Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ ĐẦU TƯ THỰC TRẠNG CỦA ĐẦU TƯ TẠO TÁC ĐỘNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN COVID 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.2 KB, 27 trang )


1.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VIỆN KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***--------

TIỂU LUẬN KINH TẾ ĐẦU TƯ
THỰC TRẠNG CỦA ĐẦU TƯ TẠO TÁC ĐỘNG XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN COVID 19


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1. Cơ sở lý thuyết

2

1.1. Đầu tư tác động xã hội (Social Impact Investment)

2

1.1.1. Định nghĩa đầu tư tác động xã hội (Social Impact investment – SII)

2

1.1.2. Đặc điểm của Social Impact Investment (SII)


2

1.1.3. Hệ sinh thái đầu tư tạo tác động xã hội

3

1.2. Định nghĩa của một vài thuật ngữ trong bài làm

3

1.2.1. Doanh nghiệp tạo tác động xã hội – SIB

3

1.2.2. Vốn đối ứng

3

Chương 2. Thực trạng về đầu tư tác động xã hội ở Việt Nam giai đoạn Covid-19 4
2.1. Các chính sách, cơ chế khuyến khích các dự án SII

4

2.1.1. Các chính sách hỗ trợ trước giai đoạn Covid – 19

4

2.1.2. Dự án ISEE-COVID - “Hỗ trợ Hệ sinh thái các doanh nghiệp tạo tác động xã
hội tại Việt Nam ứng phó với COVID-19”
5

2.2. Những lĩnh vực đầu tư tiềm năng và đóng góp quan trọng trong phát triển
kinh tế, xã hội, môi trường
6
2.2.1. Lĩnh vực năng lượng mặt trời

6

2.2.2. Lĩnh vực năng lượng điện gió

8

2.3. Thực trạng

11

Chương 3. Đánh giá tác động của các dự án SII đến nền kinh tế giai đoạn
COVID-19 và các khó khăn mà các dự án SII đang gặp phải

14

3.1. Tác động của các dự án SII đến nền kinh tế giai đoạn COVID-19

14

3.2. Các khó khăn mà các dự án SII đang gặp phải

16

KẾT LUẬN


18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1:Các dự án đầu tư lĩnh vực Năng lượng mặt trời trên khắp cả nước

7

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.Biểu đồ thể hiện tổng công suất lắp đặt năng lượng điện gió

8

Hình 2. Xu hướng năng lượn tái tạo ở Châu Á và top 5 quốc gia có tổng cơng suất lắp
đặp điện gió lớn nhất Châu Á năm 2021
9
Hình 3: Thống kê khảo sát lượng doanh nghiệp lãi, lỗ và hòa vốn (%)

12


2.

LỜI MỞ ĐẦU

Cùng với sự phát triển và chuyển dịch không ngừng của xã hội hiện đại, nền

kinh tế không chỉ đơn thuần tạo ra lợi nhuận mà còn mang lợi lợi ích cho tập thể, cho
cộng đồng. Vì lý do này mà đầu tư tạo tác động xã hội (Social Impact Investment) đã
và đang trở thành xu hướng ngày càng gia tăng trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng, hướng tới sự phát triển bền vững và nhu cầu của người tiêu dùng hiện đại.
Cụ thể hơn, mục tiêu chính của SII là đạt được tác động tích cực đến xã hội hoặc mơi
trường, đồng thời vẫn thu được lợi tức tài chính.
Giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2021, bối cảnh khi đại dịch Covid có những
chuyển biến phức tạp chính là dấu hiệu cho thấy các chính phủ, các quốc gia nên có
những biện pháp phát triển kinh tế bền vững, tức là tập trung thúc đẩy kinh tế song
song với việc giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể của cộng đồng. Nhận thức được điều
này, ngày càng có nhiều các nhà đầu tư, các doanh nghiệp chuyển hướng tiến hành các
dự án đầu tư tạo tác động xã hội, hướng đến chiến lược phát triển dài hạn. Bằng chứng
là theo Financial Times, số vốn đầu tư vào tạo tác động xã hội đã tăng gấp đơi trong
vịng 5 năm trở lại.
Việt Nam cũng khơng phải ngoại lệ. Rất nhiều mơ hình doanh nghiệp xã hội –
mơ hình “lai” giữa hai loại hình tổ chức phi chính phủ/ phi lợi nhuận và doanh nghiệp
ra đời, theo đó là những dự án liên quan tới giải quyết vấn đề xã hội. Số lượng doanh
nghiệp xã hội và các doanh nghiệp có liên quan đến yếu tố xã hội ở Việt Nam vào
khoảng 50.000 (theo VnEconomy). Trong khoảng thời gian diễn biến của Coronavirus,
việc các doanh nghiệp tập trung vào những dự án phát triển kinh tế tạo tác động tích
cực đến cộng đồng khơng chỉ góp phần tăng trưởng GDP cả nước mà cịn đem lại
nhiều lợi ích về lâu về dài.
Vì vậy, qua bài tiểu luận này, chúng em muốn cung cấp cho người đọc những
kiến thức cụ thể về thực trạng của đầu tư tạo tác động xã hội (SII) tại Việt Nam trong
giai đoạn Covid-19, đồng thời đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực mà các
dự án đầu tư tác động xã hội (SII) đem lại. Do sự hạn chế về thời gian và kiến thức
trong quá trình tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi, bài tiểu luận chúng em chắc hẳn
vẫn gặp nhiều sai sót. Chúng em mong sẽ nhận được các góp ý của cơ để bài làm được
hồn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1



1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Đầu tư tác động xã hội (Social Impact Investment)
1.1.1.1. Định nghĩa đầu tư tác động xã hội (Social Impact investment – SII)
Đầu tư tác động xã hội (còn được gọi là “đầu tư xã hội” hoặc “đầu tư tác động”)
là việc chuyển tiền có hồn trả với mục đích tạo ra tác động xã hội tích cực. Thường có
một khoản lợi nhuận liên quan đến khoản đầu tư, đó chính là số tiền được hồn trả và
nó có thể khác với số tiền đã đầu tư.
Những người tham gia vào đầu tư tác động xã hội được gọi là “nhà đầu tư xã
hội”. Tuy nhiên, điều này có thể đề cập đến hai vai trị riêng biệt. Chủ sở hữu tài sản sở
hữu một tài sản (tiền) mà họ muốn đầu tư để nó lớn lên theo thời gian. Số tiền đầu tư
ban đầu thường được gọi là “vốn” hoặc “tiền gốc”, trong khi sự tăng trưởng trên số
tiền đó được gọi là “tiền lãi” hoặc “lợi tức”. Các nhà quản lý quỹ thay mặt chủ sở hữu
tài sản quản lý tiền (đổi lại phí) theo cách đáp ứng sở thích của chủ sở hữu, gồm cả tác
động xã hội và khẩu vị rủi ro. Một số chủ sở hữu tài sản có thể quản lý tiền của riêng
họ.
1.1.1.2. Đặc điểm của Social Impact Investment (SII)
SII khơng giống như đầu tư có đạo đức hay đầu tư có trách nhiệm. Loại hình đầu
tư này nhằm tránh bất kỳ tác động tiêu cực nào (ví dụ như khơng đầu tư vào các cơng
ty vũ khí hoặc dầu mỏ). Nhưng nó khơng nhất thiết phải chủ động tìm cách tạo ra tác
động tích cực.
Đầu tư tác động xã hội có tính “chủ định” tức là các nhà đầu tư chủ động tìm
kiếm cơ hội để tạo ra tác động xã hội.
SII vẫn là đầu tư. Số tiền được trả có thể hồn trả (có nghĩa là có kỳ vọng rằng số
tiền được đưa ra sẽ quay trở lại), thường là sẽ có lợi nhuận (nghĩa là các nhà đầu tư có
thể nhận lại một số tiền lớn hơn so với số tiền họ đã ban đầu). Điều này phân biệt nó
với hoạt động từ thiện hoặc trợ cấp, nơi khơng có kỳ vọng hồn trả.
Đầu tư tác động xã hội cũng được phân biệt bởi những cam kết mà nhà đầu tư
thực hiện để báo cáo về tác động xã hội mà đầu tư của họ tạo ra.

Thông thường, đầu tư tác động xã hội được sử dụng để giúp một tổ chức đạt
được mục đích xã hội của nó. Nó cũng có thể được sử dụng để tài trợ cho việc cung
2


cấp các hợp đồng dựa trên kết quả với các chính phủ hoặc người trả kết quả, như trong
trường hợp trái phiếu tác động.
1.1.1.3. Hệ sinh thái đầu tư tạo tác động xã hội
OECD (2019) đã giới thiệu Khung thị trường đầu tư tác động xã hội. Khuôn khổ
này đã mô tả hệ sinh thái của đầu tư tác động xã hội bao gồm 3 nhóm chủ thể: (i) Các
nhà đầu tư (bên cung); (ii) Bên nhận đầu tư (bên cầu); (iii) Người hỗ trợ/bên trung
gian. Đây cũng chính là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của đầu
tư tác động xã hội.
1.1.2. Định nghĩa của một vài thuật ngữ trong bài làm
1.1.2.1. Doanh nghiệp tạo tác động xã hội – SIB
Doanh nghiệp tạo tác động xã hội (Social Impact Business - SIB) là nhóm các tổ
chức, doanh nghiệp thông qua hoạt động thương mại, giải pháp kinh doanh để tạo tác
động tích cực lên xã hội và môi trường. Các nhà nghiên cứu nhận định loại hình doanh
nghiệp này bao gồm cả những đơn vị kinh doanh xã hội, khởi nghiệp tạo tác động xã
hội và kinh doanh với người có thu nhập thấp.
1.1.2.2. Vốn đối ứng
Vốn đối ứng là khoản vốn đóng góp của phía Việt Nam (bằng hiện vật hoặc tiền)
trong chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nhằm chuẩn bị và thực
hiện chương trình, dự án, được bố trí từ nguồn ngân sách trung ương, ngân sách địa
phương, chủ dự án tự bố trí, vốn đóng góp của đối tượng thụ hưởng và các nguồn vốn
hợp pháp khác theo khoản 20 Điều 3 Nghị định 56/2020/NĐ-CP về quản lý và sử dụng
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.

3



1.2. Thực trạng về đầu tư tác động xã hội ở Việt Nam giai đoạn Covid-19
1.2.1. Các chính sách, cơ chế khuyến khích các dự án SII
1.2.1.1. Các chính sách hỗ trợ trước giai đoạn Covid – 19
Khi các doanh nghiệp đầu tư tạo tác động xã hội vào những lĩnh vực, địa bàn
hoặc cho đối tượng được khuyến khích thì được hưởng các chính sách ưu đãi liên quan
tùy thuộc vào lĩnh vực, địa bàn hay đối tượng mà doanh nghiệp lựa chọn. Các chính
sách ưu đãi đặc thù như đầu tư trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ công, bảo vệ môi
trường, đầu tư tại địa bàn miền núi, hay cho nhóm đối tượng yếu thế (người nghèo,
người khuyết tật, đồng bào vùng sâu vùng xa, …).
Đối với mơ hình doanh nghiệp xã hội (DNXH) đăng ký theo Luật Doanh nghiệp
2014 được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ theo Nghị định số 96/2015/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp. Cụ thể là:
- Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH
có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng
đồng.
- DNXH được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật. DNXH
được tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực hiện mục tiêu giải quyết các
vấn đề xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi chính
phủ nước ngồi.
Các DNXH hoạt động trong lĩnh vực xã hội và môi trường, có thể được hưởng các
chính sách ưu đãi về xã hội hóa theo Nghị quyết 05 và Nghị định 69 của Chính phủ….
Đó là:
Chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng và đất đai
- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được thuê dài hạn với giá ưu đãi (không bao gồm tiền
thuê đất, tiền đền bù giải phóng mặt bằng và tiền lãi của cơ sở kinh doanh nhà, cơ sở
hạ tầng).
- Được Nhà nước giao đất hoặc cho th đất đã hồn thành giải phóng mặt bằng theo
các hình thức: (a) Giao đất khơng thu tiền sử dụng đất; (b) Cho thuê đất và miễn tiền
thuê đất; (c) Giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất.


4


- Cơ sở thực hiện xã hội hóa được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản gắn với đất; được miễn các khoản phí, lệ phí khác liên quan đến
quyền sử dụng đất, tài sản gắn với đất.

5


Chính sách ưu đãi về thuế:
- Áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động.
- Được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế
và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm tiếp theo.
- Các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh, dạy học, nhập khẩu máy móc thiết bị cho nghiên
cứu khoa học, hàng viện trợ... không phải đối tượng nộp thuế VAT.
- Được ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Chính sách ưu đãi về tín dụng: Được vay vốn tín dụng đầu tư hoặc hỗ trợ sau
đầu tư theo quy định về tín dụng đầu tư của nhà nước.

1.2.1.2. Dự án ISEE-COVID - “Hỗ trợ Hệ sinh thái các doanh nghiệp tạo tác động
xã hội tại Việt Nam ứng phó với COVID-19”
Bên cạnh những chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư tạo tác động
xã hội thông thường như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn Covid 19 vừa rồi, dự án:
“Hỗ trợ Hệ sinh thái các doanh nghiệp tạo tác động xã hội tại Việt Nam ứng phó với
COVID-19”- dự án ISEE-COVID, sẽ được thực hiện trong ba năm với tổng kinh phí là
3,1 triệu đơ la Canada chủ yếu do Bộ Các vấn đề toàn cầu Canada tài trợ, và vốn đối
ứng từ UNDP và Chính phủ Việt Nam nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp
tạo tác động xã hội tại Việt Nam tăng cường sức chống chịu và khả năng phục hồi của

các doanh nghiệp tạo tác động xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và giới
của COVID-19 đối với các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái
vào cuối năm 2021.
Dự án sẽ áp dụng cách tiếp cận hệ sinh thái để giải quyết những thách thức mang
tính hệ thống và liên kết mà các doanh nghiệp tạo tác động xã hội phải đối mặt. Dự án
sẽ giúp tăng cường năng lực của chính các SIB; nâng cao năng lực và sự phối hợp giữa
các tổ chức trung gian hỗ trợ SIB; và tăng cường năng lực hoạch định chính sách để
tạo điều kiện thuận lợi cho các SIB phát triển.
Dự án ưu tiên hỗ trợ các SIB trong bốn ngành bị ảnh hưởng nặng nề bởi COVID19, đó là nơng nghiệp bền vững, du lịch bền vững, giáo dục và y tế. Đây cũng là những
6


lĩnh vực có lực lượng lao động nữ lớn và nhiều SIB cung cấp các giải pháp sáng tạo
nhằm giảm tỷ lệ nghèo đói ở phụ nữ và trẻ em gái.
Dự án mới dự kiến sẽ hỗ trợ 300 SIB tiếp cận vốn ban đầu và thị trường, từ đó
tạo ra 9.000 việc làm tiềm năng cho những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương. 90 SIB
sẽ được hưởng lợi từ việc tăng doanh thu và phát triển kế hoạch đối phó với đại dịch
COVID-19 và các cú sốc trong tương lai. 105 SIB sẽ có kế hoạch kinh doanh lồng
ghép giới, mơi trường và biến đổi khí hậu. Đồng thời, dự án sẽ hỗ trợ xây dựng hoặc
sửa đổi ít nhất bốn chính sách đáp ứng giới, và thiết lập mạng lưới doanh nghiệp tạo
tác động xã hội với ít nhất 100 thành viên. Mạng lưới sẽ hỗ trợ thí điểm hệ thống quản
lý và đo lường tác động cho 5-10 SIB.

1.2.2. Những lĩnh vực đầu tư tiềm năng và đóng góp quan trọng trong phát triển
kinh tế, xã hội, môi trường
1.2.2.1. Lĩnh vực năng lượng mặt trời
Bất chấp những gián đoạn do dịch bệnh Covid – 19 gây ra, đầu tư tạo tác động
xã hội ở Việt Nam vẫn thu hút sự chú ý đặc biệt đến từ các nhà đầu tư tư nhân và chính
phủ bởi những tác động tích cực mà nó đem lại cho nền kinh tế lẫn xã hội. Đặc biệt ở
mảng năng lượng tái tạo, theo một báo cáo năm 2019 của Bộ Tài nguyên và Môi

trường, các chỉ số ô nhiễm ở Hà Nội đã đạt mức cao lịch sử trước khi đại dịch xảy ra.
Các dự án đầu tư vào năng lượng tái tạo đang có xu hướng đi lên trong giai đoạn
Covid – 19 vừa qua do phù hợp với quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045 gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường.
Theo Cơ quan năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA), trong năm 2021, Việt Nam
thuộc top 10 quốc gia có cơng suất lắp đặt năng lượng mặt trời lớn nhất với tổng công
suất lắp đặt đạt 16,660.490 MW.

7


Mặc dù công suất lắp đặt không thay đổi so với năm 2020 nhưng đây có thể coi
là một bước khởi đầu thành cơng trong q trình chuyển đổi khỏi việc sử dụng năng
lượng than đá. Khả năng cao Việt Nam sẽ thu hút một lượng vốn lớn đến từ các nhà
đầu tư, kèm theo đó là chính sách ưu đãi của chính phủ góp phần giúp q trình thẩm
định dự án nhanh chóng thơng qua. Bên cạnh những quyền lợi đó, Việt Nam cịn có lợi
thế về địa hình và khí hậu như mức độ toả nhiệt từ năng lượng mặt trời đều đặn qua
các mùa; hơn 3.000 km đường bờ biển; tốc độ gió trung bình hằng năm là 6m/s và
tổng số giờ chiếu ánh nắng mặt trời mỗi năm là hơn 2.500 giờ. Ngoài những lợi thế và
cơ hội trên, các doanh nghiệp địa phương cũng kết nối, hợp tác và nhận được lượng
vốn tài trợ lớn đến từ những cơng ty có kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo
như Orsted (Denmark), Hitachi (Japan), and Enterprise Energy (Singapore).
Bảng 1: Các dự án đầu tư lĩnh vực Năng lượng mặt trời trên khắp cả nước
STT

Tên dự án

Cơng suất Vốn đầu tư

Vị trí


Tình trạng dự án

(tỷ đồng)
1

Ea Nam

400 MW

16.500

Ea H”leo, Dak Lak

Đang thực thi

2

Tân Thuận

75 MW

2.950

Đầm Dơi, Cà Mau

Đang thực thi

151,95


4.000

Thuận Bắc, Ninh Thuận

Đang vận hành

(ngoài khơi)
3

Trung Nam

MW

8


4

La Gàn (ngồi 3500 MW

270.000

Bình Thuận

Chưa được thực thi

270.000

Hàm Thuận Nam, Bình


Chưa được thực thi

khơi)
5

Kê Gà (ngồi 3400 MW
khơi)

6

Thuận

Tân Phú Đơng 150 MW

4.500

Gị Cơng Đơng, Tiền

Đang thực thi

Giang
7

Xn Thiện - 600 MW

20.000

Ea Súp, Dak Lak

Đang vận hành


168 MWp

3.700

Ninh Sơn, Ninh Thuận

Đang thực thi

257 MWp

5.000

Phú Hoà, Phú Yên

Đang vận hành

Ea Súp
8

CMX
Renewable
Energy

9

Hoà Hội

1.2.2.2. Lĩnh vực năng lượng điện gió
Bên cạnh các dự án lắp đặt Năng lượng mặt trời, điện gió cũng là một trong

những lĩnh vực thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân và sự ủng hộ của chính phủ do Việt
Nam đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng trầm trọng, kể cả những
đập thuỷ điện lớn cũng đã được đưa vào khai thác hết trong khi những đập thuỷ điện
nhỏ thì khơng đảm bảo lợi ích mang lại so với thiệt hại môi trường mà nó gây ra. Hơn
nữa, Việt Nam chịu tác động từ biến đổi khí hậu nghiêm trọng do tác động của hiệu
ứng nhà kính gây ra nên sẽ càng quan tâm đến đầu tư sản xuất điện gió, nhằm đáp ứng
được nhu cầu năng lượng trong nước đang tăng vọt.

9


Hình 1.Biểu đồ thể hiện tổng cơng suất lắp đặt năng lượng điện gió
của Việt Nam ở ngồi khơi và trong đất liền từ năm 2011 – năm 2020

Nguồn: IRENA

Biểu đồ trên cho thấy sự tăng vọt công suất lắp đặt các dự án điện gió ở Việt
Nam vào năm 2021, gấp gần 10 lần so với các năm trước đây, đạt 3.124 MW bao gồm
cả các dự án ở đất liền và ngoài khơi. Điều này giúp cho Việt Nam lần đầu tiên vượt
qua Thái Lan, trở thành top 5 quốc gia có tổng cơng suất lắp đặt điện gió lớn nhất châu
Á vào năm 2021.

10


Hình 2. Xu hướng năng lượng tái tạo ở Châu Á và top 5 quốc gia có tổng cơng
suất lắp đặt điện gió lớn nhất Châu Á năm 2021
Nguồn: IRENA

Sự tăng vọt trên cũng cho thấy một bước ngoặt lớn của Việt Nam, bước ra khỏi

cách khai thác năng lượng truyền thống với nhiều rủi ro về vấn đề ô nhiễm môi trường,
vấn đề thiếu hụt nguồn tài nguyên là năng lượng than đá.
Theo Tạp chí Cơng thương, với định hướng phát triển nền kinh tế xanh bền vững,
phù hợp với những cam kết quốc tế, thời gian qua, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều
cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có
năng lượng gió, như: Quyết định số 2068/QĐ - TTg ngày 25/11/2015 phê duyệt Chiến
lược Phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2050; Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/9/2018 về cơ
chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam; Quy hoạch Phát triển điện lực
quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ tại Quyết định số 1264/QĐ-TTg ngày
01/10/2019; Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn
đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ tại Quyết định số
1743/QĐ-TTg ngày 03/12/2019; Nghị quyết số 55 - NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ
Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong giai đoạn hơn 2 thập kỷ vừa qua, một hệ thống các cơ chế, chính sách
cho phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió đã được xây dựng và
từng bước hoàn thiện với những ưu đãi về giá cho các nhà đầu tư, nhà sản xuất, tạo
động lực thúc đẩy cho sự phát triển của thị trường năng lượng tái tạo tại Việt Nam nói
chung và điện gió nói riêng. Tiềm năng phát triển điện gió của Việt Nam vẫn còn rất
lớn, đa dạng và phong phú, vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hồn
thiện những cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ điện gió tại Việt
Nam để phục vụ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

11


1.2.3. Thực trạng
Cùng với xu thế phát triển bền vững, ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm

đến trách nhiệm đối với xã hội. Trong thời gian vài năm trở lại đây, ngày càng có
nhiều doanh nghiệp tạo tác động xã hội, đi vào giải quyết những tồn tại của xã hội như
ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu, công ăn việc làm cho người yếu thế… Theo
nghiên cứu của CSIE và UNDP, năm 2018 có khoảng 4% khu vực doanh nghiệp Việt
Nam với tổng hơn 20.000 doanh nghiệp tạo tác động tại Việt Nam. Theo thống kê năm
2020 của CSIE, có gần 1000 doanh nghiệp xã hội đã đăng ký theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014.
Hiện nay, doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hoạt động trong nhiều ngành nghề, lĩnh
vực khác nhau, tuy nhiên tỷ lệ lại không đồng đều. Theo Báo cáo nghiên cứu Hiện
trạng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, lĩnh vực phổ biến nhất mà các DNXH Việt
Nam hoạt động là nông nghiệp - chiếm 35%; tiếp theo là y tế (9%), giáo dục (9%) và
mơi trường (7%); chăm sóc trẻ em 5%; việc làm và kỹ năng 4%; bán lẻ 4%; hỗ trợ
kinh doanh 3%; ngành công nghiệp (web; thiết kế, in ấn) 2%; chăm sóc sức khỏe 2%;
hỗ trợ tài chính và dịch vụ 2%; chăm sóc xã hội 2%; giao thơng 2%; văn hóa và giải trí
1% và các lĩnh vực khác chiếm 35%. Có thể thấy rằng, DNXH ở Việt Nam có các lĩnh
vực hoạt động khá phong phú, song vẫn tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.
Thực tế, khi dịch bệnh Covid-19 xảy ra, nhóm doanh nghiệp này đã khẳng định
khả năng thích ứng và đột phá, cũng như vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn
đề của xã hội bằng những giải pháp tiên tiến và mơ hình kinh doanh đổi mới của mình.
Tính đến năm 2022, tại Việt Nam, số lượng doanh nghiệp xã hội và các doanh nghiệp
có liên quan đến yếu tố xã hội ở Việt Nam vào khoảng 50.000. Tuy nhiên, đóng góp
của những doanh nghiệp xã hội nói chung và doanh nghiệp sáng tạo xã hội nói riêng
vào GDP thì chưa có thống kê cụ thể.
Khu vực doanh nghiệp này tại Việt Nam hiện tại vẫn đang dừng lại ở các doanh
nghiệp xã hội với quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Bên cạnh đó, các yếu tố xã hội và phát triển
bền vững được lồng ghép vào công việc kinh doanh nhiều hơn là thực sự có những mơ
hình khởi nghiệp sáng tạo xã hội nổi bật.
Bối cảnh dịch bệnh COVID-19 khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí
phải đóng cửa hoặc phá sản. Khu vực các doanh nghiệp tạo tác động xã hội cũng
12



khơng nằm ngồi vịng quay đó. Chị Đỗ Hồng Vân - thành viên quỹ Patamar Capital
(một quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào công ty tạo tác động xã hội ở khu vực châu Á)
cho rằng, các DN tạo tác động xã hội tại Việt Nam thường gặp nhiều khó khăn trong
việc đo lường xã hội, làm thương hiệu, thiếu nguồn nhân lực và năng lực quản trị;
cùng với đó là thiếu khả năng nhân rộng. Trong khi các quỹ đầu tư vào lĩnh vực này
thường yêu cầu khoản đầu tư của họ vừa tạo được tác động xã hội vừa mang lại lợi
nhuận. Những khó khăn ấy càng trở nên trầm trọng hơn khi doanh nghiệp cũng phải
đối mặt với các yếu tố thị trường đang biến động khó lường trước đại dịch Covid-19.
Các doanh nghiệp xã hội giai đoạn này gồm ba nhóm chính là: Các tổ chức NGO
(tổ chức phi chính phủ), Nhóm doanh nghiệp theo đuổi các giá trị kép và nhóm các
doanh nghiệp xã hội mới như công ty cổ phần, công ty TNHH.
Theo số liệu thống kê năm 2019, có hơn 60% số doanh nghiệp xã hội tham gia
khảo sát đạt kinh doanh có lãi, 6% doanh nghiệp đạt mức hịa vốn và chỉ có 10% trên
tổng số doanh nghiệp xã hội là thua lỗ. Cụ thể:

Hình 3: Thống kê khảo sát lượng doanh nghiệp lãi, lỗ và hòa vốn (%)

Khi dịch bệnh covid bùng phát, số ca mắc COVID-19 ở Việt Nam ngày càng tăng,
tác động ngày càng tiêu cực của COVID-19 đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp do các nhóm dễ bị tổn thương dẫn đầu, vẫn còn kéo dài và gây thiệt hại
nghiêm trọng. Nghiên cứu của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) vào
tháng 8 năm 2021 cho thấy doanh thu của các doanh nghiệp hộ gia đình và doanh
nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ giảm mạnh, buộc họ phải cắt giảm hoạt động và sa thải
công nhân. Doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn và vận tải hành khách là những
doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Tác động này càng trầm trọng hơn đối với
các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ. Các nghiên cứu đánh giá cơ bản cho thấy gần
47% doanh nghiệp tạo tác động xã hội được phỏng vấn bị giảm doanh thu do tác động
13



của COVID-19. Doanh nghiệp có tỷ lệ giảm doanh thu cao nhất thuộc về nhóm sử
dụng lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và hợp tác xã.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thơng thường cũng ngày càng nhận thức được
trách nhiệm xã hội của mình, đặc biệt trong giai đoạn Covid 19 và có những thay đổi
tích cực nhằm hướng đến cả những mục tiêu về xã hội. Ví dụ điển hình có thể thấy đối
với nền tảng mạng xã hội Tiktok, ông Nguyễn Lâm Thanh – Giám đốc Chính sách
Tiktok Việt Nam chia sẻ: “Khi dịch COVID19 xuất hiện ở Việt Nam, Tiktok hân hạnh
là một trong những đơn vị đầu tiên phối hợp với các bên liên quan để xây dựng những
chiến dịch nhằm lan tỏa và truyền tải những thông tin, thông điệp hữu ích đến cộng
đồng. Hiện nay Tiktok cũng đã và đang có những chính sách để hỗ trợ các tổ chức xã
hội: Hỗ trợ cung cấp tick xanh, đào tạo, lan tỏa nội dung mà các tổ chức đăng tải.
Khoảng 1 tháng 1 lần, Tiktok sẽ lựa ra những chiến dịch nhằm hỗ trợ xã hội như bảo
vệ môi trường, bảo vệ trẻ em, … để thay đổi nhận thức và lan tỏa những thơng điệp
tích cực. Chúng tơi cũng rất mừng vì gần đây các nội dung về giáo dục đã xuất hiện rất
nhiều trên Tiktok và nhận được sự quan tâm của rất nhiều người sử dụng.”

14


1.3. Đánh giá tác động của các dự án SII đến nền kinh tế giai đoạn COVID-19 và
các khó khăn mà các dự án SII đang gặp phải
1.3.1. Tác động của các dự án SII đến nền kinh tế giai đoạn COVID-19
Các dự án SII góp phần tạo tác động tích cực tới mơi trường, hướng tới sự
phát triển bền vững
Những năm gần đây, trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19 có những biến động
phức tạp và khó lường, các dự án đầu tư tạo tác động xã hội (Social Impact
Investment) ngày càng được quan tâm, đồng thời mô hình các doanh nghiệp xã hội
(Social Impact Business) cũng trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, hầu hết

các dự án SII thường liên quan đến giải quyết các vấn đề môi trường – một trong
những vấn đề vô cùng quan trọng trong xã hội hiện đại.
Tiêu biểu là chiều 15/12/2021, Công ty CP Xây dựng 47, Công ty CP Vũ
Phong Energy Group và Công ty STEAG Energy Services GmbH (Cộng hòa liên bang
Đức) đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác cung cấp các dịch vụ tư vấn phát triển và triển khai
thực hiện dự án điện gió tại Việt Nam. Thị trường điện gió đang ở giai đoạn đầu phát
triển, có dư địa tăng trưởng lớn và điện gió được nhận định sẽ là một trong những trụ
cột quan trọng của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai.
Năng lượng điện gió là một nguồn năng lượng tái tạo, hứa hẹn sẽ đem lại một
phương thức sản xuất điện sạch, không gây ô nhiễm môi trường. Không giống như các
loại nhà máy điện khác, nó khơng thải ra chất ơ nhiễm khơng khí hoặc khí nhà kính.
Các tuabin gió tạo ra điện từ gió đi ngang qua một cách vơ hại. Năng lượng gió thân
thiện với môi trường hơn nhiều so với việc đốt nhiên liệu hóa thạch để lấy điện.
Bên cạnh những dự án về năng lượng điện gió, năng lượng mặt trời cũng nhận
được nhiều sự quan tâm từ các nhà đầu tư. Bình Thuận là một trong những tỉnh có
tiềm năng năng lượng mặt trời đánh giá cao nhất hiện nay. Bình Thuận có tỷ lệ bức xạ
nhiệt cao và ổn định. Đây là một lý do chính ảnh hưởng tới việc thu hút các nhà đầu tư
dự án lắp điện mặt trời trong và ngồi nước.
Có thể thấy, những dự án này khơng chỉ góp phần giảm thiểu những biến đổi về
mơi trường khí hậu mà cịn tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt.

15


Các dự án SII tạo điều kiện nhằm cung cấp việc làm cho người lao động có
thu nhập thấp
Theo Báo cáo nghiên cứu Hiện trạng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, lĩnh vực
phổ biến nhất của các dự án SII là nông nghiệp - chiếm 35%. Những dự án kinh doanh
tạo tác động xã hội bao trùm nông nghiệp sẽ đóng vai trị lớn trong tác động xã hội,
nhận định của tọa đàm “Thúc đẩy kinh doanh bao trùm tại Việt Nam trong nông

nghiệp, thực phẩm” do Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP)
phối hợp với Cục Phát triển Doanh nghiệp (AED), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT)
tổ chức ngày 19/5/2022.
Làm rõ hơn những tác động của mơ hình kinh doanh bền vững tại tọa đàm, ông
Ignacio Blanco, Quản lý Chương trình ESCAP đã đưa ra kết quả nghiên cứu về hiệu
quả mang lại khi các doanh nghiệp thực hiện mô hình kinh doanh bao trùm. Ơng cho
biết, mơ hình kinh doanh bao trùm ở Việt Nam chủ yếu ở lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra
nguồn thu nhập, sinh kế cho những người nông nghiệp thu nhập thấp.
Các doanh nghiệp kinh doanh theo mơ hình bao trùm đều tạo ra tác động xã hội
và được đánh giá dự kiến sẽ tăng doanh thu 65% từ 2018 – 2023. Con số này tăng hơn
đáng kể so với dự kiến của các doanh nghiệp khơng có mơ hình kinh doanh bao trùm,
chỉ có thể tăng doanh thu khoảng 38%.
Ước tính cứ 13 doanh nghiệp nông nghiệp kinh doanh bao trùm sẽ mang lại việc
làm cho 1,8 triệu nam giới và phụ nữ, con số này sẽ tiếp tục tăng lên 2,5 triệu người
vào năm 2023.
“Kết quả từ các mơ hình kinh doanh bao trùm lĩnh vực nơng nghiệp sẽ đóng vai
trị lớn trong tác động xã hội giúp những hộ kinh doanh nhỏ được nhận những cơ hội
phát triển khác biệt so với trước. Chương trình sẽ có sự chia sẻ kinh nghiệm của các
quốc gia khác để phát triển mơ hình kinh doanh bao trùm ở Việt Nam”, bà Marta Perez
Cuso - Cán bộ Kinh tế ESCAP cho biết.
Hệ sinh thái 3 bên cùng có lợi sẽ ra đời từ các mơ hình này, trong đó, các doanh
nghiệp có khả năng vận hành về mặt thương mại sẽ được tiếp cận các cơ hội thị trường
mới, cơ hội đầu tư và đem lại giá trị về mặt xã hội; những người nông dân thu nhập
thấp được tạo cơ hội sinh kế có điều kiện tiếp cận những điều kiện gia tăng thu nhập
16


mỗi tháng; Chính phủ có vai trị cung cấp các chính sách và hỗ trợ cần thiết cho các
bên trong hệ sinh thái.
Các dự án SII cũng đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế

quốc gia
Thực tế, hầu hết các dự án SII đều đến từ các doanh nghiệp xã hội (SIB). Tại Việt
Nam, số lượng doanh nghiệp xã hội và các doanh nghiệp có liên quan đến yếu tố xã
hội ở Việt Nam vào khoảng 50.000. Vì vậy, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực về
mặt xã hội, những doanh nghiệp này không chỉ cũng đóng góp vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế.
Tuy nhiên, đóng góp của những doanh nghiệp xã hội nói chung và doanh nghiệp
sáng tạo xã hội nói riêng vào GDP thì chưa có thống kê cụ thể.
Theo những người trong cuộc, hạn chế của khu vực doanh nghiệp này tại Việt
Nam hiện tại vẫn đang dừng lại ở các doanh nghiệp xã hội với quy mô nhỏ và siêu
nhỏ. Bên cạnh đó, các yếu tố xã hội và phát triển bền vững được lồng ghép vào công
việc kinh doanh nhiều hơn là thực sự có những mơ hình khởi nghiệp sáng tạo xã hội
nổi bật.
Các chuyên gia cũng đánh giá, số lượng những doanh nghiệp đi theo hướng tiếp
cận này ở Việt Nam vẫn rất hạn chế mặc dù tiềm năng cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp trong lĩnh vực này là rất lớn.
1.3.2. Các khó khăn mà các dự án SII đang gặp phải
Thứ nhất, hiện nay, đầu tư tác động xã hội còn là một khái niệm mới đối với rất
nhiều bên liên quan khác nhau từ người dân, phương tiện thông tin đại chúng đến giới
doanh nghiệp truyền thống, cách tiếp cận của các doanh nghiệp đầu tư tác động xã hội
cũng như vai trò của đầu tư tác động xã hội trong đời sống kinh tế- xã hội của Việt
Nam chưa được thấu hiểu và tiếp nhận rõ ràng. Lâu nay, nhận thức trong cộng đồng
luôn tồn tại sự phân biệt rạch ròi giữa các hoạt động thương mại, vì mục đích lợi
nhuận và các hoạt động xã hội, phi lợi nhuận. Nói cách khác, xã hội đã quá quen với
nếp nghĩ rằng hai loại hình hoạt động này không thể cùng tồn tại thống nhất trong
cùng một tổ chức.

17



Việc nhầm lẫn các doanh nghiệp với các tổ chức từ thiện, nhân đạo hoặc các
chương trình xã hội truyền thống có thể dẫn tới tâm lý phụ thuộc hoặc sức ỳ từ cộng
đồng, trong khi các đối tác chưa sẵn sàng chấp nhận sự cải tiến về phương thức hoạt
động mới có động lực kinh tế. Ngược lại, doanh nghiệp đầu tư tác động xã hội cũng có
thể bị hiểu sai và hoài nghi về mục tiêu xã hội khi vận hành dưới hình thức doanh
nghiệp với các hoạt động tạo doanh thu, lợi nhuận. Việc thiếu đi sự tin tưởng và chấp
nhận của cộng đồng tạo ra những rào cản nhất định cho các doanh nghiệp đầu tư tác
động xã hội khi làm việc với các bên liên quan, làm gia tăng các chi phí về thời gian,
nguồn lực và chi phí cơ hội và hạn chế khả năng tạo tác động tích cực, bền vững.
Thứ hai, một trong những thách thức và khó khăn của đầu tư tác động là làm thế
nào để đo lường được chính xác tác động xã hội. Thật khó để đạt được sự nhất quán về
đo lường giữa các khoản đầu tư khác nhau vì có rất nhiều tác động, thiếu tính tương
đồng và khó khăn trong việc định lượng và so sánh tác động. Hiện tại trên thế giới 17
SDGs (The Sustainable Development Goals) là công cụ đo lường hiệu suất tác động
được sử dụng phổ biến nhất, nơi các nhà đầu tư chỉ định tác động cho một hoặc nhiều
mục tiêu, chẳng hạn như khí hậu hoặc bình đẳng giới. Trên thực tế ở Việt Nam, chỉ có
một số rất ít các dự án, doanh nghiệp đầu tư tác động xã hội có sử dụng các cơng cụ
độc lập hoặc các cơng cụ bên ngồi để đo lương tác động xã hội
Thứ ba, đầu tư tác động vẫn chưa huy động được nhiều nguồn vốn từ khu vực tư
nhân thực sự. Cho đến nay, phần lớn các quỹ hiện được coi là đầu tư tác động đến từ
các tổ chức tài chính phát triển và các nền tảng chính - rất giống đầu tư vào tài chính vi
mơ cách đây 15 năm.
Thứ tư, đầu tư tác động chưa có loại “hệ sinh thái” cần thiết để hỗ trợ các công
ty khi họ chuyển từ thử nghiệm ý tưởng ban đầu sang mở rộng quy mô. Thế giới đầu
tư mạo hiểm liên quan đến nhiều quỹ chuyên về các phần cụ thể của quá trình tăng
trưởng kinh doanh, từ các nhà đầu tư thiên thần trước khi thương mại đến các quỹ giai
đoạn sau có thể đầu tư và sau đó cung cấp vốn mở rộng. Ngoài tiền, một hệ sinh thái
như vậy cung cấp sự cố vấn phù hợp cho các doanh nhân, góp phần vào tỷ lệ thành
cơng của doanh nghiệp.


18


Một số khó khăn và thách thức khác khiến cho các dự án đầu tư tác động xã hội
chưa mang lại được tối đa tác động cho xã hội như: công nghệ yếu, năng suất lao động
và chất lượng nguồn nhân lực, thủ tục hành chính rườm rà, …

19


2

KẾT LUẬN

Có thể thấy đầu tư tạo tác động xã hội đang là một xu hướng đầu tư mới đang phát
triển rất mạnh mẽ ở Việt Nam trong những năm gần đây. Covid 19 đã gây nên những
tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tạo tác động xã
hội là những thành phần dễ bị tổn thương khi chống đỡ lại dịch bệnh nhưng. Bên cạnh
những thiệt hại mà covid 19 đem lại thì covid 19 lại là hoàn cảnh để SIBs chứng minh
được vị thế quan trọng của mình trong thời đại kinh tế phát triển bền vững như hiện
nay.
Thông qua việc đưa ra các cơ sở lý thuyết về đầu tư tạo tác động và phân tích thực
trạng cũng như tác động của SII ở Việt Nam trong giai đoạn covid vừa qua, bài luận
giúp bạn đọc có những cái nhìn sâu sắc hơn về xu hướng đầu tư mới này, về thái độ và
hành động của chính phủ cũng như nhìn nhận về những tác động cả tích cực và tiêu
cực mà SII đem lại.
Bài luận này được phân tích trên phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết,
phương pháp tổng kết kinh nghiệm từ những nguồn tài liệu chính thống. Những thông
tin được cung cấp trong bài luận là những thơng tin thứ cấp và được chúng em phân
tích, tổng hợp lại để đảm bảo tính thống nhất cao nhất.

Bên cạnh những kết quả nghiên cứu mà bài luận đã làm được thì vẫn cịn tồn tại
song song những hạn chế như chưa phân tích sâu về cách lĩnh vực cụ thể trong khu
vực đầu tư tạo tác động này. Rất mong cơ giáo và bạn đọc sẽ đóng góp ý kiến để bàu
luận của chúng em được hồn thiện hơn

20


3

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đức Dũng, 2021. Doanh nghiệp Việt – Đức hợp tác phát triển dự án điện gió.
[online] bnews.vn. Truy cập tại: < [Truy cập ngày 26/05/2022]

2. Gia Bảo, 2022. Doanh nghiệp tạo tác động tại Việt Nam vì sao vẫn vắng? [online]
ictvietnam.vn. Truy cập tại: < [Truy cập ngày 27/05/2022]

3. Hằng Hà, 2019. Đầu tư tác động (Impact Investing) là gì? Cách hoạt động của đầu
tư tác động. [online] vietnambiz. Truy cập tại < [Truy cập ngày 18/05/2022]

4. Minh Anh, 2021. Hỗ trợ hệ sinh thái các doanh nghiệp tạo tác động xã hội tại Việt
Nam ứng phó với Covid 19. [online] dangcongsan.vn. Truy cập tại
< [Truy
cập ngày 20/05/2022]

5. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức, Phạm Kiều Oanh, Trần Thị Hồng Gấm, 2012.
Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam – khái niệm, bối cảnh và chính sách. [online]. Truy
cập tại
< />usp=sharing> [Truy cập ngày 28/05/2022]


6. Phương Thanh, 2020. Vinh danh doanh nghiệp tạo tác động xã hội Việt Nam năm
2020. [online] thiduakhenthuongvn.org.vn. Truy cập tại
21


×