LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động từ năm 2000.
Trải qua hơn 7 năm đi vào hoạt động, với bao thăng trầm thử thách, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Quy mô thị trường
ngày một mở rộng thể hiện ở sự gia tăng số lượng các công ty niêm yết, tỷ lệ vốn
hoá thị trường, sự gia tăng số tài khoản của các nhà đầu tư. Cùng với sự phát
triển của thị trường, số lượng CTCK ra đời cũng ngày một nhiều hơn. Cho đến
nay đã có khoảng gần 70 CTCK được cấp phép thành lập và đi vào hoạt động.
Sự cạnh tranh giữa các CTCK đang ngày càng trở nên quyết liệt hơn đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện
nay. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển thì các CTCK không còn cách nào
khác là phải tự mình nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc đa dạng hoá, nâng
cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phục vu khách hàng.
CTCK Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HBBS) ra đời và đi vào
hoạt động từ tháng 4 năm 2006. Qua quá trình thực tập tại HBBS em nhận thấy,
sau 2 năm đi vào hoạt động, công ty cũng đã đạt được một số thành tựu nhất
định, tuy nhiên so với các CTCK khác, năng lực cạnh tranh của công ty vẫn còn
nhiều hạn chế, vì vậy em chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công
ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1
Chuyên đề được hoàn thiện với ba mục tiêu như sau:
Thứ nhất, hệ thống các vấn đề lý thuyết về công ty chứng khoán và năng
lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Thứ hai, phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của CTCK HBBS, qua
đó tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh của công ty.
Thứ ba, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công
ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu là kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong
năm 2006 và 2007
1.4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các sơ đồ, bản biểu chuyên đề bao gồm 3
chương
Chương 1: Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
Chương 3: Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
2
Do kiến thức còn có hạn, kinh nghiệm và khả năng tiếp cận thực tế còn
hạn chế nên chuyên đề không thể tránh khỏi sai sót. Em rất mong muốn nhận
được sự góp ý của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc sĩ Lê
Trung Thành và các anh chị cán bộ nhân viên của công ty chứng khoán Ngân
hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt
nghiệp này.
3
CHƯƠNG I
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm
Mục tiêu của việc hình thành TTCK là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho
sự phát triển của nền kinh tế, và tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán.
TTCK hoạt động hiệu quả dựa trên nguyên tắc cạnh tranh, công bằng, công
khai và trung gian. Để tuân theo nguyên tắc trên thì TTCK cần được vận hành
thông qua các trung gian tài chính làm cầu nối. Các trung gian môi giới chủ
yếu là các CTCK.
Theo giáo trình Thị trường chứng khoán do PGS.TS Nguyễn Văn
Nam và PGS.TS Vương Trọng Nghĩa chủ biên của trường Đại học Kinh tế
quốc dân “Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện
các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán”
Theo Luật Chứng Khoán 2006, CTCK được tổ chức dưới hình thức
công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp
Như vậy có thể hiểu CTCK là một tổ chức kinh doanh chứng khoán có
tư cách pháp nhân, có vốn riêng và thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK
1.1.1.2. Đặc điểm
Là một chủ thể kinh doanh, CTCK cũng có những đặc điểm tương
đồng với tổ chức và hoạt động của các công ty khác nói chung. Nhưng đồng
4
thời, do hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán nên cũng có những đặc điểm
khác biệt hơn so với các loại hình kinh doanh khác.
- Phần lớn tài sản là tài sản tài chính
Tài sản của các CTCK phần lớn đều là tài sản tài chính. Ngoài một
phần rất nhỏ để đầu tư vào cơ sở vật chất, phần lớn tài sản còn lại của CTCK
là chứng khoán. Những chứng khoán này hình thành chủ yếu từ hoạt động tự
doanh và bảo lãnh phát hành. Nét đặc trưng của các loại tài sản tài chính này
là giá trị của chúng thường xuyên biếtn động trên thị trường. Sự biến động
này tất yếu tạo ra những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của các CTCK. Để
giảm thiểu rủi ro này, các chứng khoán trong tài sản của CTCK phải có tính
thanh khoản rất cao.
- Sản phẩm dễ bị bắt chước
Sản phẩm của các CTCK là các sản phẩm dịch vụ tài chính. Đặc điểm
của loại hình sản phẩm đặc biệt này là không có hình thái vật chất, mức độ
kết tinh chất xám cao, rất khó tạo ra sản phẩm mới song lại dễ dàng bị bắt
chước. Vì vậy để tồn tại và phát triển, các CTCK phải không ngừng cải tiến
dịch vụ, liên tục tạo ra các sản phẩm mới cũng như học hỏi đối thủ cạnh tranh
để hoàn thiện nghiệp vụ của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Có khả năng xảy ra xung đột lợi ích
Trong lĩnh vực chứng khoán, lợi ích cá nhân của các nhân viên kinh
doanh hoặc lợi ích của CTCK có thể mâu thuẫn với lợi ích của các khách
hàng mà CTCK cam kết phục vụ dẫn tới những xung đột lợi ích. Nếu không
được kiểm soát chặt chẽ, CTCK cũng như các nhân viên kinh doanh của công
ty có thể lợi dụng những đặc thù trong hoạt động của mình để trục lơi, gây
thiệt hại cho khách hàng. Vì vậy cần áp dụng những nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp để ngăn chặn các xung đột lợi ích này.
- Mức độ chuyên môn hoá cao
5
Các bộ phận của CTCK như Môi giới, Tự doanh và Bảo lãnh phát hành
chứng khoán thường được tổ chức độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau và được
chuyên môn hoá ở mức độ rất cao. Vì vậy mà việc quản lý các hoạt động của
công ty có sự phân cấp rõ rệt, các bộ phận có quyền độc lập trong quyết định.
- Là doanh nghiệp hoạt động có điều kiện
Do tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của các CTCK trên thị trường tài
chính là rất lớn, nên tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đặt ra những rào
cản đối với các doanh nghiệp muốn tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực
này. Thông thường đó là những yêu cầu về vốn điều lệ, về đội ngũ cán bộ
(kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, mức độ tín nhiệm, tính trung
thực và có giấy phép hành nghề), và các quy định tối thiểu về cơ sở vật chất.
Thêm vào đó, trong quá trình hoạt động, CTCK luôn chịu sự giám sát chặt
chẽ vởi cơ quan quản lý nhà nước (ở Việt Nam là Uỷ ban chứng khoán nhà
nước)
1.1.2. Vai trò, chức năng của các công ty chứng khoán
1.1.2.1. Chức năng của các công ty chứng khoán
CTCK có các chức năng chính sau
- Cung cấp cơ chế huy động vốn: thông qua hoạt động mua bán chứng
khoán, thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành trên thị trường các công
ty chứng khoán tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi
đến người cần sử dụng nguồn vốn đó một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Cung cấp cơ chế giá cả cho chứng khoán: TTCK là nơi gặp gỡ giữa
những người cần vốn và người có vốn nhàn rỗi để đầu tư vào chứng khoán.
Hai chủ thể này gặp nhâu trên TTCK thông qua hệ thống khớp lệnh hoặc
khớp giá để xác định giá giao dịch. Các CTCK đã giúp người bán gặp được
người mua một cách nhanh chón và hiệu quả, tiết kiệm được thời gian cũng
như chi phí cho cả 2 bên
6
- Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho nhà đầu tư, tạo ra tính thanh
khoản cho các chứng khoán
- Các CTCK thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò của nhà tạo lập
thị trờng (market maker) gớp phần điều tiết và bình ổn thị trường.
1.1.2.2. Vai trò của công ty chứng khoán
- Đối với các tổ chức phát hành
Mục tiêu khi tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy
động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Một trong những
nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này
yêu cầu nhà đầu tư và nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng
khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai
trò trung gian cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư thông qua hoạt động bảo
lãnh phát hành, và như vậy CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các
nhà phát hành
Bên cạnh đó, các CTCK cung cấp cho doanh nghiệp các giải pháp tổng
hợp về tài chính công ty, cơ cấu lại doanh nghiệp, lập và đánh giá dự án, quản
lý tài sản và định hướng đầu tư.
- Đối với các nhà đầu tư
Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng
chi phí cho người mua và người bán nhứng đối với TTCK, sự biến động
thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho
nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi
quyết định đầu tư. Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư,
CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu
quả các khoản đầu tư.
- Đối với TTCK
7
Thứ nhất, CTCK góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả là
do thị trường quyết định, nhưng để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và
người bán phải thông qua CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá
trình mua bán. Với việc cung cấp cơ chế giá cả, CTCK góp phần đưa giá
chứng khoán phản ánh đúng cung cầu thị trường. Ngoài ra, CTCK cón thực
hiện vai trò ổn định thị trường, can thiệp để điều tiết giá cả. Vai trò này xuất
phát từ nghiệp vụ tự doanh, qua đó CTCK dành một tỷ lệ nhất định giao dịch
của mình (do luật pháp quy định) để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
Thứ hai: các CTCK làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
Trên thị trường sơ cấp, do các CTCK thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành
nên giá chứng khoán đã được định giá phù hợp với thực trạng của tổ chức
phát hành và tình hình thị trường, vì vậy mà rút ngắn được thời gian phát
hành chứng khoán, giúp chứng khoán nhanh chóng được giao dịch Bên cạnh
đó, hoạt động môi giới và tư vấn của CTCK trên thị trường thứ cấp tạo nên
tính thanh khoản cho chứng khoán, làm cho chúng hấp dẫn hơn trong con mắt
nhà đầu tư.
- Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Mục tiêu của các cơ quan quản lý, giám sát thị trường là đảm bảo giao
dịch an toàn và kiểm soát thị trường. Vì vậy, việc thông tin được cung cấp
cho các cơ quan quản lý một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng. CTCK thực
hiện vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý bởi họ vừa
là người phân phối các chứng khoán mới phát hành thông qua hoạt động bảo
lãnh phát hành và đại lý phát hành, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và
thực hiện các giao dịch trên thị trường. Các thông tin mà CTCK có thể cung
cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về
các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…
8
Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và
chống các hiện tượng thao túng và lũng đoạn thị trường.
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán
1.1.3.1 Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
đó một CTCK đại diên cho khách hàng tiến hành gío dịch thông qua cơ chế
giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách
hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Hoạt động môi giới là một trong những hoạt động quan trọng nhất của
công ty chứng khoán. Với chức năng trung gian kết nối người bán và người
mua, cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư, hoạt động môi
giới đã mang lại khoản phí không nhỏ cho CTCK. Tuy nhiên nhân viên môi
giới không được xúi dục mua, bán chứng khoán để hưởng hoa hồng mà phải
đưa ra những lời khuyên chân thành hạn chế rủi ro thấp nhất cho khách hàng.
Vì vậy nghề moi giới đòi hỏi những phẩm chất đạo đức và mẫn cán trong
công việc. Ngoài ra, nhân viên môi giới là người tiếp xúc với khách hàng
nhiều nhất và là bộ mặt của công ty. Khách hàng lựa chọn CTCK để tham gia
thị trường một phần là do hoạt động môi giới tại công ty đó như thế nào.
Chính vì vậy một nhà môi giới chuyên nghiệp cần có những yếu tố và kỹ
năng như: kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ nang tìm kiếm khách hàng, kỹ
năng khai thác thông tin. Các kỹ năng này giúp người môi giới định vị được
khách hàng và truyền đạt được những thông tin cần thiết tới khách hàng.
1.1.3.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua
bán các chứng khoán cho chính mình
9
Hoạt động tư doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị
trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC. Trên thị trường giao
dịch tập trung, lệnh giao dịch của các CTCK được đưa vào hệ thống và thực
hiện tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng. Trên thị trường OTC, các
hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty vơi các đối tác
hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Trong hoạt động này, với tư
cách là một tổ chức pháp nhân chuyên nghiệp, CTCK còn đóng vai trò là nhà
tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định một số loại chứng khoán
và thực hiện mua bán với khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh
lệch giá. Ngoài ra, CTCK còn được kinh doanh các nghiệp vụ khác ngoài mua
bán chứng khoán thông thường nhằm thu lợi nhuận cho chính mình khác như
cho vay chứng khoán, repo chứng khoán, mua bán các công cụ chứng khoán
phái sinh…
Như vậy, mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho
chính công ty. Hoạt động này thực hiện song hành với hoạt đông môi giới,
vừa phục vụ lênhj giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho
chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích
giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Vì vậy để
đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều
yêu cầu các CTCK phải đáp ứng một số yêu cầu nhất đinh
a. Điều kiện để thực hiện hoạt động tự doanh
- Điều kiện về vốn: để thực hiện hoạt động tư doanh, các công ty chứng
khoán phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Việc quy
định mức vốn trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các CTCK thực sự có vốn và
dùng vốn của họ để kinh doanh.
10
- Điều kiện về con người: con người cũng là yếu tố quyết định đến sự
thành công của hoạt động tự doanh. Chính vì vậy, nhân viên thực hiện nghiệp vụ
tự doanh của Công ty phải có chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc
biệt là tính nhạy cảm trong công việc.
b. Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh
- Tách biệt quản lý: công ty chứng khoán phải tách biệt giữa hoạt động
môi giới và hoạt động tự doanh nhằm tránh các xung đột lợi ích giữa công ty
và khách hàng. sự tách biệt này bao gồm cả về yếu tố con người, quy trình
nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng, của công ty.
- Ưu tiên khách hàng: nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải
được xử lý trước lệnh tư doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công
bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do CTCK có
tính đặc thủ về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên
các CTCK có thể sẽ dự đoán trước diễn biến của thị trường và sẽ mua bán
tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
- Bình ổn thị trường: do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK
mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhf đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên
nghiệp tronghoạt đồng đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến
động bất thường trên thị trương. Bên cạnh hoạt động cảu các quỹ đầu tư
chứng khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của
mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều
tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trương. Thông
thường, chức năng bình ổn giá cả khôn phải là một quy định bắt buộc trong
hệh thống pháp luật của các nước, tuy nhiên đây thương là nguyên tắc nghề
nghiệp do các hiệp hội chứng khoán đặt ra trên thị trường và các CTCK phải
tuân thủ theo trong quá trình hoạt động
11
Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số quy định khác như các
giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư v.v. nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất
định cho các CTCK trong quá trình hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt
hại chung cho cả thị trường.
1.1.3.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp cho tổ
chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức
việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn
đầu sau khi phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành bao gồm:
• Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương
pháp phát hành, loại chứng khoán phát hành, cơ cấu giá…
• Thỏa thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị phân phối
chào bán chứng khoán
• Quản lý phân phối và thanh toán chứng khoán.
• Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát
hành.
• Đại lý phân phối chứng khoán.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các Công Ty Chứng Khoán thu về
hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể là tùy ý tùy từng
Công Ty Chứng Khoán.
12
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
(Nguồn Trung tâm đào tạo UBCKNN)
Tổ
chức
phát
hành
Uỷ
ban
chứng
khoán
Nhà
nước
Nhận yêu cầu bảo lãnh
Ký hợp đồng tư vấn quản lý
Đệ trình p/án bán, cam kết BL
Lập nghiệp đoàn bảo lãnh
Ký hợp đồng bảo lãnh
Nộp HS xin phép p/hành
Thăm dò thị trường
Giấy phép phát hành Chứng
Công bố việc phát hành
Phân phát bản cáo bạch
Phân phát phiếu đăng kí mua chứng khoán
Nhận tiền đặt cọc
Phân phối cổ phiếu trên cơ sở
Lưu ký chứng khoánBình ổn thị trường Thanh toán
Công Ty Chứng
Khoán
13
1.1.3.4. Hoạt động tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân
tích để đưa ra các lời khuyên, phânt ích các tình huống và có thể thực hiện
một số công biệc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài
chính cho khách hàng. Đây là hoạt động khó và phức tạp đòi hỏi CTCK phải
có kỹ năng và am hiểu thị trường cũng như trách nhiệm, tính trung thực cao
đối với những dịch vụ mà mình cung cấp cho khách hàng
Để hiểu rõ về hoạt động tư vấn chứng khoán, chung ta có thể phân loại
hoạt động này theo một số tiêu chí sau:
* Theo hình thức của hoạt động tư vấn: có thể gồm
- Tư vấn trực tiếp: khách hàng có thể gặp trực tiếp nhà tư vấn hoặc sử
dụng các phương tiện liên lạc như điện thoại, fax… để hỏi ý kiến
- Tư vấn gián tiếp: là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa
thông tin lên các phương tiện truyền thông như Internet để khách hàng nào
cũng có thể tiếp cận được nếu muốn
* Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tư vấn
- Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, ngườì tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến
của mình về những diễn biến trên thị trường gợi ý cho khách hàng về những
phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng
- Tư vấn uỷ quyền: bên cạnh việc tư vấn cho khách hàng, nhà tư vấn có
thể quyết định hộ khách hàng theo mức độ uỷ quyền của khách hàng
* Theo đối tượng của hoạt động tư vấn
- Tư vấn cho người phát hành: hoạt động tư vấn cho người phát hành
tương dối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến định giá doanh
nghiệp, tư vấn về cơ cấu vốn, cổ phần hoá, hay thâu tóm sáp nhập với công ty
khác, tư vấn về phương án phát hành chứng khoán v.v…
14
- Tư vấn cho nhà đầu tư: là hoạt động tư vấn cho nhà đầu tư về thời
gian mua ban, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị
trường
1.1.3.5. Các hoạt động phụ trợ khác
* Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách
hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán thông qua các tài
khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng
khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung được thực hiện
dưới hình thức giao dịch ghi sổ. Khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng
khoán tại các CTCK nếu các chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ
hoặc ký gửi các chứng khoán nếu chúng được phát hành dưới hình thức
chứng chỉ vật chất.
* Quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo
dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận
và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng
* Nghiệp vụ tín dụng
Đối với TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng. CTCK còn triển khai dịch vụ cho khách
hàng vay chứng khoán để thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho
khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện mua ký quỹ. Ở Việt Nam hiện
nay, các CTCK không được thực hiện hoạt động tín dụng, do đó, các CTCK
không được trực tiếp thực hiện dịch vụ này. Vì vậy, CTCK đứng ra làm trung
gian giúp khách hàng tiếp cận và vay vốn của ngân hang, đồng thời CTCK
giup ngân hàng phong toả các chứng khoán làm tài sản thế chấp cho các
khoản vay.
15
1.1.4. Mô hình, tổ chức của công ty chứng khoán
1.1.4.1 Mô hình của công ty chứng khoán
Là một định chế tài chính đặc biệt, hoạt động của các CTCK rất đa
dạng và phức tạp nên việc xác định mô hình kinh doanh của nó cũng có
những điểm không giốn nhau giữa các nước. Mô hình kinh doanh của các
CTCK tại mỗi quốc gia phải phụ thuộc vào đặc điểm của hệ thống tài chính
và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy
nhiên, có thể khái quát thành 2 mô hình cơ bản
a. Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ
Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức
một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh
doanh tiền tệ, bảo hiểm. Mô hình này chia làm hai loại
- Mô hình đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng
khoán phải lập công ty con, hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt
động kinh doanh tiền tệ. CTCK chỉ hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và
các lĩnh vực khác theo quy định, nó khôn hoạt đong trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ như ngân hàng mẹ.
- Mô hình đa năng hoàn toàn: các ngân hàng được trực tiếp kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực
kinh doanh, giảm bớt rủi ro kinh doanh nhờ đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư. Khả
năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động của thị trường tài chính
cũng nâng lên. Mặt khác, ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh của mình là
tổ chức kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ
về khách hàng khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án.
Tuy nhiên, mô hình này cũng còn bộc lộ một số hạn chế như các ngân
hàng thường có xu hướng bảo thủ, thích cho vay hơn là bảo lãnh phát hành cổ
16
phiếu, trái phiếu. Đồng thời, do khó tách bạch giữa hoạt động kinh doanh tiền
tệ và kinh doanh chứng khoán nên dựa vào nguồn vốn lớn, ngân hàng dễ thao
túng thị trường chứng khoán, gây lũng đoạn thị trường. Bên cạnh đó, do
không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn nên ngân hàng có thể sử
dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán và khi thị trường
diễn biến theo chiều hướng xấu sẽ dẫn tới hiện tượng ồ ạt rút tiền gửi, làm
mất khả năng chi trả trong hệ thống ngân hàng. Do những hạn chế này, đặc
biệt sau cơn khủng hoảng 1929-1933, mô hình đa năng kinh doanh chứng
khoán đã không còn được ưa chuộng.
b. Mô hình chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân
hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân
hàng, tạo điều kiện để các CTCK đi sâu vào chuyên môn hoá trong lĩnh vực
chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển
Mô hình này được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật
Bản, Hàn Quốc…
1.1.4.2. Tổ chức của công ty chứng khoán
Hiện nay có ba loại hình tổ chức CTCK cơ bản là: công ty hợp danh,
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Ở Việt Nam, theo luật
chứng khoán 2006, CTCK được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH hoặc
công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp. Quy định này, giúp
CTCK có khả năng huy động vốn lớn và giới hạn rủi ro trong phạm vi góp
vốn.
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình ngiệp vụ chứng
khoán mà công ty thực hiện cũng như quy mô hoạt động kinh doanh chứng
17
khoán của công ty đó. Tuye nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống
các phòng ban chức năng được chia làm 2 khối khác nhau là khối nghiệp vụ
(front office) và khối phụ trợ (back office)
- Khối nghiệp vụ: là khối thực hiện các giao dịch mua bán kinh doanh
chứng khoán, nói chung là có liên hệ với khách hàng. Khối này đem lại thu
nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản
phẩm phù hợp với nhu cầu đó. Tương ứng với từng nghiệp vụ cụ thể, công ty
có thể tổ chức thành từng bộ phận phòng ban nhất định. Vì vậy khối này có
thể gồm các phòng sau
+ Phòng môi giới
+ Phòng tự doanh
+ Phòng bảo lãnh phát hành
+ Phòng tư vấn tài chính và đầu tư
+ Phòng ký quỹ
- Khối phụ trợ: là khối không trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ khinh
doanh nhưng nó không thể thiếu được trong vận hành của CTCK vì hoạt động
của nó mang tính chất trợ giúp cho khối nghiệp vụ. Khối này bao gồm
+ Phòng nghiên cứu, phát triển
+ Phòng phân tích và thông tin thị trường
+ Phòng công nghệ tin học
+ Phòng kế toán, thanh toán và kiểm soát nội bộ
+ Phòng kế hoạch công ty
+ Phòng phát triển sản phẩm mới
+ Phòng ngân quỹ, ký quỹ
+ Phòng pháp chế
+ Phòng hành chính tổng hợp
18
Ngoài ra, để thuận tiện cho quan hệ với khách hàng, mạng lưới tổ chức
một công ty chứng khoán thường gồm những chi nhánh hoặc văn phòng đại
diện tại các địa phương, khu vực cần thiết.
1.2. Năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán
1.2.1.Khái niệm về cạnh tranh và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty chứng khoán
Theo C.Mark: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”
Theo Longman: “Cạnh tranh là hoạt động của một cá nhân hay tổ chức
cố gắng để chiến thắng hoặc giành được công việc kinh doanh từ các đối thử
của mình”
Theo kinh tế học: “Cạnh tranh là sự sự giành giật thị trường (khách
hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp”
Ngày nay, cạnh tranh là một điều tất yếu khách quan trong một nền
kinh tế thị trường. Đặc biệt, TTCK là một môi trường cạnh tranh rất sôi động
và chịu nhiều tác động của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin. Từ những TTCK sơ khai nhất đến những TTCK phát triển thì vấn đề cạnh
tranh giữa các CTCK luôn diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt và gay gắt ngay trong
chính bản thân các CTCK ở trong nước với nhau. Hơn thế nữa, trong điều
kiện nền kinh tế hội nhập quốc tế hiện nay, khi chúng ta phải thực hiện rất
nhiều cam kết với các tổ chức quốc tế, cộng với nữa đó là xu hướng toàn cầu
hoá nền kinh tế, quá trình hội nhập của các quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ thì
các quy định mang tính chất giới hạn hành chính trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ sẽ được xoá bỏ hoặc nới lỏng để phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá về tài
chính - tiền tệ. Thực sự việc hội nhập trong lĩnh vực tài chính tiền tệ là một
trong những thách thức lớn
19
nhất của nhiều tổ chức tài chính – ngân hàng nói chung ở nước ta. Vì vậy,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố sống còn đối với các CTCK.
Năng lực cạnh tranh của CTCK là thể hiện thực lực và lợi thế của công
ty so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Để đánh giá năng lực cạnh tranh
của một CTCK cần phải xác định các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ
những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả
định tính và định lượng.
1.2.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty
chứng khoán
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Khi xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của mọi doanh nghiệp nói
chung và công ty chứng khoán nói riêng, các chỉ tiêu định tính đóng một vai
trò rất quan trọng. Đặc biệt, những ngành kinh doanh đòi hỏi hàm lượng chất
xám cao như các CTCK thì chỉ tiêu này lại càng quan trọng. Những chỉ tiêu
định tính bao gồm
a. Nguồn nhân lực
Một đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, có chuyên môn giỏi sẽ là tài
sản vô hình nói lên tiềm năng sức mạnh của CTCK đó, nói lên năng lực cạnh
tranh của CTCK đó. Nó được đánh giá thông qua trình độ học vấn, kinh
nghiệm trong kinh doanh của các cán bộ khinh doanh và cán bộ lãnh đạo của
CTCK.
b. Mức độ chuyên nghiệp
Chỉ tiêu này nhằm đánh giá sự bài bản trong hoạt động kinh doanh của
các CTCK. Khi đánh giá chỉ tiêu này cần xét tới các yếu tố như CTCK đã xây
dựng được chiến lược kinh doanh chưa, chiến lược đó có rõ ràng và khả thi
20
không; bộ máy hoạt động kinh doanh được tổ chức như thế nào, các aquy
trình cho từng nghiệp vụ cụ thể có được xây dựng đầy đủ không
c. Mức độ đa dạng hoá trong sản phẩm dịch vụ
Đa dạng ở đây được hiểu là sự phát triển đầy đủ các sản phẩm dịch vụ
của công ty (Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán). Không chỉ là tiêu chí đánh
giá mức độ phát triển, sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh chứng khoán
còn thể hiện khả năng giảm thiểu rủi ro của CTCK khi tham gia thị trường
d. Cơ sở hạ tầng công nghệ:
Chỉ tiêu này đánh giá mức độ áp dụng và hiệu quả của việc áp dụng các
tiến bộ của khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu định lượng sẽ giúp CTCK đánh giá được năng lực cạnh
tranh của chính mình qua các thời kỳ với các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường. Các chỉ tiêu định lượng bao gồm
- Thị phần của các sản phẩm dịch vụ: thị phần của từng sản phẩm dịhc
vụ trong tổng thị phần của dịch vụ đó là chỉ tiêu đánh giá mức độ ảnh hưởng
hay năng lực cạnh tranh của công ty đối với dịch vụ đó trên thị trường
- Các chỉ tiêu tài chính
+ Lợi nhuận: lợi nhuận luôn là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu
qủa của bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, nó phản ánh tình hình tài chính của
công ty, là nguồn quan trong để công ty đầu tư mở rộng kinh doanh. Lợi
nhuận là khoản thu được sau khi lấy doanh thu trừ đi toàn bộ chi phí và các
khoản thuế phải nộp
+ Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời: đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh
tổng hợp nhất về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này
gồm có
21
ROE = thu nhập sau thuế/Vốn chủ sở hữu
ROA = thu nhập sau thuế/tổng tài sản
Hai chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tổng tài sản và vốn chủ
sở hữu. Thông qua hai chỉ tiêu này chúng ta có thể thấy được hiệu quả kinh
doanh của CTCK như thế nào, tức là khả năng cạnh tranh của công ty đã
mang lại một kết quả kinh doanh tốt hay không. Rõ ràng chỉ tiêu này thể hiện
năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách
hàng để từ đó gia tăng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Chỉ có những
CTCK có năng lực cạnh tranh cao thì mới có ROA, ROE cao
Ngoài ra còn các chỉ tiêu khác cũng phản ánh khả năng sinh lợi như:
doanh thu từ lãi/tài sản, doanh thu ngoài lãi/tài sản
+ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán: Chỉ khi có khả năng
thanh toán tốt thì CTCK mơi có khả năng nâng cao uy tín của mình, tạo được
lòng tin ở khách hàng cũng như đối tác của mình trong giao dịch kinh doanh.
Từ đó có thể thấy chứng mình được năng lực tài chính của công ty lúc nào
cũng được đảm bảo, công ty luôn có đủ khả năng để cạnh tranh trên thị
trường và thanh toán cho khách hàng đầy đủ, kịp thời. Nhóm chỉ tiêu này gồm
Khả năng thanh toán hiện hành = tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành nói lên khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp. Nếu tỉ số này lớn thì khả năng thanh toán nợ cao và
ngược lại
Vì nợ ngắn hạn được thanh toán bới tài sản lưu động mà tài sản lưu động lại
gồm những khoản khó chuyển ra tiền như hàng tồn kho nên chỉ tiêu khả năng
thanh toán hiện hành chưa phản ánh hết được khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Vì vậy, một cách chính xác hơn, chúng ta dùng chỉ tiêu khả năng
thanh toán nhanh.
22
Khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản lưu động – Hàng tồn kho)/Nợ
ngắn hạn
+ Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh sự tự chủ và ổn định tài chính của công ty
chứng khoán. Thông qua chỉ tiêu nay chúng ta biêt được tình hình cơ cấu nguồn
vốn của công ty như thế nào từ đó xem xét chính sách vay nợ của công ty. Nếu
công ty có cơ cấu và sử dụng hợp lý các nguồn vay nợ sẽ tạo ra cho công ty
những lợi thế cạnh tranh cho công ty: khi công ty muốn vay thêm nợ các chủ nợ
nhìn vào cơ cấu nguồn vốn của công ty họ sẽ thể hiện mức độ tin tưởng vào sự
đảm bảo thanh toán nợ của công ty, đồng thời việc sử dụng nợ công ty còn đựơc
hưởng một khoản tiết kiệm thuế. Tất cả những điều đó nói lên sự chuyên nghiệp
và nhanh nhay của công ty trong việc đưa ra các chính sách tài chính. Ở đây
chính là khả năng sử dụng đòn bẩy tài chính để tạo ra khả năng cạnh tranh của
công ty chứng khoán so với các công ty chứng khoán khác.
Nhóm chỉ tiêu này bao gồm:
+ Hệ số nợ = Nợ/ Tổng nguồn vốn (hoặc tổng tài sản)
+ Hệ số đầu tư vào tài sản lưu động = TSLĐ/ Tổng tài sản
+ Hệ số tự tài trợ = VCSH/ Tổng nguồn vốn
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của CTCK
Do đặc tính của ngành kinh doanh chứng khoán, hoạt động của CTCK
luôn chịu ảnh hưởng từ các điều kiện kinh tế tài chính bên ngoài. Đồng thời
do phải phản ứng với những biến đổi của môi trường nên bản thân CTCK
cũng luôn cần điều chỉnh. Vì vậy, CTCK luôn phải đối mặt với những nhân tố
khách quan cũng như chủ quan khi thực hiện hoạt động kinh doanh
1.2.3.1 Các nhân tố chủ quan
a. Quan điểm của người lãnh đạo
Mọi hoạt động kinh doanh của mỗi CTCK đều phải tuân thủ chiến lược
đầu tư nói riêng và chiến lược hoạt động tập thể nói chung. Việc hoạch định
23
nên những chiến lược này mang đậm dấu ấn của đội ngũ lãnh đạo nhất là
phong cách của người đứng đầu CTCK. Quan điểm khác nhau sẽ dẫn đến
việc hoạch định chiến lược hoạt động khác nhau, cách thức tổ chức bộ máy
kinh doanh khác nhau, lựa chọn chiến lược đầu tư khác nhau và do đó kết quả
kinh doanh cũng khác nhau
b. Mô hình tổ chức
CTCK là một định chế tài chính đặc biệt, vì vậy mà hoạt động của nó
rất đa dạng và phức tạp. Việc tổ chức quản lý của công ty có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt đông kinh doanh chứng khoán
của công ty nói riêng. Do các hoạt động của CTCK có đặc thù là độc lập
nhưng vẫn có ảnh hưởng nhất định tới nhau nên cơ cấu tổ chức của CTCK
phải đáp ứng được yêu cầu cơ bản là chuyên môn hoá ở mức độ cao, mỗi bộ
phận chỉ chuyên trách thực hiện một hoạt động cụ thể và phải làm sao cho các
bộ phận chuyên môn phối hợp nhịp nhàng với nhau. Nếu không được sắp xếp
hợp lý bởi một chiến lược rõ ràng và một định hướng ưu tiên có cơ sở, mọi
hoạt động của CTCK có thể trở nên hỗn loạn trước những biến động bất ngờ
của thị trường.
c. Đội ngũ nhân viên
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ quốc gia nào,
đặc biệt trong lĩnh vức chứng khoán, nơi mà công việc đòi hỏi phải có hàm
lượng chất xám cao, có tinh thần trách nhiệm cao, khả năng truyền đạt phân
tích thông tin nhanh chóng thì điều đó càng quan trọng. Một đội ngũ nhân
viên có năng lực, chuyên môn giỏi sẽ làm gia tăng sự tin tưởng của khách
hàng vào công ty để từ đó sẽ tin tưởng gửi gắm nới công ty những quyết định
sáng suốt và hiệu quả, tức là gia tăng năng lực cạnh tranh của công ty
d. Tiềm lực tài chính:
Khả năng tài chính luôn là yếu tố hàng đầu trong mọi hoạt động của
CTCK đặc biệt là với hoạt động tự doanh và bảo lãnh phát hành đòi hỏi công
24
ty phải có một lượng vốn rất lớn.theo Luật Chứng khoán2007. Với quy mô
nguồn vốn lớn, sẽ cho phép công ty triển khai được nhiều dịch vụ để phục vụ
khách hàng. Nguồn vốn nhỏ sẽ làm giảm sút khả năng cạnh tranh của công ty
so với các công ty khác. Bên cạnh quy mô nguồn vốn tự có thì tình hình tài
chính của công ty có vai trò rất quan trọng. Tình hình tài chính mạnh thì công
ty mới có khả năng mở rộng kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm, ngược lại thì
khả năng mở rộng tìm kiếm khách hàng sẽ giảm sút, không thực hiện được
các chiến lược đã để ra dẫn đến làm giảm sút niềm tin và uy tín của công ty,
ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh và khả năng cạnh tranh của công ty
Mặt khác, trong trường hợp tạo lập thị trường, CTCK cũng cần nắm
giữ một số lượng chứng khoán đủ lớn cũng như lượng tiền mặt dồi dào để sẵn
sàng mua bán nhằm điều tiết được giá cả trên thị trường.
Vì vậy khả năng tài chính tốt hoặc có một chỗ dựa tài chính vững chắc
là điều rất cần thiết
e. Cơ sở hạ tầng công nghệ
Ngày nay, công nghệ thông tin đã trở thành một yếu tố không thể thiếu
trong tiến trình phát triển của nhân loại. Để kinh doanh thành công, đòi hỏi
nắm bắt được thông tin một cách nhanh nhất, vì vậy việc áp dụng công nghệ
thông tin đối với CTCK trở nên rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin
đến khách hàng.
Bên cạnh đó, để tiết kiệm thời gian và công sức của khách hàng, các
CTCK cần đưa ra nhiều phương thức giao dịch cùng những tiện ích cho nhà
đầu tư. Điều này cũng đòi hỏi một hệ thống công nghệ cao, phát triển. Vì vậy
phát triển hệ thống công nghệ cũng sẽ là một yếu tố để nâng cao năng lực
cạnh tranh của công ty
1.2.3.2. Các nhân tố khach quan
Nếu như các nhân tố nội tại có vai trò quyết định trong việc hoạch định
chiến lược và hiệu quả hoạt động kinh doanh của một CTCK thì các nhân tố
25