Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
1.4.1. Lý do sử dụng rào cản thương mại ....................................................................... 33
Mặc dù nhiều học thuyết đã chứng minh: trong hầu hết các trường hợp, những rào cản
thương mại đều làm giảm phúc lợi tổng thể của cả xã hội, nhưng vẫn được các quốc gia
sử dụng. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó phải kể tới việc chính phủ muốn
phân phối lại phúc lợi của xã hội. Xã hội được nhắc tới ở đây được chia làm ba nhóm
chính: các nhà sản xuất, những người tiêu dùng, và chính phủ. Để tạo ra nguồn thu
nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính mình, các chính phủ thường dựa vào thuế
quan nhập khẩu và các nguồn thu từ rào cản thương mại nhằm tăng nguồn thu cho ngân
sách. Việc đánh thuế vào hàng hoá tạo ra nguồn thu dễ dàng hơn là đánh thuế thu nhập,
cũng như thuế doanh thu từ các cửa hàng bán lẻ. Đồng thời, nó cũng không tạo ra sự
bất bình của người dân trong nước. ................................................................................. 33
1.4.2. Xu hướng sử dụng các rào cản ............................................................................. 35
3.1.Những cơ hội, thách thức của ngành thuỷ sản khi Việt Nam đã gia nhập WTO .........59
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế đang được các quốc gia trên thế giới coi là giải pháp tất yếu
để đẩy mạnh và tháo gỡ những khó khăn của vấn đề tăng trưởng kinh tế. Nó có thể
giúp các quốc gia vừa khai thác được những ưu thế sẵn có trong nước cũng như tận
dụng được lợi thế từ bên ngoài như: thị trường, vốn, công nghệ và phương pháp quản
lý tiên tiến.Cùng hòa mình với xu thế chung đó của thế giới, sau năm 1986, Việt Nam
không ngừng tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế và hiện nay đã là thành viên
của rất nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như ASEAN, AFTA, ASEM,
APEC, UNIDO...Đặc biệt, gần đây nhất, ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Gia nhập WTO
thực sự là một bước ngoặt lớn với Việt Nam, nó cho phép Việt Nam thực sự tham gia
vào nhịp sống chung của kinh tế thế giới, được tiếp cận với môi trường thương mại
có quy mô toàn cầu. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam có được vị thế bình đẳng trong
việc hoạch định các chính sách thương mại, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất
nước, của doanh nghiệp.
Chuyên đề tốt nghiệp
Bên cạnh thuế quan là công cụ bảo hộ đã được các định chế thương mại quốc
tế thừa nhận, thì trong thời gian qua các biện pháp phi thuế quan cũng được rất nhiều
quốc gia sử dụng bởi những ưu điểm cũng như tác động nhanh, mạnh linh hoạt và
phong phú của nó. Đặc biệt ngày nay, trong xu thế hội nhập trên toàn thế giới, các
biện pháp, rào cản thuế quan truyền thống đã dỡ bỏ đi rất nhiều bởi các hiệp định
thương mại, song phương và các thỏa ước quốc tế… Tuy nhiên có một thực tế cho
thấy rằng, tự do hóa thương mại là một quá trình lâu dài, gắn chặt với quá trình đàm
phán để cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan. Các nước, đặc biệt là các nước
công nghiệp phát triển, một mặt luôn đi đầu trong việc đòi hỏi đàm phán để mở cửa
thị trường và thúc đẩy tự do hóa thương mại, mặt khác lại luôn đua ra các biện pháp
tinh vi hơn và các rào cản phức tạp hơn. Ngày nay, các nước phát triển phải đối mặt
với sự cạnh tranh từ các luồng hàng hóa của các nước phát triển với giá thấp, chất
lượng trung bình… Chính bởi lẽ đó, các rào cản phi thuế quan với những quy định
khắt khe đã được dựng lên nhằm hạn chế, gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu đồng
thời bảo hộ được nền sản xuất trong nước.
Mỹ là một quốc gia phát triển, và cũng như nhiều quốc gia phát triển khác
như: Nhật, EU. . . Mỹ được coi là một thị trường rất khó tính không chỉ bởi người
tiêu dùng rất khắt khe, mà còn vì các luật lệ, các quy định kỹ thuật đặt ra đối với hàng
hoá nhập khẩu rất cao. Đặc biệt, đối với những mặt hàng nông thuỷ hải sản các quy
định đó càng chặt chẽ như quy định hàng đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật do phía Mỹ
đề ra; quy định sử dụng bao bì thân thiện với môi trường; quy định về sản phẩm thuỷ
sản bền vững... Hàng hoá Việt Nam muốn được xuất khẩu vào Mỹ nhất định phải
vượt qua các rào cản đó. Trong 10 năm qua, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam vào thị trường Mỹ đã tăng rát nhanh. Và dự báo trong tương lai kim ngạch này
còn tiếp tục tăng mạnh. Tuy nhiên, thời gian gần cho thấy trong thời gian qua chúng
ta liên tục phải đối đầu với những vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ, hay các mặt
hàng không đủ yêu cầu kỹ thuật đã làm thu hẹp thị trường xuất khẩu dẫn tới giảm giá
trị kim ngạch xuất khẩu. Chính vì vậy, đề tài “Rào cản phi thuế quan trong
Chuyên đề tốt nghiệp
thương mại của Mỹ đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam và giải pháp
để vượt qua các rào cản đó ” được chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích: Đề tài được chọn nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn về các rào cản
phi thuế quan trong thương mại của Mỹ đối với hàng xuất khẩu nói chung và thuỷ
sản xuất khẩu nói riêng từ Việt Nam, nhằm giải đáp câu hỏi:làm thế nào để vượt qua
được các rào cản khó tính này. Đồng thời kiến nghị một số giải pháp để khắc phục
vấn đề này.
3. Đối tượng : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các rào cản phi thuế quan
của thị trường Mỹ: các quy định về kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về
dán nhãn, quy trình nhập khẩu, quy định bảo vệ môi trường, các quy định chống bán
phá giá, áp thuế bán phá giá . . .; tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị
trường Mỹ; những thách thức đối với thuỷ sản tại thị trường này, sự kiện một số
lượng tôm, cá tra basa xuất khẩu bị áp thuế chống bán phá giá
4. Phạm vi: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các rào cản phi thuế quan của Mỹ
đối với mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam giai đoạn 1998- 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp được sử dụng chủ yếu đề
nghiên cứu: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh. . .
Nguồn thông tin sử dụng trong chuyên đề được thu thập từ: các tạp chí của
ngành thuỷ sản, trên Internet, các sách báo có liên quan khác. . .
6. Kết cấu bài viết
Ngoài lời mở đầu và kết luận, toàn bộ nội dung của bài viết được chia làm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về rào cản phi thuế quan và sự cần thiết phải
vượt qua các rào cản này
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2: Thực trạng hàng rào phi thuế quan của Mỹ với các sản phẩm
xuất khẩu thủy sản của nước ta
Chương 3: Phương hướng, giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan
nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ
.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI VƯỢT QUA CÁC RÀO CẢN NÀY
1.1. Khái niệm về hàng rào phi thuế quan và biện pháp phi thuế quan
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc,
mục tiêu, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm điều chỉnh các
hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với các lợi thế quốc gia trong từng thời kỳ
nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia từ thương mại quốc tế.
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ phát huy được thế mạnh
của nước mình, tận hưởng được những lợi thế từ thị trường thế giới. Nhưng mặt
khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém và bất lợi của chính quốc gia đó. Do vậy các
quốc gia thường phải sử dụng một hệ thống các công cụ để điều chỉnh hoạt động
thương mại quốc tế. Trong đó phải kể đến việc sử dụng hàng rào phi thuế quan-một
công cụ linh hoạt, tác động nhanh mạnh. Hàng rào phi thuế quan không chỉ có ý
nghĩa trong việc bảo hộ thị trường nội địa, hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền
kinh tế khá có hiệu quả mà còn là công cụ dùng để phân biệt đói xử trong quan hệ đối
ngoại.
Chuyên đề tốt nghiệp
Hiện nay có nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan, Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OCED) năm 1997 đã định nghĩa: “Hàng rào phi thuế quan là
những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc gia sử
dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn nhằm hạn chế nhập khẩu”.
Tương tự như vậy, cơ sở hệ thống dữ liệu của Hệ thống phân tích và Thông tin
Thương mại (TRAINS) của UNCTAD chủ yếu tính đến các biện pháp biên giới.
Phương pháp tiếp cận này bỏ qua phần lớn những biện pháp liên quan đến xuất khẩu
và việc mua sắm của Chính Phủ (như nguyên tắc về hàm lượng giá trị trong nước,
các khoản trợ cấp, giảm thuế, các biện pháp biên giới về phân biệt đối xử và biện
pháp tư nhân chống cạnh tranh). Thực tế, phương pháp tiếp cận về những biện pháp
biên giới được áp dụng nhiều hơn vì các lý do tình thế chứ không phải các tính toán
nghiêm khắc, trí tuệ.
Nghiên cứu của PECC (Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương) năm 1995
mô tả “các hàng rào phi thuế quan là mọi công cụ phi thuế quan can thiệp vào thương
mại bằng cách này làm biến dạng sản xuất trong nước”. (theo nghiên cứu của tiến sĩ
Nguyễn Hữu Khải- Hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế)
Các hàng rào phi thuế quan không nên được xem như một sự đồng nghĩa với
các biện pháp phi thuế quan, mà nên coi là tập hợp một số biện pháp phi thuế quan.
Tất cả các hàng rào phi thuế quan đều là các biện pháp phi thuế quan, song không
phải tất cả các biện pháp phi thuế quan là các hàng rào phi thuế quan. Các biện pháp
phi thuế quan có thể bao gồm các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, chúng không phải là
rào cản với thương mại. Chính phủ cũng thường dùng thuật ngữ có vẻ trung lập này
để mô tả những biện pháp được sử dụng để quản lý nhập khẩu với mục đích hợp
pháp (ví dụ các thủ tục bảo đảm thực vật được quốc tế công nhận).
Trong thực tế, việc xác định những biện pháp phi thuế quan nào là các hàng rào
phi thuế quan khá khó khăn. Mục đích sử dụng các công cụ, chính sách là quan trọng,
song có những chính sách, biện pháp mà tác dụng của chúng không thể được xác
Chuyên đề tốt nghiệp
định, nếu không có sự điều tra kỹ lưỡng về kết quả, bản chất và hoạt động thực sự
của chúng.
Các hàng rào phi thuế quan là một tập hợp thay thế của các biện pháp phi thuế
quan. Các biện pháp phi thuế quan phải có mục đích bảo vệ sản xuất trong nươc và
không được chấp nhận như một phương sách điều chỉnh chính thống trên phạm vi
quốc tế (như các hạn chế kiểm dịch).
Bên cạnh các định nghĩa đã đề cập đến, theo WTO (tổ chức thương mại quốc
tế): “Biện pháp phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan, liên quan hoặc
ảnh hưởng đến sự luân chuyển hàng hóa giữa các nước” (theo nghiên cứu của tiến sĩ
Nguyễn Hữu Khải- Hàng rào phi thuế quan trong thương mại quốc tế)
Từ đó, WTO xây dựng về hàng rào phi thuế quan như sau: “Hàng rào phi thuế
quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thương mại mà
không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng”.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, thuật ngữ rào cản hay hàng rào, biện pháp
phi thuế quan tuy được sử dụng khá phổ biến nhưng hiện nay chưa có một định nghĩa
rõ ràng, chính thống nào được chấp nhận trên toàn thế giới. Đây là vấn đề rất phức
tạp vì hiện nay trên thế giới còn rất nhiều loại rào cản tinh vi, và xuất hiện ở hầu hết
mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Trong đề tài này, để thống nhất trong việc nghiên cứu, tôi lựa chọn khái niệm
rào cản phi thuế quan, theo cách hiểu chung nhất, là bất kỳ biện pháp hay hành động
nào gây cản trở đối với thương mại quốc tế.
1.2. Phân loại các biện pháp phi thuế quan
Hiện nay cũng chưa có tài liệu nghiên cứu nào được thống nhất trên toàn thế
giới đề cập tới phân loại các rào cản phi thuế quan vì khái niệm và nội hàm của rào
cản chỉ có tính chất tương đối. Chẳng hạn, biện pháp phi thuế quan sẽ không là rào
Chuyên đề tốt nghiệp
cản nếu nó không đặt quá mức cần thiết và không vi phạm nguyên tắc đối xử quốc
gia, nhưng nó sẽ trở thành hàng rào phi thuế quan nếu như nó gây trở ngại tới thương
mại quốc gia khác.
Tuy nhiên, có cách phân loại hiện nay được áp dụng khá phổ biến là dựa theo
các quy định của WTO-tổ chức thương mại thế giới như sau:
1.2.1.Những biện pháp phi thuế quan không phù hợp với quy định của WTO
Các biện pháp phi thuế quan thuộc nhóm này hoặc là vi phạm rõ ràng quy định
của WTO (ví dụ áp dụng giá nhập khẩu tối thiểu để xác định trị giá tính thuế hải
quan) hay chỉ là phù hợp trong những trường hợp đặc biệt (ví dụ cấm nhập khẩu hàng
hóa có hại cho môi trường). Nhóm này bao gồm tất cả các biện pháp hạn chế nhập
khẩu sau đây:
1.2.1.1.Các biện pháp quản lý định lượng
a. Các trường hợp ngăn cấm bao gồm:
• Cấm hoàn toàn: trừ trường hợp đối với lý do môi trường, sức khỏe, thuần
phong mỹ tục, an ninh quốc gia
• Ngừng cấp giấy phép nhập khẩu
• Cấm theo mùa
• Cấm tạm thời
• Cấm trên cơ sở nguồn gốc (cấm vận)
• Cấm đối với hạng mục sản phẩm nhạy cảm
b. Quản lý bằng hạn ngạch
Chuyên đề tốt nghiệp
Hạn ngạch là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng
nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong một thời gian
nhất định.
• Hạn ngạch toàn cầu
- Không xác định
- Xác định đối với các thành phần xuất khẩu
• Hạn ngạch song phương
• Hạn ngạch theo mùa
• Hạn ngạch liên quan đến thực hiện xuất khẩu
• Hạn ngạch liên quan đến bán hàng hóa nội địa
• Hạn ngạch của các hạng mục sản phẩm nhạy cảm
c. Cấp phép không tự động
Được xác định như là các thủ tục hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ
cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu khác (không liên quan tới
mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính thích hợp là điều kiện tiên quyết để
được phép nhập khẩu.
• Giấy phép không có tiêu chuẩn thanh toán cụ thể
• Giấy phép đối với người mua chọn lọc
• Giấy phép đối với việc sử dụng cụ thể:
- Liên quan tới hoạt động xuất khẩu
- Đối với mục đích ngoài xuất khẩu
Chuyên đề tốt nghiệp
• Giấy phép liên quan đến nội địa hóa
- Mua hàng hóa trong nước
- Yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa
- Thương mại hàng đổi hàng hay mua bán đối lưu
• Giấy phép liên quan đến giao dịch ngoại hối không chính thức
- Chuyển đổi ngoại tệ bên ngoài
- Chuyển đổi ngoại tệ của chính các nhà nhập khẩu
d.Các thỏa thuận hạn chế xuất khẩu
Các hạn chế được đặt ra bởi các nước nhập khẩu nhưng được nước xuất khẩu
quản lý:
• Các thỏa thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện
• Các thỏa thuận tiếp thị có trật tự
• Thỏa thuận liên quan đến hiệp định đa sợi MFA
- Thỏa thuận hạn ngạch
- Thỏa thuận tư vấn
- Thỏa thuận hợp tác hành chính
• Thỏa thuận hạn chế xuất khẩu ngành hàng dệt may ngoài Hiệp định đa sợi
MFA
1.2.1.2. Các biện pháp tương đương thuế quan
Chuyên đề tốt nghiệp
Được định nghĩa như những biện pháp làm tăng chi phí theo cách tương tự đối
với các biện pháp thuế quan. Bao gồm:
• Phụ phí hải quan: Đây là loại chi phí thu thêm của chủ hàng phục vụ cho công
tác quản lý, làm thủ tục của Hải quan. Phụ phí Hải quan còn được hiểu là phí
thu thêm của hoặc bổ sung thêm, là một phương tiện chính sách thương mại
độc lập để tăng thu nhập tài chính hoặc bảo hộ công nghiệp trong nước.
• Thuế và chi phí bổ sung: Chi phí bổ sung bao gồm các loại thuế và lệ phí khác
nhau đặt ra đối với hàng hóa nhập khẩu cũng giống như với phụ phí hải quan
được đặt ra nhằm mục đích tăng thêm một phần thu nhập ngân sách chủ yếu
phục vụ công tác hành thu. Nhưng mặt khác còn có ý nghĩa bảo hộ như một
loại rào cản phi thuế quan khác gồm một số loại cơ bản sau: Thuế đối với các
giao dịch chuyển đổi ngoại tệ; thuế gián tem; lệ phí giấy phép nhập khẩu; lệ phí
hóa đơn lãnh sự; thuế thống kê; thuế đối với các phương tiện vận tải…
• Định giá hải quan theo quy định: Định giá hải quan theo quy định làm biến đổi
thuế theo giá hàng hóa thành một dạng thuế đặc biệt. Biện pháp này được đưa
ra như một phương tiện để tránh gian lận hoặc bảo vệ công nghiệp trong nước.
1.2.1.3. Các biện pháp tài chính
Các biện pháp quy định sự tham gia và chi phí của việc chuyển đổi ngoại tệ đối
với việc nhập khẩu và xác định các điều kiện thanh toán.
• Các yêu cầu thanh toán trước: thanh toán trước các giá trị giao dịch nhập khẩu
trong một thời gian cho phép trước khi nhập khẩu và/hoặc thuế nhập khẩu liên
quan được yêu cầu tại thời điểm giao dịch hoặc cấp giấy phép nhập khẩu:
- Yêu cầu giới hạn tiền mặt: Nghĩa vụ gửi toàn bộ số tiền liên quan đến giá
trị giao dịch hoặc một phần được xác định của số tiền đó trong ngân hàng
Chuyên đề tốt nghiệp
ngoại thương trước khi mở thư tín dụng. Việc thanh toán có thể được yêu
cầu bằng ngoại tệ
- Tiền gửi có thể trả lại đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm: Việc gửi
lại tiền gửi là chi phí được trả lại khác khi các thùng hàng hoặc các sản
phẩm đã sử dụng được trả lại hệ thống giao nhận
• Tỷ giá hối đoái đa dạng
• Xác định tỷ giá hối đoái chính thức hạn chế, Ủy quyền ngân hàng
• Yêu cầu giao lại chuyển đổi ngoại tệ
• Các quy định liên quan đến điều kiện chi trả đối với nhập khẩu: Các quy định
cụ thể liên quan đến các điều kiện thanh toán của quá trình nhập khẩu và việc
đạt được và sử dụng tín dụng (nước ngoài và trong nước) đối với vấn đề nhập
khẩu tài chính.
• Trì hoãn chuyển giao xếp hàng
1.2.1.4. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp
• Các hạn chế đối với công ty cụ thể (đầu mối xuất nhập khẩu)
- Hạn ngạch đối với công ty cụ thể
- Phê chuẩn chọn lọc các nhà nhập khẩu
• Các biện pháp độc quyền: các biện pháp tạo nên một tình huống độc quyền,
bằng cách đưa ra các quyền riêng biệt cho một hoặc một nhóm hạn chế các nhà
kinh doanh vì những lí do xã hội tài chính hoặc kinh tế. Bao gồm
- Kênh nhập khẩu duy nhất: tất cả việc nhập khẩu hoặc việc nhập khẩu một
loại hàng hóa chọn lọc phải thông qua các cơ quan nhà nước hoặc các doanh
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp do nhà nước quản lý. (đôi khi các khu vực tư nhân cũng có những
quy định nhập khẩu riêng biệt). Bao gồm: quản lý doanh nghiệp thương mại
nhà nước; Cơ quan nhập khẩu duy nhất.
- Các dịch vụ quốc gia bắt buộc: các quyền riêng biệt được chính phủ thừa
nhận về bảo hiểm quốc gia và các công ty vận tải biển đối với toàn bộ hoặc
một phần cụ thể của việc nhập khẩu. Bao gồm: bảo hiểm quốc gia bắt buộc,
vận tải quốc gia bắt buộc.
1.2.1.5. Các biện pháp liên quan đến đầu tư
Do quan điểm, mục đích khác nhau giữa các nước phát triển và đang phát triển
về đầu tư nước ngoài, theo đó các quốc gia đang phát triển không muốn thông qua
đầu tư nước ngoài lại làm thị trường nước sở tại bị lũng đoạn. Do vậy, các nước này
thường đặt ra một loạt các biện pháp có thể coi như rào cản phi thuế quan nhằm hạn
chế những tác động mà họ coi là bất lợi như:
• Quy định về tỷ lệ nội địa hóa: ví dụ như năm 1999 Thái Lan đặt ra tỷ lệ nội địa
đối với xe 4 chỗ ngồi là 54%; xe tải nhẹ từ 65 đến 80%...
• Quy định về tỷ lệ ngoại hối: ví dụ như Trung Quốc và Thái Lan thường yêu cầu
các công ty nước ngoài phải đảm bảo một tỷ lệ ngoại hối thu được hợp lý giữa
nguồn thu qua xuất khẩu và các nguồn thu khác…
1.2.2. Những biện pháp phù hợp với quy định của WTO nhưng không được
mang tính bảo hộ
Các biện pháp thuộc nhóm này là các biện pháp hạn chế nhập khẩu dựa trên
những tiêu chuẩn rõ ràng được thừa nhận nhưng không mang tính chất bảo hộ
• Các biện pháp kỹ thuật: là các biện pháp đề cập đến sản phẩm có đặc trưng liên
quan đến vấn đề kỹ thuật như chất lượng, an toàn, kích cỡ, trong đó bao gồm
Chuyên đề tốt nghiệp
các điều khoản hành chính như thuật ngữ, ký hiệu, thử nghiệm, đóng gói, đóng
dấu và các yêu cầu dán nhãn.
• Các quy định kỹ thuật: các quy định đưa ra các yêu cầu kỹ thuật, trực tiếp hoặc
bằng việc đề cập đến hoặc kết hợp nội dung của việc định rõ kỹ thuật, tiêu
chuẩn hoặc mã số thực hiện để bảo vệ sức khỏe con người (quy định vệ sinh);
bảo vệ sức khỏe thực vật (quy định vệ sinh thực vật); bảo vệ môi trường hoang
dã; bảo đảm an toàn con người; bảo đảm an ninh quốc gia, ngăn ngừa các hoạt
động gian lận. Bao gồm như sau:
- Các yêu cầu đặc trưng của sản phẩm
- Yêu cầu về ghi ký mã hiệu: các biện pháp xác định thông tin quy định việc
đóng gói hang hóa phải được thực hiện cho việc vận chuyển; hải quan( nước
xuất xứ, cân nặng, ký mã hiệu…)
- Yêu cầu về nhãn mác: các biện pháp quy định loại hình kích cỡ của việc in
gói hàng hoặc và xác định thông tin nên được cung cấp cho khách hàng
- Yêu cầu đóng gói: Các biện pháp quy định về cách thức hàng hóa phù hợp
với nước nhập khẩu về việc điều khiển thiết bị hoặc các lý do khác và xác
định nguyên liệu đóng gói được sử sụng.
- Thử nghiệm, kiểm tra và yêu cầu kiểm dịch: Thử nghiệm bắt buộc các mẫu
sản phẩm bởi một phòng thí nghiệm được ủy quyền trong nước nhập khẩu,
kiểm tra hàng hóa bởi các cơ quan thẩm quyền về sức khỏe trước khi ra khỏi
hải quan hoặc các yêu cầu kiểm dịch đối với động thực vật sống.
• Kiểm tra trước khi xếp hàng lên tàu: Quản lý chất lượng, số lượng và giá cả
bắt buộc của hàng hóa trước khi di chuyển hàng từ nước xuất khẩu, có hiệu lực
bởi một cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ủy thác. Quản lý giá nhằm
Chuyên đề tốt nghiệp
mục đích tránh dưới mức và trên mức hóa đơn do đó thuế hải quan không bị
trốn tránh hoặc chuyển đổi ngoại tệ không bị thất thoát
1.2.3. Những biện pháp phù hợp với quy định của WTO nhưng mang tính bảo
hộ
Đây là các biện pháp có tính bảo hộ sản xuất trong nước nhưng được các tổ
chức thương mại quốc tế thừa nhận. Các biện pháp thuộc nhóm này được gọi là các
biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời. Bao gồm:
• Các biện pháp chống bán phá giá: Các biện pháp chống bán phá giá là quy định
về mức thuế nhập khẩu đặc biệt khi giá hàng hóa của nước xuất khẩu bán phá
giá vào nước nhập khẩu.
- Điều tra chống bán phá giá
- Thuế chống bán phá giá
- Cam kết giá cả
• Các biện pháp chống trợ cấp: đánh thuế nhập khẩu đặc biệt để chống trợ cấp
của chính phủ nước ngoài đối với mặt hàng này. Bao gồm:
- Điều tra chống trợ cấp
- Thuế chống trợ cấp
- Cam kết giá cả
1.2.4. Các biện pháp chưa có quy định cụ thể của các tổ chức thương mại quốc
tế.
Các biện pháp thuộc nhóm này là những biện pháp rất khó xác định có phù hợp
hay không phù hợp với các quy định của tổ chức thương mại quốc tế. Mặt khác
Chuyên đề tốt nghiệp
chúng có thể đã được quy định song còn khá chung chung. Có thể chia thành hai
nhóm nhỏ như sau:
• Các biện pháp nhằm mục tiêu bảo hộ rõ ràng có tác dụng nhất định trong từng
hoàn cảnh cụ thể. Đây là các biện pháp tài chính chưa bị ràng buộc bởi bất cứ
tổ chức nào
- Tiền gửi nhập khẩu trước: Nghĩa vụ gửi trước phần trăm giá trị của các giao
dịch nhập khẩu trong một thời gian cho phép trước khi nhập khẩu, các
khoản tiền gửi này không được tính lãi suất
- Trả trước thuế hải quan: Thanh toán trước toàn bộ hoặc một phần không
cho phép sinh lãi suất
• Các biện pháp dẫn đến hạn chế nhập khẩu nhưng chưa phát sinh một cách ngẫu
nhiên chứ không do các nhà hoạch định chính sách chủ động vạch ra. Các biện
pháp này có tác động xấu đến thương mại nhưng chưa bị các tổ chức thương
mại yêu cầu loại bỏ
- Các thủ tục đặc biệt: Các thủ tục không rõ ràng liên quan đến việc quản lý
hành chính của bất cứ biện pháp nào được nhập khẩu áp dụng như nghĩa vụ
nộp thông tin sản phẩm chi tiết hơn yêu cầu thông thường trên cơ sở yêu
cầu khai hải quan, yêu cầu sử dụng các địa điểm nhập cảnh cụ thể…
- Năng lực yếu kém của hải quan: Thể hiện qua khả năng về chuyên môn
trong quá trình kiểm tra hàng hóa, làm thủ tục thông quan.
- Các vấn đề liên quan đến tham nhũng: Là một trong những yếu tố phát sinh
ngoài tầm kiểm soát của các nhà hoạch định chính sách, ảnh hưởng rất lớn
đến họat động thương mại cần phải loại bỏ.
Ngoài ra các văn bản liên quan đến thương mại không được công bố kịp thời,
công khai cũng được coi lai một biện pháp, hàng rào phi thuế quan.
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.Thực tiễn áp dụng hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ
1..3.1.Các biện pháp hạn chế định lượng
Các biện pháp hạn chế về số lượng vì mục đích thương mại chỉ áp dụng ở một
số ngành hàng, đáng chú ý nhất là ngành dệt may. Tuy nhiên nhìn chung hầu hết các
hạn chế về số lượng và các biện pháp quản lý thương mại của Hoa Kỳ đều được đặt
ra nhằm mục đích đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng,
giữ gìn đạo đức xã hội hoặc vì mục đích bảo vệ môi trường. Một số mặt hàng cũng bị
cấm vì mục đích chính trị.
Các biện pháp quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ được thực hiện thông qua một hệ
thống giấy phép. Phải tuân theo các quá trình được quy đã được quy định để có thể
được nhập khẩu các sản phẩm sau: thực vật, động vật, và các sản phẩm của chúng,
hơi đốt, tự nhiên, cá và sinh vật hoang dại, các lọai thuốc mê, chất gây nghiện… nhập
khẩu khí đốt tự nhiên hay khí đốt hóa lỏng chỉ được phép nếu việc nhập khẩu đó gắn
liền với lợi ích dân chúng, ngoại trừ việc nhập khẩu từ các nước mà Hoa Kỳ ký hiệp
định thương mại tự do.
Việc kinh doanh các sản phẩm dệt may tiếp tục bị tác động bởi hạn ngạch nhập
khẩu áp dụng đối với một số sản phẩm dệt may nhất định nhập khẩu từ hơn 40 nước.
Năm 1995, theo kết quả vòng đàm phán Uruguay, hạn chế vế số lượng đối với nông
sản vốn được quy định bởi hiệp định WTO về nông nghiệp đã được chuyển thành
hạn ngạch thuế quan. Đối với một số sản phẩm nhạy cảm như đường và các sản
phẩm tư sữa thì thuế đối với hàng nhập khẩu vượt quá hạn ngạch trên thực tế đóng
vai trò như một hình thức hạn chế nhập khẩu về số lượng. Ngoài ra, nhập khẩu gỗ xẻ
từ Canada, nước xuất khẩu chính mặt hàng này vào Hoa Kỳ, đã bị hạn chế bởi một hệ
thống tương tự như hạn ngạch thuế quan. Hoa Kỳ cũng đã đàm phán với Nga về
những hạn chế nhập khẩu uranium, anomi-nitrat, và một số sản phẩm thép…
Chuyên đề tốt nghiệp
Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ do Cục Hải quan của nước này
quản lý. Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm hai loại chính:
1..3.1.1.Hạn ngạch thuế quan
Quy định số lượng của mặt hàng đó được nhập khẩu vào với mức thuế giảm
trong một thời gian nhất định. Không có hạn chế về số lượng nhập vào đối với mặt
hàng này, nhưng số lượng nhiều trên mức quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế
nhập khẩu cao hơn nhiều thậm chí nhiều lần so với mức thuế trong hạn ngạch
1..3.1.2.Hạn ngạch tuyệt đối
Là hạn ngạch giới hạn về số lượng. Tức là số lượng vượt quá hạn ngạch cho
phép sẽ không được nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong thời hạn của hạn ngạch. Một số
quota áp dụng chung nhưng cũng có một số áp dụng riêng đối với một số nước. Hàng
nhập khẩu vượt quá quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong suốt thời hạn quota, cho
đến khi bắt đầu thời hạn quota mới.
Thủ tục hải quan thông thường áp dụng cho các hàng hóa khác cũng được áp
dụng cho hàng hóa nhập khẩu theo hạn ngạch. Mức thuế quan hạn ngạch thường
được tính trên số lượng hàng hóa được nhập từ đầu kỳ áp dụng hạn ngạch cho đến
khi người ta thấy là lượng hàng nhập đã chiếm gần hết hạn ngạch. Sau đó, Giám đốc
Hải quan quận sẽ được chỉ thị phải có yêu cầu đặt cọc số tiền thuế tạm tính với mức
thuế giành cho lượng hàng vượt quá hạn ngạch và phải báo cáo thời gian nhập khẩu
chính thức của mỗi lần nhập hàng. Sau đó sẽ có thông báo cuối cùng về ngày giờ mà
hạn ngạch nhập khẩu đã dùng hết.
Một số hạn ngạch tuyệt đối thường hết ngay sau khi bắt đầu thời hạn áp dụng
hạn ngạch. Do đó, mỗi hạn ngạch thường được tuyên bố chính thức vào 12h trưa,
hoặc các khoảng thời gian tương ứng ở các múi giờ khác nhau vào một ngày ấn định.
Khi tổng số lượng hàng nhập vào lúc bắt đầu tính hạn ngạch mà vượt quá hạn ngạch
thì hàng hóa sẽ được giải phóng theo cách tính thuế trên cơ sơ theo tỉ lệ giữa tổng số
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng được nhập theo hạn ngạch và số lượng thực sự nhập khẩu. Điều này đảm bảo
việc phân bổ hạn ngạch công bằng.
Hàng hóa không được coi là nhập khẩu với mục đích xin ưu tiên theo hạn
ngạch cho đến tận khi hồ sơ tóm tắt việc nhập khẩu hàng hoặc đơn xin rút lui hàng ra
khỏi kho ngoại quan để tiêu thụ được trình bày theo đúng thủ tục và hang hóa đã nằm
trong phạm vi cảng khẩu.
1.3.2.Các qui định về tiêu chuẩn kĩ thuật và vệ sinh dịch tễ
1.3.2.1.Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
Như ở hầu hết các nước, các quy định về kỹ thuật ở Hoa Kỳ được áp dụng vì
các mục đích an toàn hoặc sức khỏe đối với những sản phẩm nhập khẩu với số lượng
số lượng lớn. Những sản phẩm này bao gồm: thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, mỹ
phẩm, thuốc… Nói chung các hàng hóa được bán ở thị trường Hoa Kì dù là sản phẩm
nội địa hay nhập khẩu đều phải đáp ứng được những đòi hỏi của Nhà nước về nhãn
hiệu, độ an toàn và đảm bảo sức khỏe. Nhà sản xuất nhất thiết phải chịu trách nhiệm
đối với việc đáp ứng được các yêu cầu khi đưa sản phẩm ra thị trường. Các cơ quan
chức năng sẽ tiến hành những biện pháp cưỡng bức nếu những qui định trên bị vi
phạm.
Hệ thống các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật có thể do ủy ban cố vấn khu vực tư
nhân cấp liên bang, tiểu bang hay quận huyện đưa ra. Các tiêu chuẩn về sản phẩm có
thể trở thành các tiêu chuẩn kỹ thuật khi các cơ quan đề ra quy định lựa chọn áp dụng
chúnh một cách bắt buộc. Một số tiêu chuẩn có thể do các công ty bảo hiểm đưa ra,
hàng hóa muốn được các công ty này bảo hiểm thì phải thỏa mãn được các yêu cầu
đó.
Cục Hải Quan Hoa Kỳ chịu trách nhiệm thi hành các quy định kỹ thuật tại cửa
khẩu, phối hợp với các cơ quan chịu trách nhiệm đối với các sản phẩm quy định, các
Chuyên đề tốt nghiệp
mặt hàng nhập khẩu có thể bị từ chối không được nhập khẩu nếu chúng không đáp
ứng được một tiêu chuẩn quy định nào đó.
Viện tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia (NIST), một cơ quan đại diện của cơ quan
quản lý công nghệ của Bộ Thương mại phối hợp với ngành để hình thành và đưa áp
dụng công nghệ, các phương pháp đo lường và các tiêu chuẩn. Viện tiêu chuẩn quốc
gia Hoa Kỳ (ANSI) là một liên đoàn phi lợi nhuận của khoảng 1000 các tổ chức tiêu
chuẩn tư nhân. ANSI nhân danh các tổ chức thành viên của mình tán thành các quy
tắc về tập quán hàng hóa của WTO và là cơ quan thành viên Hoa Kỳ tring ủy ban Kỹ
thuật điện quốc tế (IEC) và tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO). Vào tháng 9
năm 2000, một chiến lược mới đã được đưa ra để hoàn thiện các tiêu chuẩn quốc tế,
định hướng cho sự hình thành tiêu chuẩn ở Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ đang tiếp tục tham gia tích cực vào Ủy ban Hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại của WTO. Các báo cáo của Hoa Kỳ với Ủy ban này bao gồm một dự án
về sự minh bạch trong các tiêu chuẩn quốc tế và một tiểu ban về các thực phẩm và
sản phẩm nông nghiệp biến đổi gen. Hoa Kỳ cũng đã lấy ý kiến của các thành viên
Ủy ban về 45 quy định kỹ thuật trong năm 1999 và 32 quy định vào năm 2000. Trong
số những quy định này có quy định mới về điều hòa nhiệt độ, bình đun nước và các
máy móc khác, hầu hết đều do Bộ năng lượng đưa ra vì mục đích hiệu quả tiết kiệm.
Những tiêu chuẩn do Cơ quan Bảo vệ môi trường đề xuất ra chủ yếu tập trung vào
việc sử dụng chất phụ gia xăng MTBE. Bộ nông nghiệp đã đưa ra một số tiêu chuẩn
về sản phẩm hữu cơ cũng như các quy định về dán nhãn đối với thịt nhập khẩu.
Những quy định về nhãn mác đối với thịt nhập khẩu dẫn đến các câu hỏi chất vấn của
các nước thành viên về các bước của Hoa Kỳ để đảm bảo những quy định về nhãn
mác như vậy không phải là sự bóp méo thương mại.
Theo mục 8e trong luật hiệp định bán sản phẩm năm 1937 quy định các sản
phẩm nhập khẩu cũng phải đáp ứng đúng các quy định về kích cỡ, chất lượng, độ
chín…áp dụng cho các sản phẩm sản xuất trong nước. Hoa Kỳ vần đang bị các nước
chỉ trích về vấn đề này nhưng họ cho rằng các quy định này phù hợp với tiêu chuẩn
Chuyên đề tốt nghiệp
cua WTO; không giới hạn khối lượng hàng nhập và chỉ có hiệu lực ở một số giai
đoạn nhất định khi các sản phẩm nông nghiệp đó đang được sản xuất trong nước.
Như đã nói ở trên, các quy định về kỹ thuật ( bao gồm các quy định về nhãn
mác) có thể được ban hành bởi cấp tiểu bang. Chẳng hạn như, ở bang Idaho, các thực
phẩm sử dụng trứng nhập khẩu phải in lên bao bì dòng chữ “ Trứng ngoại được sử
dụng trong sản phẩm này”. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật thậm chí cũng phổ
biến ở một số ngành dịch vụ kể cả ngành kế toán, bảo hiểm.
Việc đánh giá sự phù hợp của hàng hóa hay các dịch vụ với các quy định về
tiêu chuẩn và kỹ thuật có thể do chính quyền liên bang hay chính quyền địa phương,
hoặc một số cơ quan kiểm tra độc lập hoặc do người cung cấp (người sản xuất hay
người nhập khẩu) thực hiện. Hệ thống đánh giá sự phù hợp với các tiêu chuẩn của
Hoa Kỳ đặc biệt ở chỗ chủ yếu phụ thuộc vào sự tự khai báo của người cung cấp và
nói rộng ra là được thực hiện thông qua Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm
Product-Liability Laws. Đối với đánh giá kỹ thuật thì mỗi cơ quan có các cách tiếp
cận khác nhau. Năm 1999, Hoa Kỳ đệ trình lên Ủy ban TBT của WTO một quy tắc
về tập quán hàng hóa đối với các thủ tục đánh giá sự phù hợp, coi những thủ tục này
là một trong những thách thức nhất để ngăn ngừa và xóa bỏ các hàng rào kỹ thuật. Đề
xuất này một phần xuất phát từ việc các cơ quan chức năng của nước nhập khẩu
không chấp nhận kết quả kiểm tra do các cơ quan thẩm đinh nước ngoài tiến hành
điều tra. Hoa Kỳ tán thành việc căn cứ vào sự khai báo của người cung cấp về sự phù
hợp và coi đó là đối xử quốc gia có thể đạt được thông qua những sự giàn xếp mang
tính hợp tác giữa các cơ quan thẩm định quốc gia thay vì tập trung vào các hiệp định
công nhận lẫn nhau.
1.3.2.2. Các quy định về vệ sinh dịch tễ
Hoa Kỳ đã gửi lên WTO nhiều thong báo nhất, với hơn 500 thông báo và phụ
lục tính đến ngày 4/5/2001, phản ánh một quá trình thông báo có hệ thống lên WTO
tất cả những thay đổi đặt ra đối với các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ trong nước. Số
Chuyên đề tốt nghiệp
lượng các bản báo cáo thường niên đã tăng khá nhiều trong những năm gần đây, từ
80 vào năm 1999 lên tới hơn 200 vào năm 2000. Những tiêu chuẩn mới được đưa ra
chủ yếu nhằm vào mức dung sai đối với dư lượng hóa chất trong thực phẩm do Cơ
quan bảo vệ môi trường đưa ra. Thêm vào đó, rất nhiều hạn chế nhập khẩu đang được
đưa ra để đối phó với những mối nguy hiểm do bệnh tật của động vật mang lại, đáng
lưu ý nhất là bệnh bò điên và bệnh lở mồm long móng cũng như dịch tả lợn và bệnh
lao.
Ở Hoa Kỳ có bốn cơ quan khác nhau phụ trách các vấn đề liên quan đến vệ sinh
dịch tễ là: Cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc (FDA); Cục kiểm định an toàn thực
phẩm (FSIS) của Bộ Nông nghiệp; Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA); Cục kiểm
định y tế động thực vật (APHIS) thuộc Bộ Nông nghiệp. FDA chịu trách nhiệm chính
về an toàn thực phẩm ngoại trừ thịt, gia cầm và một số sản phẩm trứng do APHIS qui
định. Nhiệm vụ của EPA là bảo vệ sức khỏe của con người và bảo vệ môi trường
bằng việc giảm đáng kể những tác động có hại tới môi trường. Nói đến các biện pháp
để bảo vệ sức khỏe của cây và con, APHIS có trách nhiệm đưa ra những qui định
nhằm bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng cũng như các nguồn động thực vật khỏi
những bệnh từ nước ngoài.
a.Thịt và thịt gia cầm
Cục kiểm dịch an toàn thực phẩm (FSIS) liệt kê danh sách những nước đủ điều
kiện xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt vào Hoa Kỳ. FSIS đã xây dựng và đưa ra
một quy trình để đánh giá liệu hệ thống các quy định về thịt và các sản phẩm từ thịt
và các phương pháp vệ sinh dịch tễ có tương đương với hệ thống và các biện pháp
của Hoa Kỳ không. Theo cơ quan này thì hiện có 33 nước được Hoa Kỳ công nhận là
có hệ thống kiểm định thịt và thịt gia cầm ngang bằng với hệ thống của Hoa Kỳ.
Trong suốt giai đoạn từ tháng 9/1999, Hoa Kỳ thi hành các biện pháp cấm nhập
khẩu các sản phẩm này từ các nước mà động vật có nguy cơ bị bệnh lở mồm long
móng như Argentina, Nhật, Bắc Phi và Uruguay. Ngoài ra, một lệnh cấm tạm thời đối
Chuyên đề tốt nghiệp
với thịt nhập khẩu châu âu EU cũng được ban hành vào tháng 3/2001, sau đó được
dỡ bỏ tháng 5/2001. Các sản phẩm bị cấm từ các nước chịu ảnh hưởng của bệnh lở
mồm long móng bao gồm động vật nhai lại và lợn còn sống cũng như thịt và các sản
phẩm có nguồn gốc từ các loài này. Thêm vào đó, kể từ tháng 3 năm 2001, mọi
phương tiện nông nghiệp đã sử dụng từ các nước bị ảnh hưởng của bệnh lở mồm
long móng đều bị từ chối đưa vào Hoa Kỳ. Thịt và các sản phẩm từ thịt đóng hộp có
thể được phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ theo một số điều kiện nhất định.
Vào tháng 12 năm 2000, tất cả các sản phẩm đạm động vật đã tinh chế nhập
khẩu từ hầu hết các nước ở châu Âu đều bị cấm, không tính tới đó là loài nào. Lệnh
cấm được đưa ra sau khi đã có các lệnh cấm nhập khẩu động vật nhai lại và các sản
phẩm có nguồn gốc từ động vật nhai lại cũng như các lệnh cấm đối với thức ăn gia
súc có chứa các sản phẩm có nguồn gốc động vật nhai lại từ hầu hết các nước bị ảnh
hưởng của bệnh bò điên. Tháng 2/2001, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã thông
báo là sẽ tạm ngừng nhập khẩu thịt bò và các sản phẩm từ thịt bò từ Brazil vì mối
quan ngại về bệnh bò điên, sau đó một lệnh tương tự đã được áp dụng với Canada,
các lệnh này đã được dỡ bỏ một vài tháng sau đó.
b.Thực phẩm có nguồn gốc từ công nghệ sinh học
Rất nhiều cơ quan của liên bang điều chỉnh việc áp dụng công nghệ sinh học
trong nông nghiệp. Cục kiểm định y tế động thực vật (APHIS) điều chỉnh lĩnh vực
thử nghiệm các loài thực vật biến đổi gen và một số vi sinh vật. APHIS cũng thong
qua và cấp giấy phép cho những vật chất sinh học thú y mà có thể là sản phẩm của
công nghệ sinh học bao gồm cả vacxin động vật. Ngoài ra, Cơ quan quản lý thuốc và
thực phẩm gần đây cũng đã đề nghị thành lập một tiểu ban về các dữ liệu và thông tin
về thực phẩm biến đổi gen có nguồn gốc từ động vật. Cơ quan bảo vệ môi trường
(EPA) điều chỉnh hầu hết các vi sinh vật biến đổi gen theo Đạo luật quản lý các chất
độc.
Chuyên đề tốt nghiệp
Việc trồng thử nghiệm thực vật có nguồn gốc biến đổi gen phải được sự chấp
thuận trước của Cục giám định y tế động thực vật (APHIS). Nhìn chung, trước khi
một loại cây biến đổi gen được trồng trên quy mô lớn hơn và bán ra thị trường, người
tạo ra nó phải thỉnh cầu APHIS cấp phép. Kể từ năm 1997 tới nay APHIS đã cấp
phép cho hơn 5000 đơn thỉnh cầu. Khoảng 40 loại nông sản mới đã được hoàn thành
mọi qui định của liên bang từ tất cả các cơ quan có liên quan và có thể được đem bán
trên thị trường. Chúng rất đa dạng từ các loại cà chua sống lâu hơn cho tới ngô có
khả năng chống chịu sâu bệnh. Các diện tích trồng giống đậu tương, bông và ngô có
sử dụng công nghệ sinh học đang tăng lên một cách mạnh mẽ kể từ khi những giống
cây đó được đưa ra thị trường kể từ giữa thập niên 90. Chúng chiếm tới 20-44% diện
tích trồng trọt năm 1998.
1.3.2.3 Các quy định về môi trường liên quan đến thương mại
Luật pháp Hoa Kỳ cho phép thi hành các quy định về môi trường có liên quan
tới nhập khẩu theo các quy chế khác nhau. Đăc biệt, các điều khoản môi trường trong
nước quản lý việc sử dụng các tài nguyên biển trong rất nhiều trường hợp đã được thi
hành thông qua các biện pháp thương mại. Vào năm 1991, theo đạo luật bảo vệ động
vật biển có vú (MMPA), một lệnh cấm được áp dụng với việc nhập khẩu cá ngừ từ
những nước không thể bảo vệ cá heo khi đánh bắt cá ở vùng biển nhiệt đới đông Thái
Bình Dương. Lệnh cấm nhập khẩu này đã được rỡ bỏ đối với các nước tham gia
chương trình Bảo tồn cá heo quốc gia (IDCP) do Hoa Kỳ khởi xướng. Theo luật
MMPA đã được sửa đổi năm 1997 để thực hiện hiệp định quốc tể trong khuôn khổ
IDCP, một nước có thể xuất khẩu cá ngừ vây vàng vào Hoa Kỳ nếu nước đó cung
cấp được những bằng chứng chứng minh nước đó tham gia vào IDCP và có thực hiện
một số biện pháp bảo tồn khác. Kể từ năm 1999, 2 nước đã được chứng nhận áp dụng
đầy đủ các quy đinh trên. Để nhập khẩu cá ngừ từ biển nhiệt đới đông TBD, nhà
nhập khẩu phải xuất trình các bằng chứng do nhà xuất khẩu cung cấp chứng tỏ rằng
nhà xuất khẩu đã không vi phạm giới hạn về tỷ lệ được phép gây tử vong cho cá heo.
Nước xuất khẩu cũng phải là hoặc đang tiến hành các bước để trở thành thành viên
Chuyên đề tốt nghiệp
của ủy ban cá ngừ nhiệt đới Bắc Nam Hoa Kỳ. Lệnh cấm nhập khẩu hiện tại đang áp
dụng với các nước Belize, Columbia, Honduras, Panama,… mặc dù một số trong các
nước này đang trong quá trình hoàn tất các yêu cầu để có thể dỡ bỏ lệnh cấm.
Phần 609 của Bộ luật “Public Law” mục 101-162 đề cập đến việc bảo vệ rùa
biển trong hoạt động đánh bắt tôm bằng lưới, có hiệu lực năm 1998, quy định rằng
việc đánh bắt tôm với công nghệ mà có thể có những tác động tiêu cực tới rùa biển
thì sẽ không được nhập khẩu vào Hoa Kỳ trừ khi nước đánh bắt tôm đó chứng nhận
được là có một hệ thống các quy định hoặc một hệ thống tương đương với những quy
định của Hoa Kỳ hoặc môi trường đánh bắt riêng biệt đó của nước xuất khẩu không
đe dọa làm hại đến cuộc sông rùa biển. Mọi chuyến hàng chở tôm hoặc các sản phẩm
tôm vào Hoa Kỳ đều phải kèm theo một giấy chứng nhận là tôm đã được đánh bắt ở
các điều kiện mà không gây ra tác động tiêu cực tới rùa biển.
Tất cả các nước đánh bắt tôm đều chịu lệnh cấm nhập khẩu tôm trên, tuy nhiên
Hoa Kỳ đã cấp chứng nhận cho 16 nước là có chương trình bảo vệ rùa biển tương
đương Hoa Kỳ và 25 nước có môi trường đánh bắt không đe dọa đến loài rùa biển.
Vào năm 1996, Malaysia, Ân Độ, Pakistan và Thái Lan đã cùng trình một bản
kiến nghị chung lên WTO phản đối việc cấm nhập khẩu theo phần 609 của luật nói
trên. Theo Malaysia thì biện pháp đó không được công nhận theo điều 20 của GATT/
1994. Tháng 11/2000, Malaysia lại kiện Hoa Kỳ về việc sử dụng biện pháp này. Lần
này, một ban bồi thẩm đã được tái triệu tập và đã xét xử thiên vị cho Hoa Kỳ.
1.3.3.Quy định về xuất xứ và ký mã hiệu hàng hóa
Khi nhập hàng hóa vào nước Hoa Kỳ, cần lưu ý những quy định sau đây của
hải quan Hoa Kỳ:
Mác, mã phải ghi rõ nước xuất xứ: Luật pháp của Hoa Kỳ quy định rõ mọi
hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải ghi rõ ràng, không tẩy xóa được, ở
Chuyên đề tốt nghiệp
chỗ dễ nhìn thấy trên bao bì xuất khẩu, tên nước xuất xứ hàng hóa đó phải ghi bằng
tiếng Anh.
Hàng tới người tiêu dùng cuối cùng, thì trên các bao bì, vật dùng chứa đựng
bao bì tiêu dùng của hàng hóa đó cũng phải ghi rõ xuất xứ của hàng hóa bên trong.
Hàng nhập vào Hoa Kỳ không tuân theo các quy định trên sẽ bị phạt theo mức
phần trăm giá trị lô hàng.
Hàng nhập không đáp ứng các yêu cầu về ghi mác sẽ bị giữ lại ở khu vực hải
quan Hoa Kỳ cho tới khi người nhập khẩu thu xếp tái xuất trở lại, phá hủy đi hoặc tới
khi hàng được xem là bỏ để Chính phủ định đoạt toàn bộ hoặc từng phần.
Phần 304 (h) Luật Thuế của Hoa Kỳ quy định ai cố tình vi phạm, cố tình che
dấu sẽ bị phạt tiền 5000USD, hoặc bỏ tù dưới một năm.
Trường hợp có sự phối hợp với nước ngoài để thay đổi tẩy xóa mác mã về xuất
xứ hàng hóa thì cũng bị phạt. Hoa Kỳ áp dụng nguyên tắc “biến đổi cơ bản” như là
nguyên tắc cơ sở trong việc xác định xuất xứ của sản phẩm. Nguyên tắc này được
giải nghĩa khác nhau trong các hiệp định và các chương trình thương mại của Hoa
Kỳ.
Bảng 1.1: Quy tắc xuất xứ khi sản phẩm cuối cùng chứa các thành phần có
nguồn gốc từ nhiều hơn một nước
Phạm vi Nguyên tắc xác
định xuất xứ
Các nguyên tắc
xuất xứ gộp
Các điều kiện
khác
Nguyên tắc chính
của luật pháp Hoa
Kỳ áp dụng với
Biến đổi cơ bản Biến đổi cơ bản
được xác định
trong các trường