Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.9 KB, 57 trang )

Lời nói đầu
Tất cả các doanh nghiệp, dù kinh doanh trong bất cứ một lĩnh vực
nàocũng đều có một điểm chung, đó là khả năng gặp phải rủi ro. Không
một doanh nghiệp nào có thể luờng trước được các vẫn đề ngoài dự kiến
hay đoán trước được các sự cố. Việc duy nhất các doanh nghiệp có thể
làm là hạn chế các rủi ro cá thể xảy ra.
Đối với ngân hàng, là một loại doanh nghiệp kinh doanh một thứ
hàng hoá đặc biệt, tiền tệ, khả năng gặp phải các loại rủi ro lại càng cao.
Do vậy, vấn đề hạn chế rủi ro của ngân hàng thương mại lại càng được
quan tâm. Và trong đó, tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuân
nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động ngân hàng, đồng thời, đây
cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Trước tình hình đó, với những gì đã được học trên trường, cùng với
kiến thức có được trong đợt thực tập vừa qua tai ngân hàng TMCP Sài
Gòn – chi nhánh Hà Nội, em quyết định chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín
dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh Hà Nội” để nghiên
cứu để qua đó nhận thức được tầm quan trọng trong quản trị rủi ro tín
dụng tại các NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Sài Gòn nói riêng.
Em xinh chân thành cảm ơn GS.TS Nguyễn Văn Nam đã hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Kết cấu bài chuyên đề bao gồm ba phần chính:
Chương I: Tín dụng và rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
– Chi nhánh Hà Nội
Chương III: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP
Sài Gòn và một số kiến nghị
1
Chương 1:
Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1 Tín dụng
1.1.1 Khái niệm chung về tín dụng


Tín dụng (credit) là một danh từ dùng để chỉ một số hành vi kinh tế
rất phức tạp, trong đó có: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo
lãnh, ký thác, và phát hành giấy bạc.
Trong mỗi hoạt động tín dụng vừa nêu, ta đều thấy hai bên cam kết
với nhau: một bên sẽ trao ngay một số lượng hàng hoá hay tiền bạc, còn
bên kia sẽ hoàn lại những đối khoản của số tiền hay hàng hoá đó trong
một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định.
Nhà kinh tế người Pháp, ông Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng
là: “một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây ta
thấy đã có sự xen lẫn yếu tố thời gian, và cũng vì sự xen lẫn đó nên mới
có thể có bất trắc, rủi ro xảy đến, và cần phải có sự tín nhiệm của hai bên
đối với nhau. Và vì phải dựa trên sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau nên
mới có danh từ tín dụng.
Ban đầu, hành vi cho vay mới chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ,
nhưng ngày nay, khi nhắc đến tín dụng, người ta nghĩ ngay đến ngân
hàng. Vì qua thời gian, ngân hàng đã phát triển và trở thành tổ chức
chuyên nghiệp trong việc sử dụng uy tín của mình để huy động tiền nhàn
rỗi trong dân chúng để cho vay. Và nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng
bao gồm: Cho vay, bảo lãnh, chiết khấu và cho thuê.
Có thể nói: Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức
năng trung gian tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
2
trong nền kinh tế. Và trong đó, hoạt động tài trợ là hoạt động truyền
thống và mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Các hành vi tín
dụng ngân hàng có cùng một lôgic kinh tế chung, đó là: hứng chịu rủi ro
cho một ngừơi mà ngân hàng đã tin tưởng cho vay, nhưng nó giao dịch
không chỉ dựa trên niềm tin mà còn là một giao dịch có tình pháp lý dựa
trên các hợp đồng kinh tế, các loại giấy tờ bảo lãnh…

Trên thực tế, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân
hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt
động mang lại rủi ro cao nhất. Hình thức tín dụng truyền thống của ngân
hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp
khách hàng mua hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu, sau đó mở rộng thành
nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng
các chứng khoán, bằng giấy tờ có giá, bằng giấy tờ lưu kho hoặc không
cần thế chấp. Các NHTM hiện nay không ngừng đa dạng các hình thức
tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng.
Như vậy, tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả
vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định giữa ngân hàng và các chủ thể
còn lại của nền kinh tế.
1.1.2 Phân loại
Có rất nhiều cách để phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu
của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số
cách phân loại:
Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành tín dụng ngắn, trung
và dài hạn.
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, vì
thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng
3
được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn dưới 1 năm, để
tài trợ cho tài sản lưu động.
Tín dụng trung hạn là những khoản vay thông thường từ 1 đến 5
năm, tài trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị…
Tín dụng dài hạn là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ cho
tài sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.

Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (nagỳ, tháng, năm)
và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam
kết cấp cho khách hàng một khoản tin sdụng. Thời hạn tín dụng có thể
được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra và đồng
vốn và lãi cuối cùng phải được thu về.
Nhìn chung, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn ở ngân hàng thường cao
hơn tín dụng trung và dài hạn. Đó là do các ngân hàng chủ yếu tài trợ
cho nhu cầu vốn lưu động của khách hàng. Hơn nữa, tín dụng trung và
dài hạn thường có rủi ro cao hơn và nguồn đắt hơn. Việc phân loại theo
thời gian để ngân hàng quản lý nhằm đảm bảo an toàn và sinh lợi.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh,
cho thuê, chiết khấu.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Trong phần
lớn các ngân hàng, cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín
dụng.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như cam kết. Mặc dù không xuất tiền ra, song ngân hàng
đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh có nhiều
loại như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng, bảo
4
lãnh thực hiện hợp đồng…
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian thoả thuận,
khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Cho thuê có hai hình
thức là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập
của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.

Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất
(từ quá trình kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Theo tài sản đảm bảo, tín dụng được chia thành tín dụng có và
không có tài sản đảm bảo.
Tín dụng có tài sản đảm bảo là việc ngân hàng cho khách hàng vay
vốn dựa trên cam kết người nhận tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả
nợ trong một số trường hợp.
Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách
hàng có uy tín, thường làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay
của các tổ chức lớn hay theo chỉ định của Chính phủ.
Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay sản xuất – lưu thồng hàng hoá: Là loại cho vay nhằm cung
cấp cho các doanh nghiệp,hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ và cá nhân để trực
tiếp tiến hành sản xuất hàng hoá và kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: Là hình thức cho vay hộ gia đình, cá nhân để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm, sửa chữa nhà và các tư liệu tiêu
dùng.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn được phân loại theo ngành kinh tế
5
(công, nông nghiệp…), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản
cố định), theo tính chất rủi ro của khoản tín dụng (tín dụng lành mạnh,
tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn có khả năng thu hồi, nợ quá hạn khó
đòi…).
Việc phân loại tín dụng cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh
lợi, gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo
đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.2.3 Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính, kinh

doanh một loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ. Vì thế, dù phát triển theo bất
kỳ hướng nào, ngân hàng cũng luôn phải đảm bảo tính an toàn và khả
năng sinh lợi. Và hoạt động tín dụng cũng phải dựa trên những nguyên
tắc nhất định để đảm bảo không gây ra rủi ro và đồng thời vẫn mang lại
lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá
trong các quy định của Nhà Nước, cũng như chính các NHTM.
Thứ nhất: Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn (gốc) lẫn lãi
cho ngân hàng trong thời gian xác định
Các tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền
gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Và ngân hàng
luôn phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi như đã
cam kết. Do vậy, ngân hàng cũng luôn yêu cầu các khách hàng nhận tín
dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Vì đây là điều kiện để ngân hàng
có thể tồn tại và phát triển.
Thứ 2: Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng đúng mục đích
được thoả thuận với ngân hàng, và phù hợp với quy định của pháp luật,
cũng như ngân hàng cấp trên.
Thông thường, hoạt động của ngân hàng đươc quy định trong luật
nhưng mỗi ngân hàng lại có quy định riêng. Mục đích sử dụng vốn được
6
ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho những
hoạt động trái pháp luật và phạm vi của ngân hàng. Nếu khách hàng sử
dụng vốn sai mục đích, khách hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước ngân hàng và luật pháp.
Thứ 3: ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án) có hiệu
quả.
Bởi vì chỉ khi hoạt động sử dụng vốn vay ngân hàng mang lại lợi
nhuận thì khách hàng mới có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân
hàng. Trong trường hợp thấy phương án hoặc dự án đó có thể có rủi ro
cao, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có các hình thức đảm bảo tiền

vay.
1.2.4 Vai trò của tín dụng trong hoạt động ngân hàng
Nói đến vai trò của tín dụng tức nói đến sự tác động của nó đối với
nên kinh tế. Tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế, thể hiện ở một số mặt chủ yếu:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của phần lớn các ngân hàng thương
mại, thường chiếm tỷ trọng từ 60 – 70% lợi nhuận của ngân hàng. Do đó,
ngân hàng luôn tìm cách duy trì, mở rộng tín dụng thông qua việc đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ. Mặt khác, hoạt động tín dụng còn có tác
động đến những hoạt động kinh doanh khác hay uy tín nên ngân hàng
cũng phải quan tâm đến chất lượng tín dụng để tránh những ảnh hưởng
xấu. Như vậy, ngay đối với bản thân ngân hàng, tín dụng đã chiếm một
vai trò quan trọng, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Tuy nhiên, đối với nền kinh tế, tín dụng ngân hàng lại thể hiện một vai
trò rõ nét hơn.
Thứ nhất, với chức năng là một công cụ tài trợ, tín dụng góp phần
đáp ứng các nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng sản xuất – kinh doanh.
Ở bất kỳ doanh nghiệp hay cá nhân nào thì vấn đề thừa thiếu vốn
7
luôn luôn xảy ra. Thông qua tín dụng góp phần giúp doanh nghiệp có thể
tạo nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh để quy trình sản xuất
được diễn ra một cách liên tục.
Thứ 2, góp phần ổn định nền kinh tế và bình ổn giá cả
Với chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã
góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, nhất là
tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, qua đó làm giảm áp lực của lạm
phát, góp phần làm ổn đinh tiền tệ.
Mựat khác, do cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh… làm cho
sản xuất ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hoá dịch vụ ngày càng

nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, chính vì thế mà tín
dụng góp phần làm ổn định thị trường giá cả trong nước.
Thứ ba, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm
và ổn định trật tự xã hội.
Tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng
hoá dịch vụ ngày càng gia tăng, thoả mãn nhu cầu đời sống cho người
lao động. Bên cạnh đó, do vốn tín dụng đã tạo ra khả năng trong việc
khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên,
lao động, về đất, rừng… do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động
của xã hội tạo ra nhiều lực lượng sản xuất mới thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng và phát triển.
Khi một xã hội phát triển lành mạnh, đời sống người dân được ổn
định, ai cũng có cơm ăn áo mặc và có việc làm… đó là tiền đề quan
trọng trong việc ổn định trật tự xã hội.
Thứ tư, tín dụng góp phần phát triển các mối quan hệ quốc tế
Có thể nói tín dụng có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển
các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát
8
triển của tín dụng không những ở phạm vi của một nước mà còn mở rộng
phạm vi quốc tế, qua đó nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn
nhau trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, làm cho các nước có
điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
Khi mà tín dụng thực hiện được các vai trò trên thì lúc đó nền kinh
tế sẽ hoạt động tốt, đầu tư được mở rộng, kinh doanh ổn định và phát
triển, góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, từ
đó giải quyết công ăn việc làm và đời sống của người dân được nâng
cao.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng chiếm vai trò quan trọng đối với ngân
hàng cũng như đối với nền kinh tế. Để có thể phát huy được vai trò của
nó, ngân hàng càng ngày càng mở rộng nhiều loại hình tín dụng. Tuy

nhiên, để tránh các tác động xấu có thể xảy ra, ngân hàng cần xem xét,
đánh giá kỹ các rủi ro tiềm ẩn trước khi cấp tín dụng.
1.2 Rủi ro tín dụng và phân loại rủi ro tín dụng
Mọi hoạt động của từng cá nhân cũng như toàn xã hội đều hướng
tới một mục đích nào đó. Song có những trường hợp mục đích đó không
đạt được do trong quá trình hoạt động gặp phải rủi ro. Vậy rủi ro là gì?
Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như “rủi ro là những bất trắc gây ra mất
mát thiêt hại”; “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện
một biến cố không mong đợi”... Nhưng nói chung mọi ý kiến đều đi đến
khẳng định rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Rủi ro có thể
gặp bất cứ lúc nào ngoài ý muốn của con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống nhất là lĩnh vực kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế rủi ro được coi là những tổn thất mà các
doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh. Kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ – tín dụng ngân hàng cũng phải chấp nhận điều đó. Và thực tế đã
chứng minh rằng không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến
9
rủi ro lại lớn như kinh doanh tiền tệ.
Tóm lại: rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài mong muốn của con
người. Trong kinh doanh rủi ro tồn tại khá phổ biến và rất phức tạp bởi
vì thực tiễn đã chứng minh rằng bất kì hoạt động kinh doanh nào đem lại
lợi nhuận đều có rủi ro, và rủi ro càng cao thì lợn nhuận ký vọng đạt
được càng lớn.
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt - tiền tệ, và
tài sản của ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính, do vậy, hoạt
động trong lĩnh vực ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro gây nên những
tổn thất không mong muốn. Những rủi ro chính mà các NHTM thường
phải đối mặt là:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro hối đoái

Rủi ro lãi suất
Rủi ro thanh khoản
Các rủi ro khác…
Trên thực tế, mỗi loại rủi ro này xảy ra có thể đưa tới một loại rủi ro
khác, và các loại rủi ro có mối liên quan chặt chẽ với nhau trong hoạt
động kinh doanh NHTM.
1.2.1 Rủi ro tín dụng
Các NHTM luôn luôn tìm cực đại lợi nhuận thông qua việc tìm
kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các khoản cho vay và đầu tư,
đồng thời cũng tìm mọi cách để giảm thiểu rủi ro trong các khoản tín
dụng đã cấp. Đối với hầu hết các NHTM, dư nợ thường chiếm 50-60%
tổng tài sản và có thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm từ 60-70% tổng
thu nhập của ngân hàng.
Do vậy, rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với hoạt động của
NHTM. Mà rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà
10
còn bao gồm cả ở các hoạt động mang tính chất tín dụng khác: bảo lãnh,
chiết khấu giấy tờ có giá và cho thuê tài chính.
Vậy, rủi ro tín dụng là gì?
Có rất nhiều cách để định nghĩa rủi ro tín dụng, và trong phạm vi
luận văn này, có thể định nghĩa: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn
thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do người đi vay không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán. Điều này
có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc, lãi như cam kết
có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí không được trả.
Thông thường, khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng
cố gắng phân tích, thẩm định các thông tin của người vay sao cho độ an
toàn là cao nhất. Và khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân
hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những
khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro bởi không phải bao giờ các quyết

định cũng là chính xác, một phần là do khách hàng, một phần do ngân
hàng. Vì thế, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng
là không thể tránh khỏi, và là tất yếu khách quan. Nhiều quan điểm nhất
trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, chỉ có thể hạn
chế, không thể loại trừ.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Để có thể dễ dàng hơn trong việc quản lý, đo lường và phòng ngừa,
các NHTM đều phân loại rủi ro tín dụng theo các tiêu thức khác nhau.
Theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro tín dụng được chia thành rủi
ro theo các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Theo nguồn gốc hình thành , rủi ro tín dụng được chia thành 3 loại:
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của
ngân hàng; việc nghiên cứu và dự báo; theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng;
cán bộ tín dụng; công tác kiểm tra, kiểm soát…
11
+ Rủi ro từ phía người vay: rủi ro đạo đức, rủi ro vì khả năng tài
chính yếu kém; biến động khả năng kinh doanh; vị trí của doanh nghiệp
thay đổi; mối quan hệ với đối tác…
+ Rủi ro từ nguyên nhân khác: vì khâu quản lý của ngân hàng
Nhà nước, chế độ chính sách, môi trường, biến động kinh tế…
1.2.3 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng tại ngân hàng
1.2.3.1 Hệ số thu nợ
Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự an toàn của
đồng vốn khi cho vay. Hệ số này biểu hiện mối quan hệ giữa doanh số
thu nợ và doanh số cho vay. Nghĩa là trên 100 đồng vốn mà ngân hàng
cho vay thì sẽ có bao nhiêu đồng được thu hồi lại. Hệ số này càng lớn thì
độ an toàn càng cao và công tác thu nợ đang có sự chuyển biến tốt, rủi ro
tín dụng thấp.
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ = -------------------------------- * 100%

Doanh số cho vay
1.2.3.2 Vòng quay vốn tín dụng
Ở bất cứ doanh nghiệp nào, khi hoạt động kinh doanh đều tính đến
hiệu quả kinh tế. Điều đó được thể hiện qua vòng vay vốn tín dụng.
Vòng quay càng nhanh sẽ đủ chi phí bù đắp cho kỳ kinh doanh kế tiếp,
do đó hiệu quả sử dụng càng cao. Chỉ tiêu này được tính dựa trên tỷ lệ
giữa doanh số thu nợ và tổng dư nợ. Nó còn dùng để phản ánh hiệu suất
sử dụng vốn của ngân hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = -----------------------------
Tổng dư nợ
1.2.3.3 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng.
12
Nợ quá hạn phát sinh khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn như trong hợp đồng tín dụng
cho ngân hàng.
Nợ quá hạn là biểu hiện đặc trưng nhất của rủi ro tín dụng. Việc
phát sinh nợ quá hạn là điều khó có thể tránh khỏi, nhưng nếu nợ quá
hạn phát sinh quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng
thanh toán của ngân hàng thương mại.
Nợ quá hạn có thể hiểu là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ
gốc và/hoặc lãi không được khách hàng trả đúng hạn như trên hợp đồng.
Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc được gia hạn nợ thì số nợ
đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn, và khách hàng phải chịu lãi suất
nợ quá hạn.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ = --------------------------- * 100%
Tổng dư nợ tín dụng
Hệ số này phản ánh tình trạng nợ tại ngân hàng tốt hay xấu, công

tác tín dụng được quan tâm đến đâu và ngân hàng cần sử dụng những
biện pháp nào để giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn trong kinh doanh tiếp theo.
Mặt khác, hệ số này còn cho biết nguồn vốn của ngân hàng cho vay đến
các cá nhân, các tổ chức kinh tế có phát huy được hiệu quả không?
Người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá chất lượng
tín dụng. Do vậy việc xác lập một tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý là rất cần thiết,
theo tính toán hiện nay thì nợ quá hạn ở mức dưới 5% là có thể chấp
nhận được..
 Tỷ trọng nợ khó đòi
Nợ khó đòi
Tỷ trọng nợ khó đòi = ---------------------------
Nợ quá hạn
13
Các tỷ lệ này càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao, ngân
hàng có nguy cơ mất một phần hoặc toàn bộ nợ không thu hồi được,
thậm chí nếu nghiêm trọng có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực của phá
sản.
1.2.4 Tác động của rủi ro tín dụng
1.1.4.1 Tác động của rủi ro tín dụng tới hoạt động của NHTM
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong
tổng tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là
đã ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Những tác động có thể xảy đến trong
hoạt động của các NHTM khi rủi ro tín dụng xảy ra là:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có
một khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút
ngay, một phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong
khi vẫn phải trả lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản
lý, giám sát phát sinh. Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn trở thành nợ
khó đòi hoặc nợ mất vốn, thì việc xử lý tài sản đảm bảo cũng luôn gặp
rất nhiều khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có

thể thu hồi được nợ khi phát mại tài sản là rất khó xảy ra.
Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không chỉ làm giảm thu nhập
của ngân hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả
năng thanh khoản của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng buộc phải vay trên
thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân
cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài dẫn tới
việc người tiết kiệm rút tiền hàng loạt sẽ buộc ngân hàng phải đóng cửa
và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, rủi ro tín dụng làm giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của
ngân hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều
14
nguồn khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị
giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao
cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt
động của ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của
ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp
nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác.
1.2.5.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế
Hoạt động của các NHTM có tính chất như là cầu nối và có liên
quan đến nhiều ngành nghề và các thành phần khác nhau trong nền kinh
tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các
bộ phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi mỗi
ngân hàng là một mắt xích trong một thể thống nhất, có quan hệ mật
thiết với nhau trong hoạt động nên khi một ngân hàng sụp đổ sẽ gây ra
hiệu ứng dây chuyền, dẫn đến sự sụp đổ của toàn hệ thống. Ngoài ra,
việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ bị gián đoạn do thiếu
vốn; người gửi tiền không lấy lại tiền. Những hậu quả này không chỉ làm
giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ
thống tài chính, cũng như hiệu lực của các chính sách tài chính tiền tệ

của Chính phủ, mà còn có thể gây nên cuộc khủng hoảng tài chính cho
cả nền kinh tế.
1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường,
người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân
hàng, nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác (hay còn gọi
là nguyên nhân bất khả kháng).
1.2.6.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Thứ nhất, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao
gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non
15
kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả
năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác,
mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp ,dẫn đến chất lượng tín
dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo
đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay
không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất
vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém,
không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn
cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách
hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần
thiết.
Thứ hai, sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu
sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải
ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết
định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ
là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp
tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản
nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ
mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát

đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu
quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ.
Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng
của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và
xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba, ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một
công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân
hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm
cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát
16
mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và
điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa
dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù
hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất
nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một
vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư
phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy
hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư, định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách
hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức
đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi
nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng
được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn.
Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá
cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý,
không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những
làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
1.2.6.2. Nguyên nhân thuộc về người vay
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia

nhóm này thành hai loại chính:
Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả
nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém
trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử
dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được... Hơn
nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh
mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ
hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả
17
năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai, do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để
đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm
mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp
các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát
hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và
cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro
tiềm ẩn là rất cao.Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh
có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình chây ỳ
với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng
tốt.
1.2.6.3. Nguyên nhân khác
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung
quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp
luật…
Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân
hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả
năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên
thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định
cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin
ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do

vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có
hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến
việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai, những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh
tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu
hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy
nhiên khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở
18
một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín
dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt
qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động
sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng
không được đảm bảo.
Thứ ba, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự
thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh
hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử
dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn..,cũng
như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những
văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập…Như vậy, các chính
sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh
nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân
hàng trong cho vay.
19
CHƯƠNG II:
Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Sài Gòn
(SCB – chi nhánh HN)
2.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Chi nhánh
Hà Nội
2.1.1 Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Sài Gòn

Ngân hàng TMCP Sài Gòn (tiền thân là Ngân hàng TMCP Quế Đô)
được thành lập vào năm 1992 theo Giấy phép hoạt động số 00018/NH –
GP, Giấy phép thành lập số 308/GP – UB, Đăng ký kinh doanh số
4103001562. Trải qua 10 năm hoạt động không hiệu quả, đến cuối năm
2002, Ngân hàng Quế Đô hoạt động trong tình trạng tài chính thua lỗ
trên 20 tỷ chưa có nguồn bù đắp, bộ máy quản trị điều hành suy sụp hoàn
toàn, khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ quá hạn hơn 20 tỷ không có
khả năng thu hồi; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì chế độ thanh
tra – giám sát thường xuyên và quy định hạn mức huy động chỉ 160 tỷ
đồng, hoạt động kinh doanh nghèo nàn, không có hệ thống quy trình quy
chế hoạt động nghiệp vụ, đội ngũ nhân sự yếu về trình độ chuyên môn…
Nhận thức rõ những khó khăn đó, khi tiếp nhận Ngân hàng, các cổ
đông mới đã tin tưởng giao phó cho Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám
đốc tiến hành các biện pháp cải cách toàn diện để giải quyết những mâu
thuẫn nội tại, kiện toàn bộ máy tổ chức, làm cơ sở để tháo gỡ những khó
khăn trong hoạt động.Nhờ đó, Ngân hàng TMCP Quế Đô chính thức
được NHNNVN cho phép đổi tênvà đi vào hoạt động với thương hiệu
mới: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – SCB kể từ ngày 08/04/2003. Thương
hiệu này đã dần định hình và ngày càng chiếm được sự tin tưởng của
người dân và doanh nghiệp khắp cả nước.
Với quyết tâm đưa Ngân hàng đi lên, từ sự cố gắng phát triển kinh
20
doanh đầy hiệu quả trong năm 2003 SCB đã có những giải pháp rất thực
tế, mang ý nghĩa đột phá, nhằm lành mạnh hoa tình hình tài chính của
SCB, củng cố hệ thống quy trình, quy chế chuyên môn nghiệp vụ trong
toàn NHTM trên địa bàn TP.HCM. Đến thời điểm 30/09/2007, tổng tài
sản của SCB đạt 20.134,7 tỷ đồng, gấp hơn 1,8 lần so với năm 2006;
Tổng nguồn vốn huy động đạt 18.107,6 tỷ đồng, tăng 8.172,2 tỷ đồng
tương ứng 82,2% so với đầu năm; Tổng dư nợ tín dụng - đầu tư là
17.323 tỷ đồng, tăng 8.533 tỷ đồng tương ứng 97% so với cả năm 2006.

Phát huy tính năng động của một ngân hàng thương mại cổ phần,
tính đến 30/11/2007, SCB đã mở rộng mạng lưới lên khắp 3 miền đất
nước, bao gồm: Hội sở chính, Sở giao dịch, hơn 40 chi nhánh và phòng
giao dịch tại các khu vực:
Miền Bắc: Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng
Miền Trung: Đà Nẵng, Bình Định, Bình Thuận, Nghệ An
Thành phố Hồ Chí Minh
Đồng Bằng Sông Cửu Long: Vĩnh Long, An Giang, Châu Đốc, Trà
Vinh, Tiền Giang, Sa Đéc, Bến Tre, Cần Thơ
Miền Đông Nam Bộ: Bình Dương, Vũng Tàu
Trong quá trình hoạt động, SCB đã vinh dự đónnhận các giải
thưởng:
Cúp vàng thương hiệu Việt năm 2005 và 2006
Cúp vàng thương hiệu mạnh năm 2006
Ba Cúp vàng Sản phẩm uy tín chất lượng năm 2006 dành cho 3 sản
phẩm: “Tiết kiệm tích luỹ, tặng thêm lãi suất cho khách hàng từ 50 tuổi”;
“Tín dụng dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ”; “Tín dụng tiêu dùng”.
Danh hiệu “Doanh nghiệp Việt Nam uy tín, chất lượng năm 2006”
Bằng khen do Hiệp hội Ngân hàng trao tặng năm 2005 và 2006
Kỷ lục Việt Nam là “Ngân hàng TMCP đầu tiên phát hành trái
21
phiếu chuyển đổi năm 2007”
Cúp Cầu vàng Việt Nam năm 2007” trong ngành Ngân hàng do
NHNN VN, Hiệp hội DN vừa và nhỏ VN, Hiệp hội Bảo hiểm VN và
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam trao tặng.
Ngân hàng SCB là một trong những ngân hàng phát triển nhanh và
mạnh nhất của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với hệ thống công
nghệ thông tin không ngừng được cải thiện, cung cấp các dịch vụ tự
động hoá cao như: SCB-eBanking, thanh toán điện tử liên ngân hàng,
SMS Banking, hệ thống máy rút tiền tự động ATM…hệ thống ngân hàng

đại lí Swiftkey với 76 ngân hàng cùng 319 chi nhánh trực thuộc tại 59
nước trên thế giới, SCB đang khẳng định từng bước phát triển của mình.
Đặc biệt trong chính sách phát triển, SCB luôn chú trọng đào tạo đội
ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình và tinh thông nghiệp vụ. Vì vậy, với
đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, năng động đã đưa SCB từ một ngân hàng
có thứ hạng thấp lên đứng ở vị trí cao trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam.
2.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội được thành lập vào
tháng 04 năm 2005. Ngay từ khi thành lập, Chi nhánh Hà Nội đã được
phép thực hiện mọi hoạt động kinh doanh,được thực hiện nghiệp vụ
thanh toán trong và ngoài nước,tham gia các hoạt động mua bán ngoại tệ.
Chi nhánh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ
ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, đóng vai trò tạo lập vốn tập trung cho
vay các thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh,cung cấp các loại
hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành
phần kinh tế trên địa bàn thủ đô.
Giấy phép thành lạp số 0113009192 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP
Hà Nội cấp ngày 04/10/2005
22
Hình thức sở hữu vốn: Cổ phần
Thành phần Ban Giám đốc
+ Ông Trần Minh Cương: Giám đốc
+ Bà Đoàn Thu Hương: Phó Giám đốc
Trụ sở chính: Số 4 Hồ Xuân Hương – P. Nguyễn Du – Q. Hai Bà
Trưng – Hà Nội
Số Phòng giao dịch: 06
Công ty con: 0
Tổng cán bộ công nhân viên: 90 người
2.1.3 Tình hình họat động của SCB – Chi nhánh Hà Nội trong giai

đoạn 2005 – 2007
2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Hà Nội
Là một trung gian tài chính, cho vay luôn mang lại lợi nhuận cao
cho các ngân hàng, để làm được điều này, ngân hàng phải không ngừng
huy động tiền gửi, các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của cá nhân cũng
như doanh nghiệp.
Trong hoạt động huy động vốn, SCB Chi nhánh Hà Nội cũng mở
các dịch vụ huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình
thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi, tiếp nhận vốn
đầu tư và phát triển, vay vốn các tổ chức tín dụng khác trong nước và các
định chế tài chính ngân hàng nước ngoài.
23
Tình hình huy động vốn trong 3 năm gần đây như sau:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2005 2006 2007
Tổ chức kinh tế và dân cư 29,607 591,383
5,962,03
9
phát hành giấy tờ có giá - - -
huy động từ tổ chức tín dụng
khác 105,873 505,434 452,033
vay từ NHNN và các TCTD
khác - - -
Tổng vốn huy động theo đối
tượng 135,408
1,096,81
7
6,414,07
2
Có thể thấy tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động trong 3 năm

gần đây là rất cao, đặc biệt là nguồn vốn tăng lên từ huy động trong dân
cư và các tổ chức kinh tế. Điều này cho thấy, SCB chi nhánh HN đã tạo
được chỗ đứng trên thị trường các ngân hàng.
2.1.3.2 Hoạt động tín dụng
Hoà cùng nhịp phát triển chung của SCB, SCB chi nhánh Hà Nội dù
mới hoạt động trong thời gian ngắn nhưng vẫn nỗ lực không ngừng nâng
cao năng lực, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, hoàn thiện
quy trình ngiệp vụ cũng như quy trình quản lý.Bằng cách tung ra các sản
phẩm tín dụng hâp dẫn, linh hoạt, phù hợp với từng vùng, từng nhóm đối
tượng cụ thể SCB đã cải thiện tình hình, nâng cao hiệu quả kinh doanh
tốc độ nhanh.
Tình hình sử dụng vốn của SCB Chi nhánh Hà Nội trong 2 năm gần
đây là:
Đơn vị: tỷ đồng
24
Chỉ tiêu 2007 2006
Cho vay các TCKT 615,176.00 354,052.00
Công ty cổ phần khác 438,952.00 270,651.00
Công ty TNHH tư nhân 176,224.00 83,401.00
Cho vay cá nhân 416,861.00 37,189.00
Cho vay khác 19,400.00 -
Tổng 1,051,437.00 391,242.00
Và tình hình chất lượng tín dụng các năm qua như sau:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu năm 2007 năm 2006
STĐ % STĐ %
Nợ đủ tiêu chuẩn 1,046,766 99.56 372,010 95.08
Nợ cần chú ý - 0.00 19,232 4.92
Nợ dưới tiêu chuẩn 2,833 0.27 - 0
Nợ nghi ngờ 1,838 0.17 - 0

Nợ có khả năng mất vốn - 0.00 - 0
Tổng 1,051,437 100 391,242 100
2.1.3.3 Hoạt động dịch vụ
Bên cạnh hai hoạt động chính là huy động vốn và cho vay, SCB
cũng chú trọng phát triển các dịch vụ phi tín dụng như dịch vụ Bảo lãnh
nội địa, thanh toán, thanh toán quốc tế, kinh doanh vàng và ngoại tệ, dịch
vụ kiều hối, dịch vụ thẻ.
Các hoạt động này nhằm đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, nâng cao
chỉ số an toàn cho vốn kinh doanh.
25

×