Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

đề cương Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.71 KB, 36 trang )

TRƯỚC ĐỔI MỚI
Câu 1. Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu? Phân tích sự sáng tạo của ĐCS
trong cương lĩnh đầu tiên?
Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu?
*Mở bài: Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử hào hùng nhất,
oanh liệt nhất và vẻ vang nhất. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn
cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu
tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát
triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thân bài: Và vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu thì trước tiên cần phải nắm được
hoàn cảnh lịch sử của thế giới và trong nước. Trên thế giới nhân dân các dân tộc bị áp bức
đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào giải
phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, cùng với đó là sự thắng lợi của cuộc cách mạng
Tháng Mười Nga (1917) mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới chống lại
giai cấp tư sản, và dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản, những tư tưởng cách
mạng cấp tiến đang dội vào các nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Mười Nga và những
hoạt động cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước trong đó có Việt Nam. Sự ra đời của Đảng là kết quả
của quá trình lựa chọn con đường cứu nước. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm
lược giành độc lập dân tộc tuy diễn ra liên tục mạnh mẽ, nhưng các phong trào đều lần
lượt bị thất bại vì đã khơng đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau
đang bế tắc về đường lối thì khuynh hướng vơ sản thắng thế: Phong trào dân tộc đi theo
khuynh hướng vơ sản.
Và tình hình trong nước ở thời điểm hiện tại cùng các phong trào yêu nước nổi dậy giành
độc lập dân tộc thất bại cũng là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành ĐCSVN. Trong
nước dưới sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các
mâu thuẫn cơ bản trong lịng xã hội Việt Nam. Tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội,
đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải
phóng. Một số phong trào đấu tranh nổ ra như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên


Thế, hay phong trào yêu nước với xu hướng bạo động vũ trang bạo động do Phan Bội
Châu tổ chức, lãnh đạo, xu hướng cải cách bất bạo động của Phan Châu Trinh đều thất bại.
do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa
tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã
hội cơ bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Thất bại của các
phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều
kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam


và cần phải tìm một con đường cách mạng mới, giải quyết sự khủng hoảng này, nói cách
khác là việc thành lập một chính đảng có đủ tư cách đại diện cho quyền lợi của dân tộc,
của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi
đến thành công là một nhu cầu cấp thiết của CM trong nước và đó chính là sự ra đời của
ĐCSVN.
Bên cạnh đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy
luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về
giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta. Những sự kiện năm 1925 đến năm
1929 đã chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành “đủ sức lãnh đạo cách
mạng”. Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước là đi theo con đường cách mạng
vơ sản, chỉ có GCCN là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng
mà GCCN muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản. Sự thành lập Đảng
cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào cơng nhân từ tự phát thành tự giác,
phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp cơng nhân
chống chủ nghĩa tư bản, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa MácLênin.
Kết bài: Ngoài ra những yếu tố bên ngoài cũng ảnh hưởng đến sự ra đời của ĐCS, hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết để hòa nhập với phong trào công
nhân thế giới và các cuộc đấu tranh dân tộc dân chủ trên thế giới. Dần dẫn đến các hoạt
động hợp pháp hơn của đảng đối với thực dân Pháp và quốc tế. Tạo ra khả năng thuận lợi

để liên kết giữa các đảng cộng sản ở các nước có quan hệ với nhau theo mục tiêu chung.
Và Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và con
đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản, là chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ngày 3-2-1930 thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phân tích sự sáng tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên?
* Mở bài: Đường lối lãnh đạo là một trong những vấn đề chiến lược của mỗi Đảng cầm
quyền. Xác định được điều đó, ngay từ khi ra đời, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng
sản vào tháng 2-1930, Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo và đã được thông
qua. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng bao gồm một số văn kiện trong đó văn kiện
nổi bật nhất hợp thành cương lĩnh đó là Chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt. Mặc dù
còn sơ lược, vắn tắt nhưng nó đã vạch ra được những vấn đề cơ bản nhất của CM VN
khẳng định tính đúng đắn sáng tạo khoa học và trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng ta trong mọi thời kỳ cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay.
Thân bài: Và để nhận thấy được tính sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của
ĐCS thì cần phải hiểu được nội dung của cương lĩnh. Đường lối của CM VN được xác
định trong cương lĩnh chính trị đầu tiên là CMVN trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu


tiên là làm CM để GPDT và để giải phóng giai cấp được thể hiện qua 2 cuộc CM riêng
biệt là CM tư sản dân quyền (sau này gọi là CM giải phóng dân tộc) và CM và thổ địa
CM (CM ruộng đất hay CM dân chủ), giai đoạn tiếp theo là làm CMXHCN để đi tới XH
cộng sản. Hai giai đoạn CM kế tiếp và ko tách rời nhau. Đây là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản bao gồm ba nội dung gắn bó với nhau: dân tộc ,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nội dung thứ hai được xác định trong cương lĩnh là nhiệm vụ của CM VN. Trong giai
đoạn thực hiện chiến lược cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa, hai nhiệm
vụ của cách mạng VN được xác định trong cương lĩnh là đánh đổ ách thống trị của đế
quốc Pháp (nhiệm vụ dân tộc), đánh đổ vua quan phong kiến và tư sản phản CM (nhiệm
vụ dân chủ), như vậy theo cương lĩnh đánh đuổi đế quốc Pháp để giành độc lập dân tộc và

đánh đổ vua quan PK và tư sản phản CM là để giải phóng giai cấp, trong đó nhiệm vụ dân
tộc được đặt lên hàng đầu.
Tiếp đến là mục tiêu của CM. Mục tiêu của CM được xác định trong cương lĩnh đầu tiên
là làm cho nước VN hoàn toàn độc lập, dựng nên chính phủ và qn đội cơng nông, tịch
thu sản nghiệp của bọn đế quốc, địa chủ, tư sản phản CM đem chia cho dân cày nhằm giải
quyết vấn đề ruộng đất.
Giai cấp lãnh đạo và lực lượng CM cx là một nội dung quan trọng được xác định trong
cương lĩnh. Theo đó, lực lượng lãnh đạo CM là ĐCSVN, là đội tiên phong của GC vô sản,
cơng nhân, nơng dân là lực lượng CM nịng cốt, là gốc của CM, bầu bạn với CM là tiểu tư
sản, trí thức, cịn với phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư sản dân tộc thì lợi dụng, lơi kéo
hoặc trung lập họ, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản trên thế giới.
Như vậy lực lượng CM bao gồm tất cả các giai cấp tầng lớp trong XH, toàn thể dân tộc và
kẻ thù của CM chỉ có tư sản mại bản và đại địa chủ mà thôi.
Về quan hệ quốc tế thì CMVN là một bộ phận khăng khít của CM thế giới. Đoàn kết chặt
chẽ với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Từ nội dung trên ta nhận thấy rằng tính sáng tạo của cương lĩnh được thể hiện thông qua
những điểm sau:
Thứ nhất, cương lĩnh chính trị đầu tiên đã đặt vấn đề giải phóng dân tộc về phạm vi
của VN, về phương pháp cách mạng Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo
lực cách mạng. Cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa
trên thế giới. Cách mạng Việt Nam là một phần của cách mạng thế giới.

Thứ hai, sáng tạo trong cương lĩnh là NAQ đã đưa CM ruộng đất ra bên ngoài khái
niệm CM tư sản dân quyền, đề cao vấn đề dân tộc hơn vấn đề đấu tranh giai cấp và chống
phong kiến vì xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải
quyết các mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc, là nhiệm vụ cốt


lõi, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, thể hiện được vấn đề đoàn kết dân tộc về việc lựa chọn lực lượng CM, khi
xác định lực lượng cách mạng khơng chỉ có cơng- nơng là gốc, là động lực của cách mạng
mà cịn có trí thức, trung và tiểu địa chủ thì lợi dụng hoặc trung lập họ. Mặc dù rõ ràng
trong XH VN hiện tại đã xuất hiện phú nông, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ và họ là
những giai cấp thống trị, bóc lột chưa lộ rõ mặt phản CM nhưng vẫn được lãnh tụ NAQ
đưa vào lực lượng làm bạn với CM là vì họ cũng chỉ là những lực lượng ko có thế lực
mạnh, ko có cơ sở kinh tế và giai cấp đủ mạnh để có thể áp bức hồn tồn giai cấp công
nông dân mà bản thân họ cũng bị đại địa chủ, tư sản mại bản và đặc biệt là đế quốc Pháp
áp bức, bóc lột nên họ ít nhiều cũng có tinh thần dân tộc cho nên phải lơi kéo hoặc trung
lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị đối
với kẻ thù thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng đối với mỗi giai cấp, mỗi tầng
lớp, thừa nhận tính tích cực và đóng góp của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng là một nét sáng tạo rất độc đáo của NAQ so với thế giới
được thể hiện trong cương lĩnh chính trị.
Kết bài: Như vậy, NAQ đã tranh thủ tối đa lực lượng CM, cô lập tối đa lực lượng kẻ thù.
Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở cơng - nơng trí thức liên minh. Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo tuy còn vắn tắt nhưng
rất đầy đủ, là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp,
thấm đượm tinh thần dân tộc và tinh thần nhân văn. Độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng
cốt lõi của cương lĩnh.
Câu 2. Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền của ĐCS Đông
Dương(1939-1945)? liên hệ với việc nắm bắt thời cơ hiện nay của VN?
Bối cảnh lịch sử :
Tháng 9/1939 thế chiến thứ hai bùng nổ đã chi phối điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội của tất
cả các nước liên quan. Mặt trận Nhân dân Pháp tan vỡ. Ở Đông Dương, chính quyền thực
dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thủ tiêu mọi
quyền tự do cơ bản của nhân dân thuộc địa, cấm tun truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng Sản
ngồi vịng pháp luật, đồng thời tăng cường vơ vét sức người sức của, áp bức bóc lột cơng
khai các nước thuộc địa để phục vụ cho chiến tranh ở chính quốc. Tháng 9/1940 quân phiệt
Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng, bắt tay câu kết
với Nhật để cùng thống trị nhân dân Đông Dương trong đó có Việt Nam ta. Dân ta lâm vào

cảnh “1 cổ 2 tròng” ---� mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với bè lũ thực dân Pháp- phát
xít Nhật xâm lược càng trở nên gay gắt. Nước ta rơi vào cảnh bần cùng về kinh tế, ngột ngạt
về chính trị sâu sắc hơn bao giờ hết.
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trước sự khủng bố quyết liệt của kẻ thù,
Đảng Cộng sản Đông Dương chủ động rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm cơng tác
về nơng thơn, đồng thời tích cực chuẩn bị đường lối đấu tranh giành chính quyền cho nhân
dân với thơng báo “ Hồn cảnh Đơng Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”�
nắm bắt thời cơ, chuẩn bị đầy đủ các phương diện để đưa nhân dân bước vào thời kì trực


tiếp vận động giải phóng dân tộc.
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai đi đến giai đoạn kết thúc. Chủ nghĩa phát xít liên
tiếp thua trận, đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân đội các nước đồng minh
chuẩn bị đổ bộ vào Đông Dương. Trong tình thế khó khăn đó, phát xít Nhật tiến hành cuộc
đảo chính, lật đổ Pháp (9/3/1945) để độc chiếm Đơng Dương. Về phía ta, ngay sau khi Nhật
đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh),
ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ
thù cụ thể trước tộc, duy nhất của nhân dân Đơng Dương lúc này là phát xít Nhật. Vì vậy,
cần phải thay khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi Nhật” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật.
Đầu tháng 8/1945, chiến tranh thế giới thứ hai đi đến những ngày cuối cùng. Sau khi tiêu
diệt hồn tồn phát xít Đức, chấm dứt chiến sự ở châu Âu, các nước trong phe Đồng minh
(đứng đầu là Mỹ và Liên Xô) dồn sức tiêu diệt phát xít Nhật ở châu Á, buộc chính phủ Nhật
Hồng phải tun bố đầu hàng khơng điều kiện (13/8/1945). Tin tức đầu hàng nhanh chóng
lan đi khắp mặt trận. Qn đội Nhật chiếm đóng ở Đơng Dương bị tê liệt, mất tinh thần
chiến đấu, chính phủ bù nhìn hoang mang cực độ. Thời cơ cách mạng xuất hiện, khơng khí
cách mạng sục sơi trong cả nước.
Theo sự thỏa thuận của các nước đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch (Trung
Hoa Dân quốc) sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh - Pháp sẽ vào miền Nam Việt
Nam (lấy vĩ tuyến 16 phân chia) làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất đều
muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đơng Dương, thành

lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị, nô dịch lâu dài.
Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đơng Dương triệu tập Hội nghị
tồn quốc (từ 13-15/8/1945) họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), nhận định thời cơ đã đến,
quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân
đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ
đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ủy ban Khởi nghĩa ra quân lệnh số 1:
“Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền
độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả
cảm, vơ cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hồn tồn nhất định sẽ về ta”.
� chớp lấy thời cơ , khơng thể chậm trễ hơn nữa, chanh chóng phát đi lệnh khởi nghĩa trên
toàn quốc đưa cách mạng đi đến thành công.
Điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ:
Thứ nhất, về việc xác định thời cơ, lúc này tình thế đã hồn tồn khác với thời điểm ngày
9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp. Lúc đó, trong Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” (ngày 12/3/1945), Đảng ta đã nhận định là “những điều kiện khởi nghĩa
chưa thực chín muồi”, do giữa Pháp và Nhật “chưa chia rẽ, hoang mang, do dự đến cực
điểm”; sự giác ngộ và đồng lòng của nhân dân cần có thêm thời gian tuyên truyền, vận
động; lực lượng chưa được chuẩn bị đủ và sẵn sàng. Đến tháng 8/1945, tình thế đã thay đổi:
Pháp chưa nắm lại được chính quyền, Nhật thì hoang mang cực độ, chế độ quân chủ gần
như sụp đổ, nhân dân đã vùng dậy (từ tự phát phá kho thóc của Nhật đến việc nổi dậy giành
chính quyền ở cơ sở tại một số nơi), lực lượng đã được chuẩn bị cơ bản, không chỉ ở chiến


khu Việt Bắc mà còn nhiều nơi khác…
Thứ hai, về chủ trương, từ tháng 3 đến tháng 8/1945, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương
nhằm chuyển hướng đấu tranh cách mạng, củng cố lực lượng… Bằng nhiều hình thức,
Trung ương Đảng đã chỉ đạo các Xứ ủy Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ đề ra các nhiệm vụ cụ
thể trong phạm vi hoạt động của mình.
Thứ ba, về lực lượng, đây là sự chuẩn bị lâu dài. Từ khi lãnh tụ Hồ Chí Minh về nước hoạt
động, tháng 5/1941, chỉ hơn 3 tháng sau khi về nước, Người thành lập Mặt trận Việt Minh

để tập hợp các lực lượng tham gia giành độc lập. Người mở nhiều lớp huấn luyện quân sự
cho cán bộ, xây dựng căn cứ địa... Ngày 22/12/1944, Người giao đồng chí Võ Nguyên Giáp
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đơn vị vũ trang chính thức đầu tiên
của cách mạng, nhưng nhiệm vụ chính khơng chỉ có hoạt động vũ trang mà cịn có hoạt
động tun truyền. Người cũng tranh thủ các đơn vị của Mỹ trong lực lượng Đồng minh để
giúp đỡ vũ khí và tham gia huấn luyện quân sự, đây chính là lực lượng nịng cốt để hành
qn về Hà Nội để cùng nhân dân giành chính quyền. Dĩ nhiên, trong q trình đó, lực
lượng tối quan trọng vẫn là các tầng lớp nhân dân đã được giác ngộ, vận động và tập hợp
trong nhiều tổ chức, dưới nhiều hình thức.
Thứ tư, về các chỉ đạo cụ thể, tháng 8/1945, Hồ Chí Minh đã có thư kêu gọi khởi nghĩa, ban
hành mệnh lệnh khởi nghĩa, công bố Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa tồn quốc…
Tiếp đó, Người cùng Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14 và
15/8/1945) và tổ chức Đại hội Quốc dân ở Tân Trào (ngày 16/8/1945). Đại hội đã nhiệt liệt
tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh. Đại hội quyết định
toàn dân đồn kết đứng lên vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền; thơng qua 10 chính sách
lớn của Việt Minh; bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch; thống nhất quy định Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc ca của nước Việt
Nam mới…
----> Như vậy, sự kiện Nhật đầu hàng Đồng minh, Thế chiến II kết thúc, chế độ phong kiến
ở Việt Nam sụp đổ kết hợp với sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt đã trở thành cơ hội cách
mạng, thời cơ “có một khơng hai” của một cao trào mang tính quyết định của cách mạng
Việt Nam. Yếu tố thời cơ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đối với cách
mạng Việt Nam, góp phần to lớn để đưa đến thắng lợi cuối cùng trong đường lối đấu tranh
giành chính quyền của Đảng cộng sản Đông Dương.
*Liên hệ bài học nắm bắt thời cơ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
Nắm bắt thời cơ không chỉ đem lại thắng lợi to lớn trong đường lối đấu tranh giành chính
quyền của Đảng cộng sản Đông Dương giai đoạn 1939- 1945, mà nắm vững bài học đó,
Đảng ta đã nhiều lần giành thắng lợi trong suốt chiều dài đấu tranh giành độc lập. Nổi bật
nhất là trong đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng ta đã liên tiếp có những quyết định sáng
suốt và kịp thời để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong đó có việc giải phóng

các đảo trong quần đảo Trường Sa trước khi đánh bại hoàn toàn chế độ Sài Gịn.
Tiếp theo đó, sau khi nhận thức được tồn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một
diễn biến khách quan mang tính tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị một
tâm thế sẵn sàng hội nhập, bắt đầu từ kinh tế, văn hóa, thể thao cho đến chính trị. Tranh thủ
cơ hội để mở rộng hợp tác với tất cả các nước, đưa sản phẩm của Việt Nam vươn xa ra thế


giới. Việt Nam đã gia nhập ASEAN, trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc… Vị thế, vai
trị và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, cải thiện được đời
sống của nhân dân cả nước, thúc đẩy quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới nói chung
và cả Việt Nam nói riêng. Ngay từ khi dịch bệnh bắt đầu, Đảng ta đã chớp lấy thời cơ tiến
hành hàng loạt các biện pháp phịng chống tích cực, cử các lực lượng liên quan tiến hành
vây quét, truy vết các F0,F1, ..xây dựng các chốt kiểm dịch, nắm chắc thời cơ để kiểm soát
được tốt nhất, nhằm ngăn chặn tối đa sự lây lan dịch bệnh, bảo đảm an toàn cho nhân dân cả
nước. Hơn thế nữa, việc nhanh chóng nghiên cứu sản xuất ra vắc xin và tìm ra phương pháp
điều trị , xây dựng các bệnh viện dã chiến, khu cách li tập trung cũng được nhà nước và các
cơ quan gấp rút thực hiện. Việc chớp lấy thời cơ đàm phán mua vắc xin với các nước để
phục vụ nhu cầu của nhân dân cũng được nhà nước đặc biệt quan tâm thực hiện nhanh
chóng nhất có thể
====>> Thời cơ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, chớp lấy thời cơ là chớp lấy cơ hội, vì
vậy, việc nắm bắt và vận dụng thời cơ của Cách mạng tháng Tám vẫn là bài học lớn của
Đảng, của đất nước được áp dụng xuyên suốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển ở nước
ta trong hiện nay và mai sau.

Câu 3. Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng
chế độ mới( chế độ dân chủ nhân dân) (1945-1954)
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Đảng ta áp dụng

phương châm này không chỉ trong công cuộc kháng chiến chống giặc mà còn trong cả giai
đoạn xây dựng chế độ mới, là xây dựng căn cứ địa cho Cách mạng. Chính vì vậy mà giữa
đường lối kháng chiến và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ song song và chặt
chẽ.
Đầu tiên, về đường lối kháng chiến chống Pháp, mục đích kháng chiến là kế tục và phát
triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, "Đánh thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất
và độc lập". Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của
nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất tồn dân, tồn diện và lâu dài. Nó là
một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hịa bình.
Xuất phát từ lịng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Chủ tịch Hồ Chí


Minh nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân.
Người giải thích, tồn dân kháng chiến chính là: "Bất kì đàn ơng đàn bà không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một
pháo đài. Trong cơng cuộc xây dựng chế độ mới, tồn thể nhân dân chính là nguồn lực
chính để thay đổi đất nước, tất cả mọi người cùng nhau góp sức. Bất kì người dân, khơng
phân biệt văn hóa, vùng miền, tơn giáo , tuổi tác…đều có thể đóng góp cơng sức làm nên
sức mạnh tập thể đất nước, thay đổi bộ mặt nước nhà.
Về đường lối kháng chiến toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đồn kết tồn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc u chuộng tự do, hịa
bình. Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, tiêu diệt địch… Về kinh tế: xây dựng kinh tế tự
cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và cơng nghiệp
quốc phịng.Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ
mới.Về ngoại giao: thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. Trong công cuộc xây dựng chế độ
mới, Đảng ta chủ trương xây dựng toàn diện, mọi mặt. Đó là sự thay đổi và xây dựng trên mọi
bình diện và lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ có sự tập
trung xây dựng toàn diện, đồng đều mới đưa đất nước tiến lên chế độ mới với sự phát triển

nhanh chóng và hợp lý.
Việc thực hiện đường lối kháng chiến lâu dài để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của
Pháp; để chuyển hóa tương quan lực lượng đánh thắng địch; để củng cố hậu phương vững
chắc. Điều này càng được áp dụng vào trong công cuộc xây dựng chế độ mới. Toàn dân ra sức
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân với tâm thế kỹ lưỡng, cẩn thận và đúng đắn nên khơng thể
hồn thành trong thời gian ngắn mà phải tiến hành lâu dài, có đường lối xây dựng cụ thể.
Phương châm dựa vào sức mình là chính có nghĩa là: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt". Nhân
dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua sản xuất, huy động hết sức người, sức của để xây dựng
cơ sở vững chắc cho nền công nghiệp, nông nghiệp. Chỉ có lao động mới tạo ra của cải vật chất.
Vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh, kháng chiến
dựa vào ý chí và sức mạnh nước nhà. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các


nước, song lúc đó cũng khơng được ỷ lại.

Câu 4. Tư tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn (1959-1964)
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều
lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trang ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.
Trung ương Đảng nhận định: "hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai
nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ
hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là giữ vững hịa bình, thực hiện thống nhất
nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là ''giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam". "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở
miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân". Đó là con đường "lấy sức mạnh
của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng
vũ trang đế đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách
mạng của nhản dân". "Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hịa

bình, phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở
miền Nam có lợi cho cách mạng: Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta khơng gạt bỏ khả
năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo
của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Q trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là q trình hình
thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được "hoàn chỉnh tại Đại hội lần
thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Đại hội đã
hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể
là:
Nhiệm vụ chung: "tăng cường đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hịa bình, đẩy


mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây
dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đông Nam Á và thế giới".
Nhiệm vụ chiến lược: "Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến
lược. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành
độc lập và dân chủ trong cả nước". "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng
ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của
mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu
thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện
mục tiêu chung trước mắt là hịa bình thống nhất Tổ quốc".
Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện mệt mục tiêu chung nên "Hai nhiệm
vụ chiến lược ẩy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".
Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn
cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai, thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân trong cả nước.
Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng,
Đảng kiên trì con đường hịa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực
hiện hiệp thương tổng tuyển cử hịa bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được
sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. "Nhưng
chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ
và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả
nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là
một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và


bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam
Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trong ương Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm
Bí thư thứ nhất.
- Ý nghĩa của đường lối: ( cần thì ghi)
Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ
III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
+ Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc, vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với
cả nước Việt Nam, vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức
mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách
mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xơ và Trung Quốc. Do đó

đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
+ Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách mạng Việt
Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những
vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của
nhân loại và xu thế của thời đại.
+ Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để
Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây đựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ và tay sai ở miền Nam.
Đường lối của Đại hội III được Đảng bổ sung, phát triển qua quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng ở mỗi miền trong những năm 1960-1965. Trong đó, đối với miền Bắc, các Hội nghị Trung
ương lần thứ tư (tháng 4-1961) đã bàn về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị Trung ương lần
thứ năm (tháng 7-1961) bàn về phát triển nông nghiệp, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng
6-1962) bàn về phát triển công nghiệp. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (tháng 12- 1964) bàn về
lưu thông, phân phối... Đối với cách mạng miền Nam, các Hội nghị Bộ Chính trị đầu năm 1961,
1962 đã chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công của cách mạng. Bộ Chính trị chủ
trương kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh
đấu tranh chính trị, đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang lên một bước mới, ngang tầm với đấu


tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị song song, đẩy
mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp cơng: qn sự, chính trị, binh vận. Vận dụng phương châm
đấu tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, thành thị.

Câu 5. Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị - quân sự - ngoại giao trong
kháng chiến chống Mỹ(1965-1975)
* Mở bài: Trong một cuộc chiến tranh thường bao gồm sự đấu tranh trên rất nhiều lĩnh
vực giữa hai lực lượng tham chiến, cả đấu tranh trên mặt trận qn sự, chính trị, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao…trong đó đấu tranh trên mặt trận quân sự và đấu tranh trên mặt trận

ngoại giao có vai trị quan trọng. Cuộc đấu tranh trên hai lĩnh vực này góp phần quan trọng
quyết định kết cục của cuộc chiến tranh. Đấu tranh trên mặt trận quân sự là sự đụng đầu
giữa hai bên bằng việc sử dụng vũ lực, vũ khí với việc tham chiến của quân đội hai bên.
Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao là sự gặp gỡ giải quyết những vấn đề vướng mắc cần
giải quyết thông qua sự trao đổi hội kiến, tọa đàm, hội nghị giữa hai phái đoàn ngoại giao
của hai bên nhằm đạt được thỏa thuận chung.
Thân bài: Giữa hai lĩnh vực đấu tranh này có mối quan hệ mật thiết, khăng khít tác động
qua lại lẫn nhau. Đấu tranh trên mặt trận quân sự là yếu tố căn bản nhất của bất kỳ một
cuộc chiến tranh nào nó sẽ quyết định phần thắng thuộc về ai, đấu tranh quân sự quyết
định đến đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Kết quả cuộc đấu tranh ngoại giao phụ thuộc
vào kết quả trên mặt trận qn sự bởi vì người ta chỉ có thể giành được những gì trên bàn
ngoại giao tương ứng với những gì dành được trên chiến trường. Đấu tranh trên mặt trận
ngoại giao có tác dụng cụ thể hóa những chiến thắng quân sự, qua đấu tranh ngoại giao mà
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế tạo thuận lợi cho đấu tranh quân sự. Kết quả
của đấu tranh ngoại giao là phản ánh kết quả của đấu tranh quân sự.
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống pháp nhân dân ta hân hoan bắt tay
vào việc xây dựng lại đất nước trong những năm dài bị chiến tranh tàn phá nhưng ngay sau
đó đất nước ta là phải tiến hành một cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại hành động xâm
lược của đế quốc Mỹ, với âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, chia
cắt lâu dài nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng diễn ra sự kết hợp chặt chẽ
giữa đấu tranh trên mặt trận chính trị, quân sự với đấu tranh trên mặt trận ngoại giao,nhằm
phát huy sức mạnh toàn diện trên các mặt trận chống Đế quốc Mỹ xâm lược thì giai đoạn
năm (1965-1973) là giai đoạn mà mặt trận ngoại giao và mặt trận quân sự liên quan mật
thiết với nhau, dẫn đến việc ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hịa
bình ở Việt Nam.
Trên mặt trận qn sự sau khi “chiến lược chiến tranh đặc biệt bị thất bại Mỹ phải
chuyển sang “chiến lược chiến tranh cục bộ” một hình thức chiến tranh kiểu mới có sự
tham gia trực tiếp của quan điểm chiến Mỹ và quân đội các nước chư hầu cùng quân đội



Sài Gòn. Đây là một bước leo thang chiến tranh mới của Mỹ khi chúng sử dụng lực lượng
mạnh gây chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và ngăn cản sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, đưa chiến tranh lan
rộng ra cả nước ta. Ở miền Nam với hai gọng kìm “bình định” và “tìm diệt” Mỹ ngụy mở
những cuộc tiến công lớn với hỏa lực mạnh Mỹ ngụy hy vọng sẽ tiêu diệt được cơ quan
đầu não kháng chiến của ta bình định hồn toàn Miền Nam. Nhưng quân dân ta với tinh
thần quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm lược đã lần lượt đánh bại các đợt tấn công của địch mở
đầu là chiến thắng Vạn Tường, tiếp đó là thắng lợi ở hai mùa khô và đặc biệt là chiến
thắng Mậu Thân năm 1968. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân là một địn tiến
cơng chiến lược bất ngờ đánh vào tận hang ổ của kẻ thù, gây cho địch nhiều thiệt hại. Dây
là thất bại rất nặng nề về chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược
miền Nam nước ta. Thất bại này đã làm phá sản “chiến lược chiến tranh cục bộ” của đế
quốc Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh,
có tác động trực tiếp tới đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
Trên mặt trận ngoại giao ở giai đoạn này bên cạnh các hoạt động ngoại giao lưu như
những giai đoạn trước, chúng ta trực tiếp mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm phối hợp
giữa đấu tranh quân sự, chính trị đang trên đà thắng lợi. Sau thất bại của chiến dịch Mậu
Thân, Mỹ buộc phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Paris vào ngày 13/5/1968
cuộc thương lượng giữa hai bên chính thức bắt đầu. Từ đây diễn ra cuộc chiến vừa “đánh”
vừa “đàm” giữa ta và Mỹ và diễn biến trên chiến trường với những biến trên bàn đàm
phán có quan hệ mật thiết với nhau. Sau những trận chiến chống lại chiến tranh phá hoại
của Mỹ trên chiến trường thì chúng ta đã có những cuộc đàm phán nhất định cùng với Mỹ
trên bàn ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và Mỹ đã đạt
được thỏa thuận, Mỹ chấm dứt hồn tồn ném bom miền Bắc, nhưng sau đó Mỹ lại tiếp
tục chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và đẩy lên thành “Đơng Dương hóa chiến
tranh” và tiếp tục là những cuộc đấu tranh quyết liệt lâu dài, với tinh thần chiến đấu của
nhân dân ta cùng với những chiến thắng nhất định đã làm phá sản chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh”, làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ và có những tác động tích cực trên
bàn đàm phán. Trên mặt trận ngoại giao sau những thất bại nặng nề trên chiến trường,
Ních-xơn đã phải ngồi vào đàm phán, tận dụng ưu thế giành được trên chiến trường và

cuộc bầu cử tổng thống sắp tới của Mỹ, phía ta đưa ra dự thảo”Hiệp định về chấm dứt
chiến tranh lập lại hịa bình ở Việt Nam”, nhưng sau đó tổng thống Ních-xơn lật lọng, tập
kích ta bằng chiến lược không quân B52, và ta đã đánh bại hồn tồn cuộc tập kích này và
một lần nữa, buộc Mỹ phải quay lại bàn đàm phán và chính thức cùng với bốn bộ trưởng
đại diện cho các bên ký vào hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh ở Việt Nam .
Từ 1973 đến 1975: Đây là giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay sai. Ở


giai đoạn này giữa mặt trận quân sự và ngoại giao có những mối liên hệ nhất định.
Về ngoại giao: Ta đấu tranh đòi Mỹ ngụy thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản của
hiệp định Paris, lên án, vạch trần những hành động phá hoại hiệp định của chúng, đồng
thời ta tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ với các nước XHCN anh em, các nước dân chủ,
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ nhân dân thế giới. Nhờ vậy chúng ta tiếp tục nhận được sự
viện trợ, giúp đỡ to lớn từ bên ngoài, phục vụ đắc lực cho ta mở các chiến dịch quân sự.
Về quân sự: Giai đoạn này ta tiếp tục cuộc đấu tranh nhằm mở rộng vùng giải phóng ở
miền Nam, chống lại sự lấn chiếm đất đai của địch. Năm 1975, khi thời cơ thuận lợi đã tới,
ta đã quyết định mở cuộc tổng cơng kích và nổi dậy trên tồn miền Nam, với ba chiến dịch
lớn. Đó là chiến dịch Tây Nguyên chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh.
Với thắng lợi của ba chiến dịch này cũng đồng nghĩa với thắng lợi của cuộc tổng tiến công
và nổi dậy, đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, kết
thúc cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trường kỳ, gian khổ trong 30 năm ( 1945-1975 ),
đưa nước ta vào kỉ nguyên độc lập tự do, tiến lên xây dựng CNXH. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước “ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự tồn thắng của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại
của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Kết bài: Như vậy có thể thấy được giữa hai mặt trận này có mối quan hệ khăng khít với
nhau, bổ sung cho nhau để cùng phát triển cùng giành thắng lợi. Thắng lợi của mặt trận
này có ảnh hưởng và tác động đến thắng lợi của mặt trận kia, điều đó được thể hiện rõ nhất
ở hội nghị Pari, khi chiến thắng trên mặt trận quân sự của ta đã dẫn tới thắng lợi trên mặt

trận ngoại giao và ngược lại thắng lợi trên mặt trận ngoại giao cũng khẳng định giá trị, ý
nghĩa của thắng lợi trên mặt trận quân sự. Qua đó cũng khẳng định sự tài tình, sáng suốt
của Đảng, Chính phủ đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa được truyền thống lịch
sử, đã nhận thấy tác động qua lại giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao để khéo kết
hợp sự đấu tranh giữa hai mặt trận này, dẫn đến những chiến thắng lịch sử chói lọi trước
hai tên đế quốc đầu sỏ của thế giới tư bản ( đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ ), qua đó bảo vệ
được nền độc lập chủ quyền của dân tộc. Tạo điều kiện, cơ sở cho đất nước ta tiến lên xây
dựng CNXH giàu mạnh như ngày nay
PHẦN ĐỔI MỚI
Câu 6. So sánh đường lối cơng nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ
đổi mới
Giống nhau:


- Về điểm giống qua báo cáo của Bộ Chính trị:
+ Một là, trước đây cũng như hiện nay Đảng ta đều quan niệm cơng nghiệp hố
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Hai là, cơng nghiệp hố đều nhằm chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất
xã hội từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động dùng máy móc, phương tiện kỹ thuật
là phổ biến, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trêncơ sở đó, nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
+ Ba là, từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện ngày càng đầy đủ bản chất ưu việt của chế
độ mới, tạo ra hạ tầng cơ sở vững chắc cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Bốn là, tiến hành cơng nghiệp hố trước đây và hiện nay đều phải được thực hiện theo
hướng hiện đại hố tuy có sự khác nhau về mức độ. Do sự phát triển rất nhanh chóng của
khoa học và công nghệ trong những thập kỷ gần đây, khái niệm hiện đại hố ln ln
được bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát nhiều mặt, từ sản xuất, kinh
doanh đến dịch vụ, quản lý... Những tiến bộ khoa học – công nghệ được coi là hiện đại
cách đây vài thập kỷ thì nhiều cái nay đã trở nên bình thường, cần được bổ sung, thậm chí

lạc hậu, cần được thay thế. Khái niệm hiện đại hoá mà chúng ta đề cập trong Nghị quyết
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này
được hiểu theo ý nghĩa đó.
- Ngồi ra, cịn có một số điểm giống như sau:
+ Thứ nhất, đường lối CNH của Đảng luôn nhấn mạnh đến yếu tố khoa học kỹ thuật công
nghệ (then chốt, quyết định...), luôn xác định khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp,
hướng hoặc đề cập trực tiếp tới công nghệ tiên tiến, công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao...
nhưng những gì đạt được trên thực tế lại cho thấy khoa học và công nghệ chưa được hiểu
một cách đầy đủ, thống nhất, xứng tầm.
(THÍCH THÌ GHI) Cơ chế, chính sách cho phép khoa học kỹ thuật cơng nghệ đóng góp vào sự phát triển
nhanh và bền vững của Tổ quốc cịn hạn chế. Thứ hạng trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam luôn
rất thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả một số nước nhỏ về diện tích, khơng nhiều về dân số
trong khu vực: số lượng các bằng phát minh sáng chế được đăng ký, đội ngũ các nhà khoa học, chất
lượng nguồn nhân lực, bài báo khoa học đăng tạp chí quốc tế.... các giải thưởng danh giá khoa học thế
giới.... đều rất ít. Đặc biệt, sự hạn chế về nhận thức và kém hiệu quả trong thực hiện sẽ làm cho khoảng
cách chênh lệch phát triển của Tổ quốc chúng ta với nhiều quốc gia sẽ ngày càng xa hơn. Việt Nam sẽ trở
nên lạc hậu, sẽ bị gạt ra rìa trong xu thế tồn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ
như ngày nay.

+ Thứ hai, CNH bằng con đường thích hợp để đưa Tổ quốc phát triển đạt trình độ cao về
mọi mặt là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.


(THÍCH THÌ GHI) Khái qt bước chuyển biến tư duy lý luận về CNH XHCN cho thấy một điều từ khi
chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội tới nay, khát vọng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước công nghiệp phát triển, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có
cuộc sống ấm no tự do và hạnh phúc, là mạch tư duy không bao giờ dứt trong đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Một trong những con đường để đạt được điều đó là thơng qua CNH XHCN thành cơng.

+ Thứ ba, khẳng định CNH có tính tất yếu và giữ vị trí nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
(THÍCH THÌ GHI) Từ góc nhìn lịch sử có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, sự đánh giá của Đảng về tính
tất yếu, vị trí, vai trị, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói chung là tầm quan trọng của công cuộc
CNH đối với đất nước ta là khá nhất quán và xuyên suốt. CNH theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ
trọng tâm để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục năm.

+ Thứ tư, mục tiêu CNH có nhiều điểm giống nhau. Mục tiêu cơ bản của CNH luôn là
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với không ngừng cải thiện đời sống nhân dân và cải
biến nước ta thành một nước công nghiệp (chung một số điểm như: đảm bảo cơ sở vật chất
– kỹ thuật, cơ cấu kinh tế cho chủ nghĩa xã hội ; QHSX tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX; mức sống vật chất và tinh thần cao; quốc phòng – an ninh vững chắc; dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ấm no, tự do, hạnh phúc...); để thực hiện
mục tiêu chung đó, ở mỗi thời kỳ thường xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được.
+ Thứ năm, mơ hình CNH Việt Nam đều sử dụng kết hợp các ưu thế của nhiều mơ hình
khác nhau, như một số đặc điểm của mơ hình CNH cổ điển, phi cổ điển, CNH thay thế
nhập khẩu, CNH hướng vào xuất khẩu, CNH tư bản chủ nghĩa, CNH XHCN....
+ Ngoài ra: khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước chưa cao; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo bản chất và nội dung CNH hiện đại cịn chậm; liên tục đổi mới tư duy để
hồn thiện các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trong quá trình thực hiện CNH
Tổ quốc...
Khác nhau:
- Theo Bộ chính trị: “Bên cạnh những điểm thống nhất nêu trên, cơng nghiệp hố, hiện đại
hố hiện nay có nhiều cái khác so với trước đây mà một số điểm chính là:
+ Đường lối cơng nghiệp hố trước đổi mới được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung quan
liêu, bao cấp; thực hiện kế hoạch hoá tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ở thời kỳ đổi
mới, chúng ta tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo cơ chế mới, là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng; thị trường
phản ánh nhu cầu xã hội, có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản
xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.
+Trước đổi mới, cơng nghiệp hố thường được hiểu là việc của Nhà nước, thông qua khu

vực quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Trong đổi mới, nó là sự nghiệp của tồn dân với sự
tham gia tích cực của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò


chủ đạo. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước cũng linh hoạt hơn, bao gồm những doanh
nghiệp mà Nhà nước nắm một số cổ phần, khống chế tương đối hay tuyệt đối. Đồng thời
thực hiện đa dạng hoá và đan xen các loại hình sở hữu.
+ Cơng nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mơ hình nền kinh tế khép kín,
hướng nội. Cịn cơng nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
(TTG) Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai
thác hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong
bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngồi, thu hút cơng nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế
giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
khai thác hiệu quả thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
- Cơng nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện
công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo
kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực
hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch tốn kinh tế.
- Cơng nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Cơng nghiệp hóa ở thời
kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
- Cơng nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quảkinh tế xã hội. Cịn

ở thời kỳ đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với pháttriển nhanh, hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
- Bên cạnh đó, cịn có những điểm khác như:
* Thứ nhất, về cách giải quyết mối quan hệ giữa phát triển LLSX và xây dựng QHSX
XHCN trong q trình cơng nghiệp hóa. Đường lối CNH của Đảng chuyển từ CNH gắn
với quan niệm xây dựng QHSX XHCN đi trước một bước mở đường cho sự phát triển của
LLSX, chuyển sang thực hiện ưu tiên phát triển LLSX hiện đại, đồng thời xây dựng
QHSX tiến bộ phù hợp.
* Thứ hai, về bước đi, tốc độ của cơng nghiệp hóa.
(THÍCH THÌ GHI) Thời kỳ đổi mới, Đảng xác định: quá trình CNH phải được tiến hành từng bước phù


hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ chưa thể đẩy mạnh CNH, mà là tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH ở chặng đường
tiếp theo (chủ trương đẩy mạnh CNH từ Đại hội VIII – 1996); cơ cấu kinh tế hợp lý với từng thời đoạn;
con đường CNH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước...

Tư duy CNH của Đảng thời đổi mới xác định: con đường CNH ở nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một
nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả
của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại và qua hội nhập quốc tế để rút ngắn
thời gian.
Như vậy, đường lối CNH chuyển từ CNH XHCN với cách làm nóng vội, bỏ qua các bước
đi trung gian cần thiết, đã chuyển sang thực hiện CNH vừa có bước đi tuần tự, giai đoạn
trước tạo tiền đề cho sự phát triển của giai đoạn sau theo trật tự tuyến tính, vừa cho phép
phát triển “rút ngắn” trên cơ sở đi tắt, đón đầu các thành tựu phát triển nhảy vọt về khoa
học và công nghệ của thế giới.
* Thứ ba, xây dựng cơ cấu kinh tế (mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,

nông nghiệp, kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, sản xuất, phân phối, tiêu dùng); cơ
chế và mơ hình nền kinh tế trong quá trình CNH
Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu kinh tế cơng – nơng nghiệp đến sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, hiện đại hoá để đưa nước ta đến năm 2020 về cơ bản trở
thành một nước cơng nghiệp, có cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp và dịch vụ hiện đại;
Từ nền kinh tế “khép kín”, “hướng nội”, quan hệ chỉ khép kín trong hệ thống XHCN,
chuyển sang thực hiện một nền kinh tế mở đa dạng, đa phương phù hợp thông lệ quốc tế,
hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu; Chuyển từ CNH thực hiện
trong khn khổ cơ chế kế hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp sang tuân theo thị
trường, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới thành một chỉnh thể hữu cơ, có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
* Thứ tư, CNH, HĐH gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển nhanh, bền vững.
Từ quan niệm CNH cổ điển chuyển sang quan niệm CNH, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế tri thức, thực hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không
làm tổn hại đến khả năng phát triển trong tương lai (phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ tài
ngun mơi trường).
Ngồi ra, CNH cịn có các đặc điểm được nhận thức rõ và nhấn mạnh hơn: Đẩy mạnh
CNH, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Khoa học và công nghệ
cũng là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa đất nước, từng bước
phát triển kinh tế tri thức.
Câu 7. Vì sao trong quá trình xây dựng CNH - HĐH trong thời kỳ đổi mới ĐCSVN


lại gắn vấn đề CNH - HĐH với vấn đề bảo vệ mơi trường
* Mở bài: Mơi trường chính là khơng gian sống của con người và mọi lồi sinh vật, đồng
thời cũng là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, khoáng sản… phục
vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của nhân loại. Công nghiệp hóa hiện đại hóa là q trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự

phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao
động xã hội cao. Cùng với sự tiến bộ của xã hội và những thành quả to lớn mang lại thì
bên cạnh đó q trình xây dựng CNH - HĐH cũng để lại nhiều hậu quả xấu cho môi
trường tự nhiên những năm sau đổi mới và cũng như ở thời điểm hiện tại.
Thân bài: Nhìn vào thực trạng sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước
nghèo vào 2010, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về
môi trường. Theo thống kê của Bộ Tài ngun và Mơi trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ
sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 KCN (số liệu năm 2010), cần được
kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước, khơng khí đang lan
rộng khơng chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả những vùng nông thôn, đa dạng sinh học
tiếp tục bị suy giảm, biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu
quả khôn lường, thành quả phát triển của nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ sau một
đợt thiên tại có thể bị xóa sạch.
Q trình CNH - HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường. Chỉ tiêu tăng
GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công nghiệp hằng năm 13 % sẽ
làm trầm trọng hơn tình trạng ơ nhiễm ở các KCN và vùng đô thị, việc CNH - HĐH các
ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường. Số
liệu của Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội cho thấy, mới có 60 KCN có trạm xử lý nước
thải tập trung ( chiếm 42 % số KCN đã vận hành ). Mỗi ngày, các KCN thải ra khoảng
30.000 tấn chất thải độc hại ra môi trường. Hầu hết các cụm, điểm. KCN chưa đáp ứng
được những tiêu chuẩn môi trường.
Đẩy mạnh tiến trình CNH - HĐH nơng nghiệp nơng thơn là động lực lớn phát triển các
làng nghề. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các
làng nghề gây ô nhiễm môi trường, hầu hết các làng nghề khơng có hệ thống xử lý nước
thải và kiểm soát chất thải rắn.
CNH - HĐH sẽ kéo theo đơ thị hóa. Dân số đơ thị năm 1996 là 19 %, năm 2010 đạt 30 %
và dự kiến tăng lên 45 % vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý
đô thị . Theo nghiên cứu của Bộ KH&CN , các đơ thị Hà Nội , TP . Hồ Chí Minh, Việt Trì,
Ninh Bình, Quy Nhơn, Nha Trang, Biên Hịa ... là những tụ điểm phát thải các chất hại.



Riêng Hà Nội, mỗi năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn
dầu mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng ...nhìn vào thực trạng nước ta những năm sau đổi
mới thì việc Đảng gắn vấn đề CNH - HĐH với bảo vệ môi trường là một tất yếu khách
quan. Môi trường là điều kiện sống của con người và là yếu tố của sản xuất, bảo vệ môi
trường, đc coi là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược phát triển, nhận thấy rõ điều đó
Đảng ta đã có những định hướng đúng đắn về CNH - HĐH gắn liền với bảo vệ môi
trường:
Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên,
Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài nguyên và cải
thiện môi trường tự nhiên được xác định.
Một là, tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng
sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình
trạng xuống cấp mơi trường ở các lưu vực sông, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi
đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường, nhất
là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải, phát triển và ứng dụng công nghệ sạch
hoặc công nghệ ít gây ơ nhiễm mơi trường. Hồn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà
nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm
phải xử lý ô nhiễm hoặc chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
Hai là, từng bước hiện đại hóa cơng tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn, chủ
động phịng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
Ba là, xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo
vệ mơi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên
nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
Kết bài: Hiện nay nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là
nhiệm vụ trọng tâm bởi chỉ có con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mới đưa nước ta
trở nên giàu mạnh đồng thời xây dựng được một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, từ đó rút ngắn khoảng cách lạc hậu với các nước phát


triển hòa vào dòng thác chung của nhân loại, song song việc thực hiện CNH - HĐH, thực
hiện các mục tiêu phát triển trước mắt phải đi đôi với yêu cầu không làm tổn hại đến khả
năng phát triển trong tương lai (phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ tài nguyên môi
trường). Cần quan tâm đến vấn đề hạn chế gây ô nhiễm môi trường, phải luôn gắn CNH HĐH với việc bảo vệ môi trường và bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả
hệ thống chính trị, tồn xã hội và của mọi cơng dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát ,
ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển
năng lượng sạch, sản xuất và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo, thực hiện các
giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên.

Câu 8. Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển
mới về tư duy lí luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng? Vì sao DCSVN lựa
chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu?
Hh Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn phấn đấu, rèn luyện xứng đáng là
đội tiên phong và đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; các tổ chức của Ðảng và
đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; ln gắn bó mật thiết với
nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân về những quyết định của mình.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức sâu
sắc vị thế của Ðảng duy nhất cầm quyền. Theo đó, "mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn
Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân"(1).
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã hiến định: Ðảng Cộng
sản Việt Nam - Ðội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Ðảng Cộng sản
Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của
Ðảng và đảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và


pháp luật. Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, là
vấn đề có tính ngun tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế
chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Lịch sử Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay đã đánh dấu nhiều mốc son
chói lọi, gắn liền với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðó là các sự kiện dân tộc ta
đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, thống nhất đất nước và nay đang thực hiện công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Sứ
mệnh và vai trò của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định ngay từ khi mới thành
lập, được chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.
Nhờ đó, "Ðảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại: Một là, thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa;... Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc;... Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội"(2). Những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... trong hơn 30 năm đổi mới càng khẳng định tầm vóc
to lớn về vai trị lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống của nhân dân vẫn
cịn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện
các Nghị quyết của Ðảng hiệu quả chưa cao, chưa tạo được sự lan tỏa lớn. Nhiều cán bộ,
đảng viên, trong đó có lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm và chưa
thật sự gương mẫu trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong, còn

trục lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ðặc biệt, có cán bộ cấp cao, cả đương chức và
nghỉ hưu, đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận
xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Ðể khắc phục những hạn chế của mình, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, hơn lúc nào hết Ðảng cần và phải nâng cao năng lực lãnh đạo của mình.
Theo đó, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng, tiếp tục giành được sự ủng hộ tuyệt
đối của nhân dân.
Theo quan điểm mác-xít, chính đảng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp, là tổ chức chính
trị đại diện cho giai cấp và tập đoàn nhất định trong xã hội có giai cấp. Một trong những
chức năng cơ bản của chính đảng là phản ánh lợi ích, nguyện vọng và yêu cầu của giai cấp,


tầng lớp, tập đoàn nhất định. Do vậy, với Ðảng ta, trong quá trình củng cố và mở rộng nền
tảng xã hội của Ðảng thì vấn đề mấu chốt là Ðảng phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đồng thời lấy đó làm cơ sở để xây
dựng nền tảng xã hội của Ðảng. Vì thế, Ðảng khơng chỉ phải làm tốt vai trò là người lãnh
đạo, mà còn phải làm tốt bổn phận "là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".
Là một tổ chức lãnh đạo, Ðảng phải có đủ trí tuệ và bản lĩnh chính trị, đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn, vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa sự nghiệp cách mạng khơng
ngừng tiến lên; thực hiện trọn vẹn mục tiêu, lý tưởng Ðảng đã lựa chọn, xứng đáng với
niềm tin tưởng tuyệt đối của nhân dân. Là người "đày tớ", Ðảng và từng cán bộ, đảng viên
phải phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vơ điều kiện; việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Ðể có thể làm tốt cả hai phận sự ấy, mỗi
đảng viên và cán bộ của Ðảng phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm
chính, chí cơng vơ tư. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về "Tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới" có ý nghĩa quan trọng với
vai trò lãnh đạo của Ðảng. Bởi, hơn bao giờ hết, mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng phải thực
sự "hết lịng vì dân", mới "được dân hết lịng vì Ðảng".

Hai là, phòng, chống triệt để những biểu hiện quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội
chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản.
Ðối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, vai trò lãnh đạo được thể hiện bởi hiệu quả lãnh đạo
Nhà nước và tồn xã hội. Ðiều đó đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ khi
lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội trước đây và công
cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay. Theo đó, vai trị lãnh đạo của Ðảng đối với
Nhà nước được xem là trụ cột của cơ chế vận hành trong hệ thống chính trị; Ðảng lãnh
đạo hệ thống chính trị nói chung và Nhà nước nói riêng là nhân tố bảo đảm xây dựng Nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với bản chất là pháp luật giữ vị
trí tối thượng trong điều chỉnh hành vi các quan hệ xã hội và tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân.
Cần khẳng định rằng, Ðảng Cộng sản Việt Nam duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống
chính trị là ngun tắc khơng thể thay đổi. Tuy nhiên, ngồi những mặt rất cơ bản, tích cực
của một đảng duy nhất cầm quyền, sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định,
những nguy cơ có thể xảy ra. Ðiều đó đã từng được V.I.Lê-nin cảnh báo các nguy cơ: sai
lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản khi Ðảng cầm quyền.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đặc biệt chú ý nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái
của cán bộ, đảng viên ngay sau khi giành được chính quyền. Người yêu cầu cần phải chiến
thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ơ, lãng phí, quan liêu; nếu khơng sẽ làm đổ vỡ cả sự
nghiệp của một đảng cầm quyền.


Ðối với Ðảng ta hiện nay, các nguy cơ đó có thể bị ngăn ngừa, đẩy lùi, khắc phục bằng việc
từng bước đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mà trước hết là dân chủ trong Ðảng, dân chủ trong các cơ quan quyền lực nhà
nước và trong toàn xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng quán triệt và thực hiện tốt
chức trách và công việc được giao, kiên quyết đấu tranh phịng, chống các biểu hiện:
"Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng
sự quần chúng", nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng"(3). Nếu lãnh đạo chỉ
thiên về quyền lực "làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân

chúng làm"(4), là đồng nghĩa với lãnh đạo thiếu văn hóa. Văn hóa cầm quyền của Ðảng là
phải "sao cho được lịng dân", "Chính phủ là cơng bộc của dân"(5).
Ba là, lãnh đạo thực hiện hiệu quả Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết.
Ðối với nước ta, tệ tham nhũng và sự kém hiệu quả trong đấu tranh chống tệ nạn này có
nguyên nhân từ sự thiếu gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4, khóa XI chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc... từ đó làm suy giảm lịng
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào bản chất tốt đẹp của chế độ.
Trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh,
Ðiều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; gương mẫu thực hiện các quy định của Ban Bí thư, quy định của Bộ Chính trị, quy
định của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương, xây dựng hình tượng cán
bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết; kiên quyết khắc phục sự suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao lập trường cách
mạng, bản chất giai cấp công nhân của Ðảng; ra sức học tập đạo đức, phong cách của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi hình thức; nêu cao
tính đảng, tính gương mẫu trong q trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên. Ðó thực sự là một mặt trận chiến đấu đầy cam go, phức tạp, khơng
kém phần quyết liệt và có ý nghĩa quyết định sự "mất, cịn" đối với uy tín lãnh đạo của
Ðảng, lòng tin của nhân dân đối với Ðảng .
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đất nước đã vượt
qua tình trạng một nước nghèo, kém phát triển; đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh. Khơng ngừng xây dựng, hồn thiện hệ thống chính trị, Nhà nước pháp



quyền xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội.
Thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác
và phát triển; nâng cao vị thế của đất nước. Hiện nay, Ðảng tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã
hội; huy động sức mạnh tổng hợp của tồn dân, tồn qn chung sức, đồng lịng, tạo
xung lực mới thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Câu 9. Tại Nghị quyết TW 9 khóa XI ĐCSVN khẳng định " văn hố là nền tảng tinh
thần của XH, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước " Ý kiến của Anh/
chị về vấn đề nêu trên
* Mở bài: Trên chặng đường hơn 30 năm đổi mới đất nước một cách toàn diện, sâu sắc
và triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã đề ra quan điểm về
vai trị của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước, Đảng ta xác định: "Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước".
Đây là một quan điểm hết sức đúng đắn, đánh giá chính xác vai trị của yếu tố văn hố .
Thân bài: Trước tiên, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống, văn
hóa là sợi chỉ đỏ xun suốt trong tồn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh
liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển. Vì vậy, chúng ta chủ
trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn
hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế
- xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng,
văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động tồn dân đồn kết
xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hố.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trị của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của

Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần
của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì khơng có sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn hoá thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Xây dựng và phát triển văn hóa
cũng là một mục tiêu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái


×