của xã hội chung quốc gia dân tộc. Vì vậy, dù trong điều kiện nào thì bên cạnh các thiết
chế xã hội, cũng tất yếu tồn tại thiết chế chính
trị để quản lý xã hội nông thôn.
Thiết chế chính trị có vị trí quan trọng và bào trùm nhất đối với toàn bộ xã hội
nông thôn là nhà nước. Sự quản lý, tác động của nó nhằm khắc phục tính thiển cận, cục
bộ trong quá trình phát triển sản xuất, xây dựng làng – xã trên nhiều lĩnh vực. Đồng thời
còn có tác động quan trọng khác là nhà nước có luật pháp, sắc lệnh, chỉ thị để nhắc nhở,
duy trì mọi nghĩa vụ của người dân và làng - xã đối với Nhà
nước và xã hội. Trong quá trình quản lý xã hội nông thôn, nói chung người ta đều ghi
nhận làng không phải do luật pháp Nhà nước tố chức, ngược lại luật pháp đã công nhận
làng có lệ riêng.
Vì thế, sự quản lý của Nhà nước và lệ làng là hai yếu tố cơ bản tác động trực tiếp tới xã
hội nông thôn và đời sống người dân nông thôn. Về mối quan hệ giữa quản lý của Nhà
nước và tính tự trị của làng trong đời sống xã hội nông thôn nước ta cũng có nhiều quan
điểm khác nhau. Có quan điểm đề cao tính tự quản, tính tổ
chức chặt chẽ có khi tới mức khép kín của làng, coi sức mạnh của tính tự quản làng
– xã còn mạnh hơn cả sự quản lý của Nhà nước ở nông thôn hiện nay.
Thực tế cho thấy, trong mối quan hệ này thường là Nhà nước sử dụng và vận dụng các
thiết chế xã hội làng – xã như thế nào để đạt được mục đích quản lý của mình. Để đạt
được điều đó, hệ thống quản lý của Nhà nước phải hiểu rõ được vai trò, vị thế của từng
thiết chế, từng bộ phận hợp thành trong cơ cấu xã hội đối với xã hội nông thôn. Đồng
thời, phải biết được những biến đổi kinh tế – xã hội có tác động tới vai trò, vị thế của các
thiết chế. Từ đó, có những chủ trương, biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế, xoá
bỏ mặt tiêu cực của chúng; thậm chí có thể phải
bổ sung, hoặc đổi mới nội dung cho phù hợp với những thay đổi đang diễn ra trong thức
tế. Đối với xã hội nông thôn, thiết chế làng – xã và Nhà nước là những thiết chế cơ bản,
có vị trí quan trọng trong quản lý, điều hành xã hội, nhưng chưa đủ, còn các thiết chế xã
hội khác như gia đình, dòng họ, phường hội, xóm, ngõ cũng đóng những vai trò đáng kể
trong đời sống xã hội. Chúng có thể bổ sung thêm những yếu tố tích cực, cần thiết khác
cho xã hội nông thôn. Ví dụ: giáp làm tăng cường thêm không khí dân chủ, xóm làm cho

tình đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, phường hội hỗ trợ
nhau trong phát triển sản xuất, nghề nghiệp… Tóm lại, các tổ chức, các thiết chế xã hội
đã quán xuyến toàn bộ đời sống, khuôn mẫu, hành động của người dân, đồng thời chúng
cũng bảo đảm cho con người hoà nhập với xã hội để tồn tại và phát triển. Như vậy, để xã
hội nông thôn vận động và có sự quản lý tốt cần có một hệ thống các thiết chế chính trị –
xã hội phong phú, đa dạng, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội nông thôn. Mọi
hiện tượng đơn giản hoá, nhập cục, hay quá nhấn mạnh vào thiết chế chính trị – xã hội
hoặc kinh tế nào đó, đều không phù hợp với thực tiễn xã hội nông thôn.
Câu 10. Hãy cho biết sự biến đổi của xã hội nông thôn ở nước ta từ khi
đổi mới đến nay. Theo Anh (chị), Đảng, Nhà nước cần có những chính
sách gì để xây dựng và phát triển nông thôn mới giàu mạnh và văn
minh theo định hướng XHCN?
Sự biến đổi của XHH nông thôn ở nước ta từ khi đổi mới đến nay:
- Xu hướng giảm tương đối về tỉ lệ và tuyệt đối về số lượng nông dân trong cơ cấu xã hội
và dân cư ở nước ta.
- Xu hướng phân nhánh, phân tầng đa dạng hóa trong cơ cấu giai cấp nông dân.
- xu hướng biến đổi trong thiết chế gia đình và xã hội ở nông thôn.
Đảng và Nhà nc
Nhà nc đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và trợ giúp về điều
kiện sản xuất, naag cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên
thoát nghèo và cải thiện mức sống 1 cách bền vững đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện
chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sx , nhất là đất sx; trợ giúp đất, nhà ở , nc
sạch, đào tạo ghề và việc làm cho đồng bào nghèo trong các dân tộc thiểu số. Nhà nước
dã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mạnh các DN đầu tư xây dựng nền kinh tế
nông thôn
- Cần nâng cao nhận thức trong xã hội đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo, coi xóa đói
giảm nghèo là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó Nhà nc có vai trò rất quan trọng.
- Thực hiện chính sách an sinh xã hội.
- Thực hiện chiến lược an ninh về lương thực. Phải dự trữ lương thực đủ để cung cấp cho
dân cư khi có thiên tai và các hiểm họa do thiên nhiên gây ra. An ninh lương thực ko chỉ

là cơ sở chống đói nghèo mà còn giúp cho quốc gia phát triển bền vững.
- Đầu tư các dự án có trọng điểm nhằm mục đích mở rộng sx lương thực thiết yếu cho ng
dân.
- Cần chống tham nhũng , lãng phí 1 cách triệt để. Chính tham nhũng, lãng phí gây ra sự
thiệt hại về tài sản của nhân dân và ngân sách nhà nước gây ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế- xã hội trong đó có việc chống đói giảm nghèo, thậm chó làm cho quốc gia ngày
càng nghèo thêm.
Câu 11. Thông tin đại chúng là gì? Đặc điểm và mối quan hệ giữa thông
tin với công chúng ở nước ta hiện nay?
Thông tin đại chúng
- Khái niệm TTĐC? TTĐC là những thông tin truyền đi một cách hệ thống thông qua các
phương tiện kỹ thuật đến một đám đông công chúng rộng lớn và phân tán nhằm mục đích
duy trì, củng cố hoặc thay đổi hành vi của các cá nhân hay của các nhóm công chúng.
Hoạt động của hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm báo, tạp
chí, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm in, mạng máy tính có tác động, ảnh hưởng mạnh
mẽ tới sự hình thành dư luận xã hội. điều đó thể hiện trên các phương diện sau:
- Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp thời và
đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội: việc đáp ứng nhu cầu và
sở thích thông tin của công chúng được coi là những tiền đề cơ bản cho sự phát triển của
hệ thống truyền thông đại chúng. Trên phương diện này, hệ thống truyền thông đại chúng
ở đất nước ta đã có những bước tiến nổi bật trong những năm đổi mới. các chương trình
phát thanh, truyền hình, xuất bản phẩm trở nên đa dạng, phong phú hơn, cập nhật hơn với
các thông tin về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, chính trị của đất nước; sự phản ánh
của các thông tin cũng chân thực và khách quan hơn.
- Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai : ngày nay,
trình độ dân trí của người dân được nâng cao. Các tầng lớp nhân dân cũng ngày càng
tham gia rộng rãi hơn vào đời sống chính trị xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đó, các
phương tiện thông tin đại chúng có trách nhiệm truyền tải thông tin về các ý kiến phán
xét, đánh giá, thái độ của công chúng đối với các sự kiện, hiện tượng, diễn ra trong đời
sống xã hội. bằng cách này, công chúng sẽ có được cơ hội tham gia ngày càng tích cực

và có trách nhiệm hơn vào quá trình chuẩn bị, thực hiện và giám sát và đánh giá các chủ
trương, chính sách của đảng và Nhà nước cũng như các hoạt động cụ thể, thường xuyên
của các tổ chức chính quyền.
- Các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát triển của dư
luận xã hội: hệ thống truyền thông đại chúng phải dành phần thích đáng cho việc đăng tải
các thông tin được kiểm chứng và mang tính định hướng xây dựng. Đặc biệt, khi các sự
việc, sự kiện diễn ra có tầm quan trọng và liên quan đến lợi ích của đất nước, của dân tộc,
đụng chạm đến các giá trị chuẩn mực của xã hội cơ bản, khi đó định hướng thông tin phải
phản ánh được quan điểm của Đàng và Nhà nước, ý kiến chính thức của cơ quan chức
năng và phản ánh được sự phán xét, đánh giá chung của xã hội
Ví dụ: về vụ án cướp tiệm vàng ở Bắc Giang do tội phạm Lê Văn Luyện gây ra
đã gây xôn xao dư luận trong xã hội. các trang web, báo, tạp chí, cũng như thông in
truyền thông đã đăng tải đầy đủ về vụ án này. Biết bao ý kiến phản hồi về việc xét án,
định tội danh cho Lê Văn Luyện. Với vài trò cung cấp thông tin nhanh nhạy, chính xác,
các phương tiện thông tin đại chúng còn là nơi cư dân bàn luận công khai xung quanh vụ
án của Lê Văn Luyện. Nhờ các ý kiến đóng góp, phản hồi, mà tòa án nhận biết được yêu
cầu nguyện vọng cũng như suy nghĩ của người dân về vụ án này. Vụ án tạo được sự quan
tâm đặc biệt của mọi tầng lớp nhân dân. Và trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
dăng tải đầy đủ những định hướng, cách giải quyết của tòa án và sự phát triển của dư luận
xã hội.
. Mối quan hệ giữa thông tin với công chúng
Quan hệ giữa thông tin đại chúng với công chúng là mối quan hệ tác động hữu cơ
.Quan hệ này chịu ảnh hưởng từ hai phía:
+ ảnh hưởng bởi các thiết chế xã hội và công chúng tới HT thông tin, chẳng hạn: ảnh
hưởng bởi chính trị, giai cấp hay trình độ của công chúng
Ví dụ: như người kém văn hoá, không biết đọc, biết viết không tiếp thu đầy đủ lượng
thông tin
+ Các phương tiện thông tin cũng ảnh hưởng đến chông chúng
- Nếu các phương tiện thông tin hiện đại : Internet, truyền hình ký thuật số, báo điện tử
công chúng dễ nắm bắt, dễ tiếp thu và tiếp thông tin thu đầy đủ hơn và dễ cập nhật hơn

- Nếu phương tiện thông tin lạc hậu , chẳng hạn hệ thống phát thanh ở
địa phương , vùng sâu, xa , hải đảo lượng thông tin đến công chúng
không thuận lợi, khó tiếp thu đầy đủ
Chẳng hạn: việc phổ biến chủ trương,đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước ở vùng sâu, xa là khó khăn, nhất là vùng còn thiếu điện trước kia
+ Trình độ của công chúng cũng ảnh hưởng tới TTĐC
Câu 12. Thông tin đại chúng có vai trò như thế nào đối với đời sống
phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta hiện nay? Ý nghĩa của việc nghiên
cứu TTĐC?
Vai trò của thông tin đại chúng
+ Cung cấp cho các cá nhân những tin tức cần thiết về tình hình KT-CT-XH của đất
nước
Ví dụ: qua Internet, nghe thời sự biết được tình hình phát triển kinh tế- xa hội của đất
nước, địa phương
+ Giúp cho việc trao đổi giữa cá nhân này với cá nhân khác một cách nhanh chóng,
thuận tiện trên các lĩnh vực, các địa bàn của cả nước
Ví dụ: Internet, truyền hình trực tiếp,báo điện tử
+ Giúp cho các cá nhân tiếp nhận những vấn đề mà DLXH quan tâm.
Ví dụ: các vấn đề việc làm, giá cả, sự chuyển đổi định hướng giá trị, thay đổi lối sống
của một bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay mà hiện nay DLXH đang quan tâm trên các
diễn đàn của HTTTĐC
+ Giúp cho Đảng, nhà nước, các cơ quan quản lý các ngành chức năng nhận thức được
nguyện vọng, tâm tư của quần chúng nhân dân, qua đó làm tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước với công chúng
Ví dụ:qua truyền hình trực tiếp, thời sự, báo có thể biết được đời sống hiện tại của
người dân, ý nguyện của quần chúng nhân dân
Câu 13. Thế nào là cơ cấu xã hội? Phân tích nội dung cơ bản của cơ
cấu xã hội nghề nghiệp. Theo anh (chị) sự biến đổi của cơ cấu xã hội
nghề nghiệp ở nước ta hiện nay có tác động gì đến việc lựa chọn và định
hướng nghề nghiệp đối với học sinh phổ thông?

- Cơ cấu Xh là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của 1 hệ thống xh nhất định biểu
hiện như là 1 thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành
phần cơ bản nhất của hệ thống xh.
- ND cơ bản của CCXH nghề nghiệp: Được hình thành dựa trên sự phân công lao động
xh, từ đó dẫn đến sự chuyên môn hóa lao động và nghành nghề -> sự xuất hiện của cơ
cấu nghề nghiệp.
ND: Nghiên cứu về các nghành nghề CN, NN, DV và tỉ trọng của nó.
Đặc trưng CC nghành nghề ở Việt Nam nông nghiệp là chủ yếu.
Sự biến đổi cơ cấu nghành nghề: NN->CN->DV.
-> lựa chọn và định hướng nghành nghề.
+ Do nhu cầu xh đã xuất hiện 1 số nghành nghề mới như quản lí văn phòng, thông tin
thư viện, công tác xh, chứng khoán, bất động sản…
- Ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề đối với hs:
Học sinh có nhiều lựa chọn hơn trong việc định hướng nghề nghiệp.
Tạo ra nhiều việc làm hơn hay công việc sau khi ra trường.
Thúc đẩy các học sinh có những sáng tạo hay tư duy đổi mới kịp thời đại để dần đưa
nước ta có bước phát triển vượt bậc các quốc gia trong khu vực và nông thôn.
Câu 14. Hãy phân biệt DLXH với tin đồn, chuẩn mực xã hội. Đặc điểm,
bản chất và quá trình hình thành Dư luận xã hội.
• DLXH là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị phán xét, đánh giá và thái độ của
các nhóm XH đối với những vấn đề liên quan đến lợi ích của các nhóm trong xã hội;
DLXH được hình thành qua các cuộc trao đổi, thảo luận.
D luËn x· héi vµ mét sè kh¸i niÖm liªn quan
3.1 Dư luận xã hội và tin đồn
Cần phân biệt dư luận xã hội với tin đồn. Dư luận xã hội mang tính khách quan và
được truyền đi một cách công khai, chính thức trên các thông tin đại chúng và có tính
trách nhiệm xã hội cao bởi nó hàm chứa, gợi ý cả cách giải quyết vấn đề. Còn tin đồn là
hiện tượng truyền thông tin từ cá nhân này sang cá nhân khác mang nặng chính kiến, yếu
tố chủ quan của cá nhân, bao hàm cả sự phóng đại, xuất phát từ sự thật nhưng do qua lan
truyền nên tính bịa đặt khá cao, làm sai lệch so với thông tin ban đầu. Tin đồn thường lan

truyền thông tin không chính thức và không có trách nhiệm xã hội.
* Hay nói cách khác tin đồn là tin tức về một sự việc, sự kiện có thể có hoặc
không có thật, hoặc chỉ là sự lan truyền từ người này sang người khác nhưng thiếu dữ
liệu kiểm chứng
Tin đồn chỉ trở thành dư luận của nhóm, của tập thể khi có sự phán xét, đánh giá
về sự kiện, sự việc nào đó.
* Đặc điểm tin đồn :
- Cường độ tin đồn phụ thuộc vào tính hấp dẫn và mức độ không xác định của vấn
đề , hình thức lây lan, rút gọn chi tiết
- Cường điệu hoá các thông tin được sắp xếp theo động cơ của người truyền tin
3.2.Dư luận xã hội và chuẩn mực xã hội
Chuẩn mực xã hội là gì ?
+ DLXH có tác dụng điều chỉnh hành vi của con người , vì nó đưa ra sự nhận xét
và đánh giá trên cơ sở chuẩn mực xã hội
+ DLXH có thể góp phần tạo ra những chuẩn mực mới, vì thông qua DLXH
những chuẩn mực xã hội luôn biến đổi cho phù hợp với thực tiễn
Ví dụ : DLXH phê phán tư tưởng trong nam khinh nữ , tư tưởng tam tòng tứ đức
của xã hội phong kiến
Bản chất của dư luận xã hội
- Là sự phát ngôn chung của quần chúng về một vấn đề nào đó
- Là hiện tượng thuộc lĩnh vực đời sông tinh thần của xã hội, thể hiện tâm trạng xã hội,
nó không phải là trạng thái tinh thần thuần tuý mà là trạng thái tinh thần thực tế
- Đặc thù DLXH là mức đọ xem xét và sự thể hiện ở lời nói, thái độ, hành vi
Do vậy, + Khác thể của DLXH là những sự kiện của đời sống xã hội về : KT- XH – VH
-Đạo đức …
Chủ thể của DLXH : toàn thể xã hội nói chung
- DLXH là một hiện tượng xã hội đặc biệt hàm chứa mâu thuẫn biện chứng giữa cái riêng
và cái chung :
+ Một mặt, trong DLXH có sự hiện diện của các ý kiến cá nhân. Những cá nhân này tham
gia tích cực vào quá trình bàn bạc thảo luận, va đập ý kiến của mình với người khác về

một sự kiện, hiện tượng nào đó diễn ra trong xã hội .
+Mặt khác, DLXH lại không phải là sự tổng hợp máy móc các ý kiến cá nhân mà được
coi như sự tích hợp, đại diện của các ý kiến đó. DLXH trong trạng thái toàn vẹn của nó
không còn là ý kiến cá nhân mà là ý kiến đã được đông đảo cá nhân chia sẻ và ủng hộ .
* Đặc điểm của dư luận xã hội
(1). DLXH có tính công chúng, công khai.
Đây là đặc tính quan trọng nhất của DLXH. Nó được thể hiện trên hai phương
diện cơ bản:
- Chủ thể của DLXH.
- Đối tượng của DLXH.
+ Chủ thể của DLXH:
Tính đặc thù của DLXH gắn liền với chủ thể của nó. Nhưng việc xác định chủ thể của
DLXH là một trong những vấn đề gây tranh cãi gay gắt trong lý luận về DLXH. Có
người coi "đám đông", "công chúng" thậm chí nhóm người bất kể nhóm lớn hay nhỏ đều
là chủ thể của DLXH. ta có thể khẳng định chủ thể của DLXH là các nhóm trong xã hội
mà lợi ích của họ có mối quan hệ nhất định với các vấn đề diễn ra trong xã hội và dược
đưa ra thảo luận công khai. Trong một số trường hợp chủ thể của DLXH có thể là toàn
thể nhân dân, toàn bộ cộng đồng hoặc đại đa số. Dưới điều kiện của CNXH phát triển có
thể khẳng định một cách tương đối rằng DLXH XHCN chính là dư luận nhân dân.
+ Đối tượng của DLXH:
Ta thấy DLXH nảy sinh trước các vấn đề cấp bách và có ý nghĩa xã hội được mọi người
quan tâm và nó là sản phẩm của sự thảo luận, trao đổi giữa các ý kiến. Như vậy, ta có thể
nói rằng đối tượng của DLXH là các sự kiện, hiện tượng, quá trình đang diễn ra trong xã
hội gây được sự quan tâm của mọi người bởi mối quan hệ của chúng đến lợi ích của
nhóm xã hội đó. Song không phải tất cả mọi sự kiện, hiện tượng diễn ra đều trở thành đối
tượng của DLXH mà chỉ có những sự kiện,hiện tượng có đủ các điều kiện sau mới được
coi là đối tượng của DLXH:
* Thứ nhất, các sự kiện, hiện tượng xã hội đang diễn ra phải được xem xét trong mối
quan hệ mật thiết với lợi ích của các nhóm khác nhau.Trong đó bao gồm:
- Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng diễn ra có liên quan chặt chẽ

đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của đông đảo người dân. Ví dụ: các chủ
trương chính sách của Đảng - Nhà nước về miễn giảm thuế nông nghiệp, về cải cách chế
dộ tiền lương
- Lợi ích tinh thần được đề cập đến khi các vấn đề diễn ra đụng chạm đến hệ thống giá
trị,chuẩn mực, các phong tục tập quán, khuôn mẫu hành vivà ứng xử văn hoá của nhóm
xã hội, của cộng đồng.
Lợi ích là điều kiện cần để thúc đẩy tạo ra DLXH, còn điều kiện đủ ở đây chính là nhận
thức của nhóm về lợi ích của mình trong mối quan hệ với sự kiện, hiện tượng đang diễn
ra.
* Thứ hai, để trở thành đối tượng của DLXH các sự kiện, hiện tượng đó còn phải là các
vấn đề mang tính chất công chúng và được thông tin một cách rộng rải cho người dân
thông qua các con đường chính thức và công khai. Các con đường chính thức đó là các
kênh thông tin của Nhà nước, chính quyền, các đoàn thể có trách nhiệm liên quan đến
vấn đề và qua các kênh thông tin đại chúng (TTĐC).
(2). Tính lan truyền
DLXH được coi như một biểu hiện của hành vi tập thể, một hiện tượng được các
nhà tâm lý học xã hội và xã hội học rất quan tâm. Cơ sở của bất kỳ một hành vi tập thể
nào cũng là hiệu ứng phản xạ quay vòng trong đó khởi đầu từ phản ứng của một cá nhân
hoặc một nhóm nhỏ sẽ gây nên chuỗi kích thích của các cá nhân khác, nhóm khác. Để
duy trì chuỗi kích thích này luôn luôn cần có những nhân tố tác động lên cơ chế hoạt
động tâm lý của cá nhân và nhóm .
Đối với DLXH các nhân tố tác động có thể được coi là các thông tin bằng hình ảnh, âm
thanh sống động trực tiếp có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin này, các
nhóm công chúng khác nhau sẽ được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan tâm của mình
thông qua hoạt động trao đổi, bàn bạc tìm kiếm thông tin cùng chia sẻ trạng thái tâm lý
của mình với người xung quanh.
Ví dụ: như nhờ vào các buổi truyền hình trực tiếp về tình hình lũ lụt ở miền Trung mà
công chúng cả nước được chứng kiến những đau thương mất mát của đồng bào để từ đó
dấy lên một cách mạnh mẽ và rộng lớn phong trào ủng hộ quyên góp giúp đỡ đồng bào
qua cơn hoạn nạn.

(3). Tính biến đổi
Biến đổi theo không gian và môi trường văn hoá: Sự phán xét, đánh giá của DLXH về bất
kỳ một hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội nào cũng phụ thuộc vào hệ thống giá trị,
chuẩn mực trong nền văn hoá của cộng đồng người. Chính vì vậy với cùng một vấn đề
diễn ra nhưng DLXH của các cộng đồng người khác nhau lại thể hiện sự phán xét khác
nhau .
- Biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát trển của xã hội , những giá trị chuẩn mực văn
hoá cũng thay đổi ngay trong cùng một nền văn hoá dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn
nhận, đánh giá của DLXH. Chẳng hạn ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, khi nhà nước chịu
trách nhiệm chu cấp và đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu của người dân thì các hoạt động
buôn bán kiếm lời, làm giàu cá nhân bị xã hội lên án và quy kết thành tội đầu cơ tích trữ.
Nhưng trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay, DLXH đã không còn
đánh giá hoạt động đó một cách tiêu cực mà coi đó như hoạt động làm giàu chính đáng
của cá nhân và là một việc bình thường.
Tuy nhiên, phụ thuộc vào những bối cảnh cụ thể DLXH còn biến đổi theo đối tượng của
các phán xét đánh giá khi công chúng phát hiện thêm mối liên hệ giữa đối tượng ban đầu
với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội diễn ra kèm theo nó. Mặt khác, xuất phát là
các phán xét đánh giá bằng lời DLXH còn có thể chuyển hoá thành các hành động mang
tính tự phát hoặc có tổ chức để thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối của mình. Ví dụ:
Một mặt dư luận xãc hội lên án đòi xử lý nghiêm khắc ( thể hiện bằng ý kiến ) các vụ tội
phạm tấn công vào các chiến sĩ công an đang thi hành nhiệm vụ ; mặt khác chính người
dân đã tích cực quyên góp từ thiện ( thể hiện bằng hành động ) để hỗ trợ một phần cho
gia đình của những công an nhân dân đã dũng cảm hi sinh trong khi làm nhiệm vụ .

(4). DLXH liên hệ chặt chẽ với quyền lợi của các cá nhân và cá nhóm xã hội
Quá trình hình thành DLXH
DLXH không phải là sư tổng hợp đơn giản, máy móc những ý kiến cá nhân. Các
cá nhân là những người mang DLXH, DLXH là kết quả của sự tương tác của các ý kiến
cá nhân hình thành nên sự phán xét chung của số đông cộng đồng người.
Để trở thành DLXH, các hiện tượng, các sự kiện xã hội phải qua một số giai

đoạn, có thể hình dung Con đường hình thành DLXH như sau:
Khi có một sự kiện xã hội nào đó xuất hiện và tác động đến số đông thì mỗi người
trong số đông đưa ra những ý kiến riêng nói lên sự đánh giá của mình. Bên trong các
nhóm xã hội nhỏ đã xuất hiện các ý kiến tập thể do sự tương tác giữa các ý kiến cá nhân,
hình thành lên DLXH trong các nhóm xã hội lớn
Ví dụ: khi có một tai nạn bất ngờ xảy ra ngoài đường, sẽ có nhiều ý kiến khác
nhau về tai nạn và từ hiện trường thu được và chúng cứ hiện trường, thông tin thu được
xung quanh, cảnh sát giao thông thu được kết luận về tai nạn xảy ra đó
Các sự kiện, các hiện tượng xã hội được dư luận xã hội phản ánh phải diễn ra
theo một quá trình khá phức tạp. Trong điều kiện bình thường, quá trình hình thành dư
luận xã hội có thể chia thành các bước( các giai đoạn) sau:
a. Giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân
Các cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trực tiếp chứng
kiến hoặc nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã hội. Họ tìm
kiếm, hoặc thu thập thêm thông tin, trao đổi với nhau về nó, từ đó nảy sinh những suy
nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính chất của các sự việc, sự kiện. Nhưng
lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu đó là thuộc về mỗi người, thuộc lĩnh vực
ý thức cá nhân.
Ví dụ như: trên báo chí hoặc các thông tin ại cũng đưa tin: một học giả Trung Quốc
mới đây đã lên tiếng hối thúc chính phủ ở Bắc Kinh nhanh chóng dùng vũ lực để thực
hiện điều gọi là “chiếm lại” những hòn đảo thuộc quần đảo Tây Sa, mà Việt Nam gọi là
Trường Sa, từ tay các nước nhỏ hơn trong vùng Đông Nam Á. Trong khi đó, các nhà
quan sát tình hình Trung Quốc đã đề cập tới việc Bắc Kinh âm thầm gia tăng ảnh hưởng
ở các quốc gia Trung Á thuộc Liên Xô cũ và gợi ý rằng Trung Quốc có thể đang từ bỏ
sách lược bành trướng về hướng đông để theo đuổi chính sách Tây Tiến được Trung
Tướng Lưu Á Châu của Học viện Quốc phòng Trung Quốc mạnh mẽ cổ xướng trong
nhiều năm qua. Thông qua thông tin này, mỗi cá nhân tự tìm hiểu thêm mộ số sự kiện
liên quan, và hình thành suy nghĩ cá nhân về việc Trung Quốc định chiếm lại đảo Trường
Sa của Việt Nam. Cũng có cá nhân cho rằng, quần đảo này thuộc chủ quyền sở hữu của
Việt Nam, thuộc đại bộ phận lãnh thổ của nước ta, và Trung Quốc không có quyền chiếm

hữu, cũng như đòi lại nó, vì chưa bao giờ nó là của Trung Quốc. Trên bản đồ thế giới,
Trường Sa là của Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là nhận thức ban đầu của cá nhân người
Việt.
b. Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
Các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong nhóm xã hội. Cơ
sở cho quá trình thảo luận trong nhóm xã hội này là lợi ích chung của cả nhóm và hệ
thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang chi phối các khuôn mẫu tư duy và khuôn mẫu
hành vi của các thành viên trong nhóm. Thông qua quá trình trao đổi, bàn luận các suy
nghĩ, các ý kiến xung quanh đối tượng của dư luận mà ý kiến đã được trao đổi chuyển
dần từ lĩnh vực ý thức cá nhân sang lĩnh vực ý thức xã hội.
Ví dụ như: về việc tranh chấp ở biển Đông, đã có nhiều ý kiến cá nhân tranh luận, bàn
bạc về vấn đề này thông qua các website, báo chí, truyền thông. Và dần dần, nó trở thành
vấn đề nổi cộm được cả xã hội quan tâm, và chú ý đến. Đa số mọi người đều cho rằng:
Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam, vì nó thuộc chủ quyền lãnh thổ của người Việt
Nam, và điều đó được ghi nhận trên bản đồ thế giới. Vấn đề biển đảo ảnh hưởng trực tiếp
tới quyền và lợi ích của công dân Việt Nam. Nó thể hiện lòng yêu nước, tự tôn dân tộc
c. Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng, không phù hợp hoặc những
thông tin nhiễu về đối được sẽ bị lược bỏ. Các nhóm trao đổi, tranh luận với nhau về
những nội dung quan trọng, đưa ra các loại ý kiến khác nhau và thống nhất lại xung
quanh các quan điểm cơ bản, cùng tìm đến những điểm chung trong quan điểm và ý kiến.
Từ đó mà hình thành cách phán xét, đánh giá chung, thỏa mãn được ý chí chung của địa
đa số các thành viên trong cộng đồng người. Cơ sở cho quá trình tranh luận này vẫn là
lợi ích chung và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội chung cùng được các nhóm xã hội
chia sẻ và thừa nhận.
Ví dụ: nhà nước Việt Nam là nhà cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có một
chính đảng uy nhất đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. đã có thời kì, có nhiều ý kiến
tranh luận về con đường của Việt Nam sau này, nhưng đa số đều thống nhất con đường
xã hội chủ nghĩa là duy nhất. Một số bộ phận phản động Việt quốc, Việt cách đã và đang
tìm cách chống phá, thêm thắt một số dư luận không tốt để chống phá cách mạng và con

đường chủ nghĩa xã hội của ta. Tuy nhiên, những thông tin không chính xác, phản động
đã bị nhà nước xóa bỏ, khắc phục.Dư luận xã hội chỉ có một quan điểm tán thành về chế
độ chính trị
d. Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để đấy, chẳng có
vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện tượng vô nghĩa.Trên thực tế,
vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét, đánh giá chung, các nhóm xã hội và
cộng đồng xã hội đi tới hành động thống nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp
về hoạt động thực tiễn của họ trước thực tế cuộc sông nhất định.
Vẫn tiếp tục nói về tranh chấp biển đảo giữa Việt Nam- Trung Quốc, Cuộc tranh chấp
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cần phải giải quyết càng sớm càng tốt. Giải pháp
hiện thời, thực tiễn nhất là đem ra khối ASEAN hoặc Liên hợp quốc để giải quyết. Ngoài
ra, việc cần làm ngay là thức tỉnh ý thức dân tộc về biển và bảo vệ chủ quyền trên hai
quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa bằng cách thông tin, giáo dục rộng rãi cho dân chúng
như đã xây dựng ý thức dân tộc giành độc lập, thống nhất đất nước trước kia. Hiện nay,
trên các website, công dân yêu nước đã và đang lập các khẩu hiệu phản đối Trung Quốc
như:” Trường Sa- Hoàng Sa là của Việt Nam”, đồng thời cư dân trên mạng Việt Nam
cũng tạo ra cờ Việt phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc. đi từ ý kiến thảo luận,
bàn bạc, người Việt đã có những hành động cụ thể để thể hiện ý kiến của cộng đồng, và
vì lợi ích của chính dân tộc mình.
Như vậy, dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Không có sự trao
đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau thì không thể có ý kiến phán
xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người chia sẻ, tán thành và ủng hộ. Tất nhiên, sự
phân tích khách quan về mối tương quan giữa ý kiến của tập thể, của cộng đồng cần phải
được đặt vào cơ cấu xã hội hiện hành, phải xem xét đến các yếu tố trình độ kinh tế, chính
trị, tinh thần, trình độ văn hóa, tính tổ chức của tập thể cộng đồng ấy.
* Tóm lại quá trình hình thành DLXH gồm các bước sau :
+ Sự tiếp xúc, làm quen, chứng kiến, hình dung sự kiện của các cá nhân, nhóm xã
hội tạo nên cảm giác ban đầu xung quanh những thông tin về các hiện tượng của sự kiện
đó

+ Trao đổi , bàn luận về các cảm nghĩ , các ý kiến xung quanh đối tượng của dư
luận .Từ đây ý kiến cá
của cá nhân chuyển từ ý thức cá nhân sang ý thức xã hội
+ Các ý kiến cá nhân khác nhau được thống nhất lại xung quanh các quan điểm
cơ bản , hình thành quan điểm đánh giá chung về sự kiện xã hội , sự đánh giá của cá nhân
phù hợp với sự nhận định của đa sè céng ®ång ngêi
+ Từ việc đánh giá dẫn đến sự phán xét về hành động đễn những kiến nghị trong
hoạt động thực tiễn
Như vậy, DLXH hình thành qua các giai đoạn sau :
+ Hình thành
+ Thể hiện
+ Thực hiện hoá trong thực tế
Tóm lại : DLXH được hình thành qua sự bàn bạc , do va chạm giữa các ý kiến
khác nhau, hay có sự phán xét khác nhau. Nó là sản phẩm hoạt động giao tiếp xã hội, nếu
không có giao tiếp xã hội thì không có tính sáng tạo tập thể, không có sự phán xét , đánh
giá chung của đại đa số cộng đồng người
Câu 15. Hãy phân tích những nhân tố tác động đến sự hình thành
DLXH. Theo anh(chị), hiện nay DLXH đang nổi lên quan tâm nhất tới
những vấn đề gì?
Sự hình thành DLXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, về KT-CT-
VH-XH. Các yếu tố tác động đến việc hình thành DLXH :
a. Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội đang diễn ra
trong xã hội
Thực tế xã hội luôn diễn ra đa dạng, phong phú và phức tạp với nhiều sự việc, hiện
tượng xã hội hay quá trình xã hội khác nhau. Dư luận xã hội là hiện tượng tinh thần phản
ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó trước hết phụ thuộc vào quy mô, cường độ, tính chất
của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội mà nó phản ánh; đồng thời phụ thuộc và ý
nghĩa của các sự việc, hiện tượng đó đối với các nhu cầu, lợi ích về vật chất, tinh thần của
cộng đồng người mang dư luận.
Ví dụ như: Theo thông tin từ Cục Y tế dự phòng, tính đến nay cả nước đã có hơn

18.000 ca mắc bệnh tay chân miệng, trong đó có 59 ca tử vong.Hiện nay, dịch bệnh tay
chân miệng không chỉ bùng phát ở trẻ nhỏ, mà đã xuất hiện trường hợp người lớn bị
nhiễm bệnh này.Với tính chất nguy hiểm, nghiêm trọng, những dư luận, ý kiến bàn bạc
về dịch bênh này đã lan truyền di nhanh. Do tính chất cấp bách của sự kiện này, nó đã tạo
ra một luồng dư luận lớn trong xã hội, tìm cách nào đó để ngăn chặn sự lây lan của dịch
bệnh, cũng như thảo luận các biện pháp phòng chống căn bệnh này. Chính tính nóng sốt,
sự cấp thiết và nghiêm trọng của dịch bệnh này, đã tạo ra dư luận xã hội nhanh chóng.
b. Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của
con người Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào hệ tư tưởng, trình độ học vấn,
kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của các cá nhân, các nhóm xã hội trong
xã hội. Nói cách khác là mức độ chuẩn bị của cộng đồng người để tiếp nhận các sự việc,
sự kiện, hiện tượng cần thiết. Nếu thông tin không đầy đủ thì dẫn đến khả năng tranh luận
kéo dài, không hình thành dư luận xã hội. Hệ tư tưởng, trình độ học vấn của con người
cũng ảnh hưởng quan trọng tới khuynh hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng sai của
các ý kiến, các quan điểm phán xét, đánh giá đối với sự việc, sự kiện.
Ví dụ: khi nói về chế độ chính trị ở Việt Nam, một số bộ phận phản quốc phản cách đã
tuyên truyền về việc ở Việt Nam chỉ có một chính Đảng lãnh đạo. Điều đó sẽ tạo ra sự
độc quyền, chuyên chế, không mang tính dân chủ. Nhưng bộ phận trí thức, có học đều
nhận rõ ra mục đích chống phá của bọn phản cách mạng. Những dư luận chúng tạo ra chỉ
làm ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc và đi sai lệch định hướng của Đảng và nhà nước.
chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam do một chính Đảng duy nhất lãnh đạo- Đảng cộng
sản Việt Nam- là nhà nước của dân, do dân và vì dân, có sự thống nhất chặt chẽ giữa các
cơ quan, chuyên ngành và ý chí, nguyện vọng của dân. Nhưng một số ít công dân ít học
đã tin vào dư luận do bọn phản cách mạng tạo ra và gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, lan
truyền những dư luận sai lệch cho xã hội, và chính bản thân họ. Như vậy, trình độ học
vấn có ảnh hưởng lớn đến dư luận xã hội. nó quyết định tính chất tốt, xấu, lợi hại cho xã
hội.
c. Thông tin đại chúng
- Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp thời và đầy
đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội

- Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai
- Các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát triển của dư
luận xã hội
Ví dụ: về vụ án cướp tiệm vàng ở Bắc Giang do tội phạm Lê Văn Luyện gây ra
đã gây xôn xao dư luận trong xã hội. các trang web, báo, tạp chí, cũng như thông in
truyền thông đã đăng tải đầy đủ về vụ án này. Biết bao ý kiến phản hồi về việc xét án,
định tội danh cho Lê Văn Luyện. Với vài trò cung cấp thông tin nhanh nhạy, chính xác,
các phương tiện thông tin đại chúng còn là nơi cư dân bàn luận công khai xung quanh vụ
án của Lê Văn Luyện. Nhờ các ý kiến đóng góp, phản hồi, mà tòa án nhận biết được yêu
cầu nguyện vọng cũng như suy nghĩ của người dân về vụ án này. Vụ án tạo được sự quan
tâm đặc biệt của mọi tầng lớp nhân dân. Và trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
dăng tải đầy đủ những định hướng, cách giải quyết của tòa án và sự phát triển của dư luận
xã hội.
d. Những nhân tố thuộc về tâm lí xã hội
Trạng thái tâm lí xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen, nếp sống, ý
chí, tâm trạng hay tình cảm của nhóm xã hội, cộng đồng người đã được hình thành do
ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày hoặc do tác
động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ảnh hưởng của nhân tố này có nhiều mặt đôi
khi khó nhận biết. tùy từng thời điểm nhất định, tâm trạng của con người có thể được thể
hiện ở các trạng thái khác nhau, thậm chí đối lập nhau như hưng phấn hoặc ức chế, tích
cực hoặc tiêu cực, lạc quan hoặc bi quan, yêu đời hoặc chán nản, hy vọng hoặc thất
vọng Khi con người đang ở trong tâm trạng phấn chấn, hồ hởi thì nội dung phán xét,
đánh giá về sự kiện, hiện tượng xã hội sẽ có những khía cạnh khác với khi đang ở trong
tâm trạng bi quan, chán nản. Thường khi phấn chấn, lạc quan thì thấy nhiều thuận lợi
hơn, ít thấy khó khăn và ngược lại. những nếp nghĩ bảo thủ, di sản của quá khứ cũng có
thể ảnh hưởng tới sự hình thành dư luận xã hội nếu không có sự định hướng đúng đắn.
e. Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị- xã hội
Mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội, khả năng và sự tham gia thực tế của người dân
vào các sinh hoạt chính trị- xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất quan trọng tới sự hình
thành dư luận xã hội. Trong điều kiện xã hội có dân chủ rộng rãi, có thông tin đa dạng,

phong phú thì mọi người dân sẵn sàng thẳng thắn, cởi mở, bộc lộ các ý kiến, quan điểm
của mình, tham gia bàn bạc các vấn đề chung, do vậy, dư luận xã hội có điều kiện hình
thành thuận lợi. ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn,
thậm chí bị cắt xén, xuyên tạc thì dư luận xã hội thường hình thành khó khăn, chậm chạp.
Ví dụ: trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, dưới chế độ Mĩ- Diệm, người dân
Việt Nam không có tự do dân chủ, cũng như không được phép tham gia, bàn bạc, hay
thảo luận những vấn đề mang tính chính trị cũng như trong đời sống văn hóa. Người dân
bị gò bó, ép buộc trong khuôn khổ pháp luật không có tự do dân chủ nên việc hình thành
dư luận rất khó khăn, thường người dân chỉ tạo ra những câu hò vè, châm biếm về chế độ
Mĩ- Diệm. Nhưng khi đất nước thống nhất, người dân được tự do bàn bạc, thảo luận,
được trực tiếp đi bỏ phiếu bầu ra cơ quan lãnh đạo đất nước thuộc các cấp ngành từ trung
ương đến dịa phương, được trực tiếp bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, yêu cầu, nêu ra các ý
kiến về chế độ chính trị về văn hóa và các nhu cầu thiết yếu khác. Lúc này, xã hội có
nhiều dư luận khách quan hơn.
f. Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang hiện hành
trong xã hội
Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang hiện hành trong
xã hội trong chừng mực nhất định tác động tới sự hình thành dư luận xã hội. về cơ bản,
các phong tục tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã hội hiện hành, tạo ra những khuôn mẫu
tư duy, khuôn mẫu hành động làm cơ sở cho việc phán xét, đánh giá, khác nhau về cùng
vấn đề. Điều này thể hiện rõ nét qua sự nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ đối với
những biểu hiện của lối sống hiện đại như cách ăn mặc, các sản phẩm ca nhạc và phim
ảnh, cách sinh hoạt, vui chơi, giải trí
Ví dụ: trong xã hội thực dân nửa phong kiến, khi mà ý thức hệ tưởng phong kiến vẫn
còn tồn tại sâu đậm trong nếp sống của con người, cách ăn mặc theo lối Âu hóa trở nên
kệch cỡm, lố bịch với các trang phục như “ỡm ờ, ngay thơ, trong trắng ” hay các khẩu
hiểu trên vai của các cảnh sát giao thông như “ typn”( có nghĩa là: tôi yêu phụ nữ) tạo ra
nhiều phê phán, chỉ trích gay gắt. hệ tư tưởng phong kiến đã tạo ra chuẩn mực đạo đức
trong xã hội như ăn mặc kín đáo, lịch sự như áo tứ thân, yếm dào, con gái theo đạo tam
tòng, tứ đức, làm trai phải” tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhưng trong xã hội

hiện đại, con người lại quan niệm về cách ăn mặc có phần mới mẻ hơn, theo cách ăn mặc
Âu hóa, tuy nhiên sự thay đổi này vẫn dựa trên hệ tư tưởng, chuẩn mực phong kiến. Nếu
có sự phá cách lộ liễu, hay mát mẻ quá, ngay lập tức cá nhân sẽ bị xã hội lên tiếng phê
phán.

×