Luận văn
Nâng cao chất lượng lao
động xuất khẩu tại trung
tâm dịch vụ và xuất khẩu
lao động SELAC
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành các nghề khác như:
công nghệ thông tin, dịch vụ, vật liệu mới thì xuất khẩu lao động là một
trong những sự phát triển đang được nhà nước chú trọng và quan tâm. Xuất
khẩu lao động là thể hiện sự di chuyển nguồn lao động trong phạm vi quốc
tế. Đây chính là một hình thức phân cơng lao động, là cơ sở để phát triển
nhiều lĩnh vực quan trọng khác. Xuất khẩu lao động không chỉ nhằm giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho người lao động và gia
đình họ mà cịn là biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế, tăng
nguồn thu ngoại tệ, đào tạo và nâng cao trình độ cho người lao động về
chuyên môn-khoa học kỹ thuật, ngoại ngữ, làm quen với lối sống, tác phong
công nghiệp và đấu thầu quốc tế, nâng cao năng suất lao động xã hội, giải
quyết việc làm và hạn chế thất nghiệp ở trong nước.
Trung tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC là một doanh nghiệp
chuyên doanh trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tập thể cán bộ nhân viên
trung tâm đã không ngừng cố gắng sáng tạo, phấn đấu góp sức vì sự phát
triển trung tâm. Tuy vậy, hiện nay trung tâm vẫn cịn gặp khó khăn rất lớn
đó là làm sao phải nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, để tăng khả năng
cạnh tranh và uy tín trên thị trường xuất khẩu lao động. Xuất phát từ thực tế
đó, em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại trung
tâm dịch vụ và xuất khẩu lao động SELAC” làm chuyên đề thực tập.
Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng nguồn lao động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu và các hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại trung tâm
SELAC.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng lao động
xuất khẩu tại SELAC
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO
ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu lao động và chất lượng nguồn lao
động xuất khẩu.
1. Xuất khẩu lao động và các tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động.
1.1. Xuất khẩu lao động và vai trò của xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là việc lao động của một nước có nhu cầu ra nước
khác làm việc trong thời gian nhất định. Xuất khẩu lao động hiện nay coi là
xu thể mang tính khách quan của các nước đang phát triển và kém phát triển.
Xuất khẩu lao động có thời hạn ở nước ngồi thể hiện tính quy luật của sự di
chuyển nguồn lao động trong phạm vi quốc tế. Đây chính là một hình thức
phân công lao động, là cơ sở của việc phát triển đội ngũ lao động lành nghề
và chuyên nghiệp hoá. Mặt khác xuất khẩu lao động cũng là cơ hội của
người lao động trong việc học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, tăng thêm
sự hiểu biết về phong tục, tập quán về nước tới lao động.
Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ tăng dân số hàng năm vẫn còn cao, giải
quyết việc làm cho người đến tuổi lao động là một gánh nặng cho quốc gia.
Mặt khác, nền kinh tế còn thiếu và yếu chưa đủ đáp ứng được hết các việc
làm mà người lao động tìm kiếm. Do đó, xuất khẩu lao động đang trở thành
vấn đề bức bách và nó có tính chất quan trọng trong quá trình tham gia hội
nhập với nền kinh tế thế giới.. Đối với các nước hoạt động trong lĩnh vực
xuất khẩu lao động thì nó đóng góp một số vai trò quan trọng sau:
- Xuất khẩu lao động làm tăng thu ngoại tệ dưới dạng tiền gửi về của
những người lao động ở nước ngồi cho gia đình họ. Đây là một nguồn thu
hàng năm rất quan trọng trong chính sách thu hút ngoại tệ của chính phủ thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng thu ngân sách nhà nước. Hàng năm lượng tiền thu được từ xuất
khẩu lao động là rất lớn, từ việc nhà nước thu thuế từ các doanh nghiệp hoạt
dộng trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đến việc thu từ các hoạt động liên
quan đến hoạt động xuất khẩu lao động như: hàng không, làm Visa, hay
khám sức khoẻ.
- Giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện nay tình trạng thất nghiệp
của khơng chỉ các nước đang phát triển mà còn của các nước phát triển là rất
lớn. Lượng lao động đến tuổi ngày càng nhiều nhưng công việc không đủ để
đáp ứng cho họ và xuất khẩu lao động là một biện pháp hữu hiệu để giải
quyết vấn đề này. Xuất khẩu lao động giải quyết một số lượng lớn lao động
hàng năm, nhưng chủ yếu là những lao động có trình độ học vấn và chuyên
môn thấp. Tuy vậy xuất khẩu lao động cũng đang có những thay đổi tích cực
để khơng chỉ là giải quyết lao động phổ thông mà phải là lao động có trình
độ, chất lượng cao. Xuất khẩu lao động khơng chỉ góp phần giải quyết cơng
ăn việc làm cho người lao động mà nó cịn nâng cao đời sống về mọi mặt:
vật chất, tinh thần cho người lao động.
- Góp phần nâng cao trình độ người lao động về văn hố, về tay nghề
chun mơn, tiếp thu được lối sống và tác phong làm việc cơng nghiệp, do
đó từng bước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước khi họ trở về. Đây là một vai trò quan trọng của xuất khẩu lao
động đối với các nước đang phát triển. Sau một khoảng thời gian làm việc
tại nước ngoài người lao động cũng tích luỹ cho mình được những kinh
nghiệm trong cơng việc, trong cuộc sống để về áp dụng vào trong nước
mình. Họ có thể học hỏi được cách làm, cơng nghệ, cách quản lý…của nước
nhập khẩu. Thời gian xuất khẩu lao động lao động thường là 2-3 năm, nhưng
cũng đủ để người lao động nâng cao được trình độ và học hỏi được nhiều
điều. Tuy nhiên vai trò này chỉ rõ khi người lao động có trình độ học vấn
hay ham học.
- Đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài giúp nhà nước giảm được khoản
chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động.
Hàng năm, nhà nước vẫn phải chi một khoản tiền khá lớn để đầu tư đào tạo
nghề cho nhu cầu sử dụng lao động trong nước. Vì vậy, khi đưa người lao
động nhà nước đã tiết kiệm được khoản tiền này và đầu tư vào được mục đích khác.
- Thắt chặt mối quan hệ sẵn có và mở rộng mối quan hệ với nước ngoài.
Xuất khẩu lao động giúp mối quan hệ giữa các nước được duy trì và phát
triển đồng thời cũng tạo ra các mối quan hệ mới. Đây cũng là chủ trương của
các nước khi xuất khẩu lao động để hội nhập và phát triển. Có ngày càng
nhiều các quốc gia mà Việt Nam tham giam xuất khẩu lao động, ngày càng
có nhiều vùng lãnh thổ được mở rộng. Vì vậy, đây khơng chỉ là thời cơ của
Việt Nam giới thiệu về nước mình mà cịn là thời cơ để nước ta tận dụng
khai thác các mặt hay, mặt mạnh của nước bạn để áp dụng có chọn lọc vào Việt
Nam.
1.2. Các tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động.
Đó là các tổ chức thực hiện việc đưa lao động của nước mình sang nước
khác làm việc, hay đây chính là cầu nối giữa lao động có nhu cầu xuất khẩu
lao động với nước tiếp nhận lao động. Các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực này cũng phải có đủ giấy phép kinh doanh hay các thủ tục đăng ký
hoạt động. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp này là tuyển dụng, đào tạo lao
động có đủ trình độ để tham gia lao động tại nước ngoài đồng thời phải giám
sát, quản lý các lao động đang làm việc tại đó. Việc thu được nhiều doanh
thu hay khơng tuỳ thuộc vào khả năng có đưa được nhiều lao động ra nước
ngồi làm việc khơng.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu lao động của tổ
chức thực hiện xuất khẩu lao động.
Tại một cuộc họp về thị trường lao động quốc tế, đại diện của 11 nước
Châu Á tham dự hội thảo tổ chức tại Nhật Bản đầu năm 2004 cho rằng: hiện
nay thị trường lao động quốc tế đang tiếp tục được mở rộng, nhưng lại có
chiều hướng thay đổi. Một số nước vẫn tiếp tục là nước xuất khẩu lao động
như: Philippin, Inđônêxia, Việt Nam…, một số nước vừa xuất vừa nhập
khẩu lao động như: Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc…, và một số nước
như: Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn cần nhập khẩu lao động.
Hầu hết các nước đều thiếu lao động có trình độ và đang tìm cách cải
thiện chính sách nhằm thu hút lao động có tay nghề cao. Việc tiếp nhận lao
động phổ thơng tiếp tục có nhu cầu lớn, tuy nhiên việc sử dụng lao động phổ
thơng trên thị trường lao động quốc tế có nhiều mặt hạn chế và kém hiệu quả
do: thu nhập thấp, khả năng tiếp thu cơng nghệ mới rất có hạn, điều kiện làm
việc kém, bị đối xử thiếu bình đẳng, giá nhân cơng thấp, khả năng cạnh
tranh khó. Rõ ràng xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại có
nét đặc thù và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động bởi
các nền kinh tế và các chính sách phát triển của các nước, đồng thời nó cũng
có tác động trở lại với nền kinh tế và xã hội của cả nước xuất và nhập lao
động. Quá trình xuất khẩu lao động của mối quốc gia trong điều kiện kinh tế
thị trường chịu ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản sau:
2.1. Những yếu tố thuộc về doanh nghiệp.
Khả năng xuất khẩu lao động của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nhau như: chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, tiềm lực kinh tế
của doanh nghiệp hay thị trường lao động xuất khẩu mà doanh nghiệp có
được, khả năng đào tạo lao động xuất khẩu.
Chất lượng nguồn lao động.
Các nước nhập khẩu truyền thống đang đổi mới đầu tư và hiện đại hố
cơng nghệ sản xuất, chuyển dịch đầu tư tư bản sang nước có giá nhân cơng
và dịch vụ thấp và có nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngồi có trình độ
chun môn, kỹ thuật cao, tăng dần tỷ trọng lao động chất xám cao trong
tổng số lao động nhập cư.
Với tính chất phức tạp, nhạy cảm và tính chất quốc tế cao của xuất khẩu
lao động, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động với tư cách hỗ trợ, quản
lý, giám sát và định hướng cho công tác xuất khẩu lao động là cần thiết. ứng
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế của mỗi nước, phải có một phương thức tổ
chức và quản lý xuất khẩu lao động riêng, trong đó quản lý tài chính xuất
khẩu lao động là một khâu quan trọng để đạt được hiệu quả kinh tế-xã hội.
Ở Việt Nam, từ năm 1998-2003 ta đã đưa được trên 200.000 lao động đi
làm ở nước ngoài, chúng ta cũng đã có nhiều thoả thuận, ký kết hiệp định
hợp tác lao động với một số nước như: Đài Loan, Lào, Malaysia.Tiếp tục ổn
định thị trường sẵn có và phát triển thị trường mới sang các nước như: Anh,
Pháp, Canada. Công khai, mở rộng thị trường khu vực Trung Đông, với mục
tiêu đưa càng nhiều lao động ra nhiều nước càng tốt.
Với nhu cầu tuyển lao động xuất khẩu hiện nay ở nhiều nước, chất lượng
lao động cần được chú ý tới để tăng khả năng cạnh tranh và uy tín với các
nước nhập khẩu. Vì vậy các nước xuất khẩu lao động nói chung và các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động nói riêng cần có những biện pháp để nâng
cao chất lượng lao động của nước mình đáp ứng được nhu cầu của thị trường
thế giới và khu vực.
Khả
năng đào tạo và quản lý lao động của doanh nghiệp.
Đây là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến tên tuổi của
doanh nghịêp xuất khẩu lao động. Các doanh nghiệp đều đầu tư nhiều thời
gian và tiền của vào cơng tác này để có được một kết quả như mong muốn
Thị
trường lao động mà doanh nghiệp hiện có.
2.2. Những yếu tố thuộc về môi trường.
2.2.1. Môi trường vĩ mơ.
Ngồi các yếu tố của doanh nghiệp thì các yếu tố mơi trường cũng có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến khả năng xuất khẩu lao động của doanh nghiệp. Các
yếu tố này cũng là các yếu tố quyết định rất lớn đến khả năng xuất khẩu lao
động. Đây chính là các yếu tố như: yếu tố pháp luật, quan hệ cung cầu về lao
động trên thị trường thế giới và khu vực, hay sự cạnh tranh về xuất khẩu lao
động giữa các quốc gia.
Yếu
tố pháp luật.
Xuất khẩu lao động chịu tác động mạnh mẽ của mơi trường chính trị và
pháp luật của các nước xuất, nhập khẩu lao động và luật pháp quốc tế. Đối
tượng tham gia xuất khẩu lao động là người lao động và các tổ chức kinh
doanh hoạt động này. Xuất khẩu lao động khơng cịn là việc của một cá nhân
mà liên quan đến nhiều người, nhiều tổ chức cung ứng lao động, đến các
nước xuất khẩu lao động, nước nhập lao động. Vì vậy, quản lý xuất khẩu lao
động ngoài việc phải tuân thủ những quy định, những chính sách, những
hình thức, quy luật của quản lý kinh tế, còn phải tuân thủ những quy định về
quản lý nhân sự của cả nước xuất cư và nhập cư. Hệ thống pháp luật và
chính sách hỗ trợ cho xuất khẩu lao động liên tục đòi hỏi bổ sung và hoàn
thiện.
Quan
hệ cung- cầu về lao động trên thị trường thế giới và khu vực.
Các nước kinh tế phát triển có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng tốc độ
tăng dân số thấp, dẫn đến thiếu hụt về nguồn nhân lực, có nhu cầu về nhập
khẩu lao động, trong khi các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển cần
đầu tư mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp, bổ
sung nguồn thu ngân sách và thu nhập cho người lao động, rất cần đưa lao
động ra nước ngoài làm việc. Cung-cầu lao động của thị trường phụ thuộc
nhiều vào sự phát triển và các chính sách kinh tế của các nước như: thu
nhập, đầu tư, thuế, lãi suất...của nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Khi
cung-cầu lao động mất cân đối nghiêm trọng do nhu cầu tìm việc làm trong
nước quá lớn nhưng khả năng xâm nhập, khai thác thị trường lao động quốc
tế còn rất hạn chế, cạnh tranh gay gắt sẽ đẩy chi phí khai thác thị trường lên
quá cao, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động.
Sự
cạnh tranh về xuất khẩu lao động giữa các quốc gia.
Xuất khẩu lao động được thực hiện trong sự cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia xuất khẩu lao động. Ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào lĩnh
vực này, trong hiện tại và trước mắt các nước nhập khẩu lao động chỉ muốn
tiếp nhận lao động có kỹ thuật cao, thích ứng với cơng nghệ mới, đặc biệt là
cơng nghệ thơng tin, xiết chặt chính sách nhập cư và có xu hướng quản lý
lao động nhập cư thông qua các hợp đồng lao động tạm thời và các chính
sách quản lý lao động nhập cư; đồng thời các nước cũng thông qua Tổ chức
Lao động Quốc tế và Tổ chức Di dân Quốc tế để giải quyết vấn đề di dân và
nhập cư lao động một cách toàn diện, phục vụ lợi ích của quốc gia mình,
người lao động và tồn xã hội. Do đó làm cho các nước xuất khẩu lao động
ngày càng phải tự hoàn thiện để phục vụ nhu cầu các nước nhập khẩu.
2.2.2. Môi trường ngành.
Yếu tố cạnh tranh.
Ngày nay xuất khẩu lao động khơng cịn xa lạ với Việt Nam, vì vậy có
ngày càng nhiều các doanh nghiệp, trung tâm hình thành và phát triển trong
lĩnh vực này với mục đích đưa người lao động sang nước ngoài làm việc để
nhằm thu lợi nhuận. Do đó sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các cơng ty
này ngày càng gay gắt, điều này không chỉ xảy ra ở lĩnh vực xuất khẩu lao
động. Các doanh nghiệp ngồi việc tìm mọi giải pháp cho việc tồn tại và
phát triển thì cũng phải tìm cho được con đường đi riêng cho mình để có thể
cạnh tranh thành công với các doanh nghiệp đang phát triển mạnh hơn. Vì
thế hoạt động xuất khẩu lao động đang gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn
này, nên để có thể xuất khẩu lao động thành cơng hay khơng còn tuỳ thuộc
rất nhiều vào khả năng hay năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các
cơng ty đó.
3. Nguồn lao động xuất khẩu.
Nguồn lao động xuất khẩu là tất cả những người lao động có nhu cầu
xuất khẩu lao động, đi làm việc tại nước ngoài. Tạo nguồn lao động xuất
khẩu đang được chính phủ và các doanh nghiệp quan tâm do tính chất quan
trọng của nó. Nguồn lao động xuất khẩu là yếu tố quan trọng đầu tiên ảnh
hưởng đến chất lượng lao động xuất khẩu. Nó góp phần giải quyết cho công
tác tuyển dụng khi mà các doanh nghiệp tìm kiếm lao động xuất khẩu.
Nguồn lao động thường được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tuyển
dụng qua các hình thức sau:
Thứ
nhất, qua các trung tâm dịch vụ việc làm tại các địa phương. Trước
khi tuyển dụng công ty đều ký thoả thuận với các trung tâm, trong đó quy
định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên, yêu cầu về từng loại
hình lao động như sức khỏe, độ tuổi, trình độ học vấn và tay nghề…đồng
thời nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, đặc biệt là vấn đề tài
chính. Từ đó trung tâm sẽ phổ biến cơng khai cho mọi người tham gia dự
tuyển, đồng thời hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết. Sau đó trung tâm sẽ
tập trung toàn bộ người tham gia dự tuyển để cơng ty hoặc đối tác nước
ngồi tuyển chọn trực tiếp.
Tuyển chọn qua hình thức này có ưu điểm là huy động được số lượng lớn
nguồn lao động với đa dạng các ngành nghề từ trình độ cao đến lao động
phổ thơng. Các thủ tục lao động được làm nhanh chóng, thuận lợi và chính
xác, tránh được các chi phí khơng cần thiết. Việc đào tạo cũng thuận lợi và
nhanh chóng hơn, doanh nghiệp có thể phối hợp với trung tâm để mở các
lớp đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao động trước khi
đi, giảm bớt chi phí ăn ở, đi lại cho họ.
Thứ hai, tuyển trực tiếp thơng qua chính quyền cấp xã, phường. Tiến
hành đưa các thông tin về yêu cầu tuyển dụng, nghĩa vụ và quyền lợi của
người lao động đi làm việc về các địa phương để thông báo đến tồn bộ cư
dân trên địa bàn, sau đó cùng chính quyền tập trung những người có mong
muốn đi làm việc ở nước ngồi để tiến hành tuyển chọn trực tiếp.
Hình thức này vừa đảm bảo chất lượng nguồn, nắm chắc được lý lịch
của người lao động, tránh được các phát sinh phức tạp, người lao động cũng
không phải qua khâu trung gian, được tạo mọi điều kiện thuận lợi trong khâu
giải quyết các thủ tục hồ sơ tại địa phương. Nhưng lại chỉ tuyển được lao
động phổ thông, số lượng của từng nơi cũng hạn chế. Một số địa phương
không có cán bộ chuyên trách nên việc hướng dẫn các thủ tục không thành
thạo, một số thông tin đưa đến người lao động khơng chính xác.
Ngồi
ra, cơng ty cịn tuyển trực tiếp qua thông báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng, qua giới thiệu của những người đi trước.
Trong quá trình tuyển chọn rất cần được theo dõi và giám sát để hoạt
động tuyển chọn được diễn ra có chất lượng, từ đó mới đảm bảo được chất
lượng người lao động được tuyển chọn. Các phương pháp tuyển chọn trên
tuy cịn nhiều hạn chế, nhưng đó cũng là các biện pháp hạn chế được phần
nào người lao động có trình độ thấp, cịn hạn chế về nhận thức và kém văn
hố.
Ngày càng có nhiều mơ hình liên kết giữa các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động với các địa phương các tỉnh có người lao
động muốn ra nước ngồi làm việc. Cũng qua mơ hình liên kết này, vấn đề
vốn cho lao động vay được giải quyết. Đây là tín hiệu đáng mừng khi vấn đề
nguồn lao động đang trở nên gặp nhiều khó khăn trong thời điểm hiện tại.
Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ về đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên hai
nguyên tắc. Một là tăng nhanh số lượng đưa đi nhưng phải quản lý chặt chẽ.
Hai là nhanh chóng thay thế lao động giản đơn bằng lao động có trình độ kỹ
thuật. Chính phủ cũng đang có các biện pháp nhằm tạo nguồn lao động đủ
điều kiện tham gia làm việc ở nước ngoài, đồng thời cũng tiến hành xây
dựng chiến lược phát triển lâu dài tạo nguồn lao động kỹ thuật cao, góp phần
giải quyết tình trạng khan hiếm lao động có trình độ kỹ thuật và tạo nguồn
lao động ổn định lâu dài. Tóm lại nguồn lao động như là đầu vào của q
trình sản xuất, do đó cần phải xây dựng một hệ thống nguồn lao động mang
tính chiến lược và quy hoạch cụ thể, vượt khỏi tầm lao động đơn giản, vươn
tới lao động có trình độ cao và đây phải là nguồn đầu vào đạt tiêu chuẩn.
4. Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu.
Chất lượng lao động xuất khẩu được xét trên nhiều tiêu chí khác nhau như:
Kỹ năng chuyên mơn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất đạo đức, tác
phong làm việc, sức khoẻ, ý thức chấp hành cơng việc và kỷ luật…Đây
chính là các tiêu chí hay yêu cầu đối với lao động của phía đối tác nước tiếp
nhận lao động thường quan tâm khi xét tuyển lao động nhập khẩu nói chung.
Vì vậy cần xem xét cac tiêu chí này một cách rõ ràng hơn:
4.1. Kỹ năng chun mơn nghiệp vụ.
Đây là tiêu chí hàng đầu khi người lao động được xét tuyển. Để có thể ra
nước ngồi làm việc, người lao động cần có một trình độ nghiệp vụ nhất
định phù hợp với yêu cầu của phía đối tác. Do đó các doanh nghiệp hay các
công ty xuất khẩu lao động cần đào tạo người lao động sau khi tuyển dụng
để họ có một trình độ ngành nghề cụ thể. Các ngành nghề này thường là các
nghề mà nước tiếp nhận lao động cần tuyển như: xây dựng, may măc, điện,
thông tin, hay người giúp việc. Chất lượng lao động xuất khẩu phụ thuộc rất
nhiều vào kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Người lao động có một kỹ năng
chun mơn nghiệp vụ tốt sẽ dễ dàng được nước bạn tiếp nhận hơn là người
lao động không đáp ứng được yêu cầu này. Tuy vậy đây khơng phải là tiêu
chí duy nhất để đánh giá chất lượng lao động xuất khẩu.
4.2. Trình độ ngoại ngữ.
Khi ra nước ngoài làm việc, người lao động cần có một vốn ngoại ngữ
nhất định để có thể giao tiếp xã giao và để làm việc với chủ lao động của
mình. Đây là một yếu tố khơng thể thiếu đối với người lao động khi tham gia
làm việc tại nước ngồi. Để có thể làm được việc và sống được bên đó thì
ngoại ngữ là cầu nối duy nhất của người lao động. Đối với người lao động
thì khi sang lao động tại nước nào thì họ được học và thực hành tiếng nước
đó. Tuy nhiên học ngoại ngữ đối với họ khơng phải là dễ dàng vì gần như
đây là lần đầu tiên tiếp xúc với tiếng nước ngồi, vì vậy đây là khó khăn của
khơng chỉ người lao động mà nó cịn là khó khăn của doanh nghiệp để nâng
cao chất lượng lao động của mình. Chất lượng lao động phụ thuộc rất lớn
vào tiêu chí này, nên ngoại ngữ là rất cần thiết và đó là yếu tố rất quan trọng
để đánh giá chất lượng lao động của một doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
4.3. Phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc của người lao động.
Đây cũng là những yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp hay nước bạn
đánh giá chất lượng lao động của mình khi tuyển chọn. Đây cũng là tiêu chí
đầu tiên mà doanh nghiệp quan tâm để tuyển chọn lao động cho mình. Trình
độ chun mơn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ có thể dạy khi người lao
động đã được tuyển chọn nhưng phẩm chất đạo đưc và tác phong làm việc
thì là yếu tố khơng thể dạy được trong thời gian ngắn mà lao động đang ở tại
doanh nghiệp. Do đó cần tuyển chọn được những lao động đạt tiêu chuẩn về
phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc để có thể đảm bảo chất lượng lao
động một cách toàn diện hơn khi tham gia lao động tại nước ngoài.
4.4. Sức khoẻ người lao động.
Một yếu tố tuy rất nhỏ nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng lao
động của một doanh nghiệp. Đây là yếu tố được nhà tuyển dụng quan tâm
nhưng cũng rất khó cho họ có thể tuyển được những lao động có sức khoẻ
như ý, bởi sức khoẻ người lao động cần được thể hiện trong cả thời gian làm
việc tại nước ngồi. Điều này rất khó khăn do lao động làm việc tại nước
ngồi thường có những thay đổi về sức khoẻ khi phải làm việc và có cuộc
sống khơng như trong nước, vì vậy các doanh nghiệp khi tuyển lao động thì
cần tuyển chọn thật kỹ càng vấn đề sức khoẻ để tránh khỏi những điều đáng
tiếc xảy ra ví dụ như lao động bị trả về nước vì vấn đề sức khoẻ.
Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu là yếu tố được các nhà đối tác quan
tâm hàng đầu khi tiếp nhận lao động xuất khẩu. Nó quyết định khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp và các công ty tham gia xuất khẩu lao
động, đồng thời quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động
xuất khẩu lao động. Khi mà chất lượng lao động khơng được chú ý đến thì
hiệu quả cơng việc sẽ không đạt kết qủa như mong muốn. Không chỉ đối với
lao động nói chung mà bất kỳ một lao động trong ngành nghề cụ thể nào
cũng cần có tay nghề, có trình độ chun mơn cao. Vì vậy khi lao động đủ
điều kiện đi xuất khẩu lao động phải là lao động có trình độ chun mơn, có
tay nghề, có thể đáp ứng cơng việc kỹ thuật cao, là lao động có phẩm chất
đạo đức, có tác phong làm việc tốt... Đây khơng chỉ là địi hỏi của thị trường
lao động, của nước tuyển lao động, mà nó là xu thế khách quan khi mà công
nghệ kỹ thuật cao đang chiếm đại đa số công nghệ sản xuất của các nước
trên thế giới. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, ở đâu chuẩn bị được tốt
lực lượng lao động, có chất lượng cao phù hợp sẽ nhanh chóng chiếm giữ
được thị trường, dành thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ khác. Vì vậy
trước khi đi làm việc tại nước ngoài, người lao động cần được đào tạo toàn
diện cả về ngoại ngữ, trình độ chun mơn kỹ thuật, kiến thức về pháp luật
và sự hiểu biết khác.
II. Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn
2000-2004.
Có thể nói trong những năm qua, xuất khẩu lao động của Việt Nam đã
được mùa lớn. Từ năm 1998-2003 chúng ta đã đưa được trên 223.000 lao
động đi làm việc ở nước ngoài, nâng tổng số lao động làm việc tại nước
ngoài lân gần 40 vạn người, làm việc trên 40 nước và vùng lãnh thổ và
chúng ta cũng đã có nhiều thoả thuận, ký kết hiệp định hợp tác lao động với
một số nước như: Liên Bang Nga, Cộng hoà Séc, CHDCND Lào…
Hiện nay nước ta có khoảng 163 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao
động , trong đó có 18 doanh nghiệp chuyên doanh, 147 doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh ngành nghề được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động.
Số lao động đưa đi ngày càng tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm
2000 cả nước đưa đi được 31.500 lao động, năm 2001 là 36.168 lao động,
năm 2002 là 46.122 lao động và năm 2003 là 75.500 lao động.
Số lư ợ ng lao đ
ộng của Việ Nam trong cá c nă m.
t
75500
80000
70000
62300
60000
46122
Người
50000
40000
36168
Số lao đ
ộng
31500
30000
20000
10000
0
2000
2001
2002
2003
2004
Nă m
Cú th thy cỏc năm sau hoạt động xuất khẩu lao động đã tăng dần so với
các năm trước. Và năm 2003 là năm bội thu của xuất khẩu lao động khi số
lượng lao động xuất khẩu đạt được là 75.500 người, tăng so với năm 2002 là
64,13%, và vượt kế hoạch là 50%. Trong đó các thị trường trọng điểm ngày
càng ổn định và phát triển: Malaysia (40.000 người), Đài Loan (23.000
người), Hàn Quốc( 4.000 người), Nhật Bản ( 2.000 người). Tuy vậy năm
2004 lại có biểu hiện của sự chững lại, nguyên nhân ở đây là sự ảnh hưởng
của chất lượng lao động. Các lao động của Việt Nam đang dần làm xấu hình
ảnh của mình bằng các vụ việc như: bỏ trốn hay bị đuổi về nước vì các
nguyên nhân khác nhau.
Xuất khẩu lao động thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng
khích lệ, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao
động và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước.( Số liệu trong bảng sau).
Số lao động xuất khẩu
Số ngoại tệ thu về
( người).
(1000. USD).
1995
10.050
77.900
1996
12.660
100.800
1997
18.470
129.200
1998
12.240
148.300
1999
20.700
150.800
2000
31.500
155.460
2001
36.168
160.600
2002
46.122
165.458
2003
75.500
1.102.300
Năm
(chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi).
( Trích số liệu: Tạp chí Kinh tế châu Á- Thái Bình Dương, Số 2(31), 42004. Phạm Thị Hồng Điệp)
Thu nhập của lao động Việt Nam ở nước ngồi gửi về ước tính khoảng 1,5
tỷ USD.
Đối với nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý nhà nước bình quân cho
một lao động mỗi năm khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7
USD, quả là rất có lời. Tính chung người lao động đi làm ở nước ngồi bình
qn thu nhập bằng 10-15 lần so với thu nhập trong nước. Do vậy, xuất khẩu
lao động là cơ hội tốt để người lao động tích luỹ vốn, cải thiện đời sống và
điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ.
Về cơng tác đào tạo, do nhu cầu thị trường tiếp nhận lao động, 5 năm trở
lại đây công tác dạy nghề đã được đặt đúng vị trí của nó. Đến nay, nước ta
đã xây dựng được một mạng lưới dạy nghề bao gồm 157 trường dạy nghề
cơng lập; 70 trường dạy nghề ngồi cơng lập, 170 trường trung học chuyên
nghiệp, các trường cao đẳng và dạy nghề; 148 trung tâm dạy nghề; 150 trung
tâm dịch vụ việc làm; 160 cơ sở đào tạo giáo dục lao động xuất khẩu thuộc
các doanh nghiệp. Để đáp ứng được nhu cầu lao động trong nước và xuất
khẩu đi đi nươc ngồi cần phải có một chiến lược đào tạo tương ứng, nhất là
chiến lược đào tạo lao động kỹ thuật cao phục vụ cho công tác xuất khẩu lao
động cho các năm tiêp theo.
Trong 5 năm qua, chúng ta đã đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài
được khoảng 200 ngàn lao động. Trong đó lao động phổ thơng chiếm tỷ lệ
khá cao (65%), cịn lại là lao động kỹ thuật. Có thể thấy trong cả nước chất
lượng lao động xuất khẩu còn rất thấp, tỷ lệ lao động phổ thơng cịn nhiều.
Mặc dù được phía bạn khen gợi, đánh giá khá tốt về chất lượng cũng như
đức tính cần cù, chịu khó. Tuy nhiên cũng có khơng ít người lao động bị trả
về, trong đó lý do đào tạo chiếm một phần đáng kể. Yếu kém về chất lượng
lao động cũng đã được thể hiện từ lâu. Cơng tác đào tạo của nước ta cịn rất
yếu và lạc hậu. Ngoài ra, phải kể đến việc các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực còn chưa chú trọng vào nâng cao chất lượng lao động của mình.
Nhìn ra các nước trong khu vực, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì
xuất khẩu lao động của nước ta cịn rất nhỏ bé. Số lượng lao động làm việc
thường xuyên tại nước ngoài của Việt Nam chỉ bằng một vài phần trăm số
lao động thường xuyên làm việc ở nước ngồi của các nước có dân số chỉ
bằng nửa dân số nước ta. Các hình thức và các lĩnh vực nghề tham gia xuất
khẩu cũng đơn điệu, phần lớn là các nghề đơn giản.
Nhưng nhìn chung, chúng ta đã tháo gỡ được cơ chế cho người lao động
vay vốn đi làm việc tại nước ngoài, giúp cho những người trước đây chưa có
điều kiện được tham gia xuất khẩu lao động. Điều này cũng đặc biệt có ý
nghĩa đối với lao động ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đưa xuất khẩu lao
động thành một hướng xoá đói giảm nghèo có hiệu quả cao.
- Cơng tác thanh tra, kiểm tra đã được nâng cao chất lượng, góp phần quan
trọng trong công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động, hạn chế vi
phạm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, góp phần tích cực ngăn
ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức, cá nhân ngồi xã hội.
-
Một mặt nữa cần nói đến là vấn đề năng lực của các doanh nghiệp đã
được nâng cao một bước. Đa số các doanh nghiệp đã hoạt động theo đúng
các quy định của pháp luật và sự điều hành của nhà nước. Bước đầu xây
dựng được một số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tạo được uy tín với
đối tác và với người lao động, đưa được số lượng lớn lao động đi làm việc
tại nước ngồi.
- Ngồi ra, cơng tác thơng tin tun truyền đã được đổi mới, góp phần nâng
cao nhận thức và khắc phục hiện tượng thơng tin một chiều cũng như tình
trạng người lao động thiếu thông tin dẫn đến bị lừa đảo. Cơ quan quản lý
nhà nước đã nghiên cứu và ban hành kịp thời nhiều ấn phẩm thông tin về
điều kiện thị trường, luật lao động và sử dụng lao động nước ngoài, xuất
nhập cảnh, phong tục tập quán, đất nước con người của các nước nhận lao
động để cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và các cơ quan
thông tin đại chúng để phổ biến rộng rãi. Các phương tiện thơng tin đại
chúng đã góp phần tích cực trong việc phổ biến các chủ trương chính sách
về xuất khẩu lao động, phát hiện, đấu tranh góp phần tích cực ngăn chặn cac
hiện tượng tiêu cực. Nét mới của các thông tin trong các năm qua về xuất
khẩu lao động là đã chú ý đưa thông tin về cơ sở bằng việc phát hành bộ tài
liệu về xuất khẩu lao động và danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động đến 500 huyện, thị và phát hành 200.000 tờ rơi cung cấp các điều cần
biết cho người lao động muốn đi làm việc ở nước ngoài về tận các phường,
xã trong cả nước.
Tuy nhiên nguồn lao động chất lượng cịn thấp, tình hình đào tạo lao động
xuất khẩu chưa được chú trọng đúng mức thể hiện:
- Lao động của ta dồi dào về số lượng, có ưu điểm: thơng minh, cần cù, có
trình độ học vấn cao so với nhiều nước. Nhiều người trước khi xuất khẩu lao
động đã chủ động đầu tư học ngoại ngữ, bồi dưỡng tay…để có thể vượt qua
được các đợt kiểm tra, tuyển chọn. Công tác giáo dục định hướng trước khi
đi ngày càng được chú trọng nhằm từng bước cải thiện chất lượng nguồn lao
động xuất khẩu. Hệ thống các trường đào tạo, giáo dục định hướng đã được
hình thành ở các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Tuy vậy phải nói
rằng trong lúc các nước ở khu vực có tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 4050% so với tổng lực lượng lao động, ở nước ta tỷ lệ này còn rất thấp, chỉ
chiếm khoảng 20%. Hiện nay cịn thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, đặc biệt và trước hết là thiếu công nhân lành nghề cho nhu cầu trong
nước và xuất khẩu lao động.
- Ngồi ra tình trạng người lao động phá bỏ hợp đồng ra làm việc bất hợp
pháp tại một số thị trường như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản tuy có chiều
hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Công tác quản lý lao động của một số
doanh nghiệp chưa tốt. Thông tin về xuất khẩu lao động đến vùng sâu, vùng
xa cịn hạn chế. Cơng tác quản lý ngồi nước vẫn cịn nhiều bất cập. Ngun
nhân ở đây chủ yếu do nhận thức của người lao động. Họ chỉ nghĩ đến lợi
ích trước mắt mà khơng nghĩ đến lợi ích lâu dài, thiếu ý thức chấp hành kỷ
luật, ý thức tôn trọng cam kết với doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp cũng
chưa thực hiện tốt công tác tuyển chọn, giáo dục định hướng, quản lý lao
động ở nước ngoài, chưa kịp thời giải quyết các phát sinh trong quá trình
thực hiện hợp đồng, chế tài xử lý cũng chưa mạnh.
III. Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu tại các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động xuất khẩu.
Chất lượng lao động xuất khẩu là một yếu tố quan trọng tác động trực
tiếp tới xuất khẩu lao động. Hiện nay các doanh nghiệp đang cố gắng tìm
cách tác động trực tiếp vào các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động
xuất khẩu để có thể phát huy tối đa lợi thế sẵn có của mình tăng sức cạnh
tranh ngày càng gay gắt trên thị trường xuất khẩu lao động. Các yếu tố đó
được chia thành các nhóm sau:
1.1. Những yếu tố thuộc về người lao động.
Khi xét đến các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động xuất khẩu thì
khơng thể khơng nói tới trình độ học vấn, phẩm chất đạo đức và sức khoẻ
của người lao động…
Trình
độ học vấn của người lao động ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp
thu, rất khó cho họ có thể học và làm được những ngành kỹ thuật cao khi mà
trình độ cịn hạn chế. Người lao động nước ta chủ yếu xuất thân từ nơng
thơn, có trình độ thấp. Do đó cịn khó khăn trong làm việc khi tiếp cận các
ngành có kỹ thuật cao. Đây là một hạn chế khi cạnh tranh với lao động các
nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy vậy bù lại người lao động Việt
Nam rất cần cù và chịu khó, “ cần cù bù thơng minh” và có thể nói các nước
tiếp nhận lao động của Việt Nam rất có cảm tình đối với lao động nước ta vì
tính cần cù chịu khó này. Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là những
người lao động có trình độ, nhận thức cao đều có được việc làm tốt ổn định
trong nước chứ khơng có ý định lập nghiệp tại nước ngoài nên những người
lao động xuất khẩu nói chung đều yếu kém về trình độ, khả năng nhận thức
cịn hạn chế, vì vậy chất lượng lao động nước ta trong những năm qua còn
yếu chưa đáp ứng được yêu cầu của nước tiếp nhận. Khi mà trình độ người
lao động thấp, thì chất lượng lao động cũng thấp và khả năng cạnh tranh là
rất yếu, dẫn đến thua kém các nước khác. Do đó, cơng tác tuyển chọn lao
động phải được chú ý và quan tâm nhiều hơn để chọn lọc được những lao
động đủ trình độ, nhận thức đưa đi làm việc tại nước ngoài, để đáp ứng được
yêu cầu, tạo thêm niềm tin cho phía đối tác nước ngoài khi tuyển chọn lao
động Việt Nam.
Phẩm chất đạo đức và sức khoẻ ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu lao
động của doanh nghiệp là do nó có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng lao
động xuất khẩu. Khi mà các yếu tố này không được đảm bảo thì chất lượng
lao động sẽ khơng đáp ứng được u cầu của phía đối tác. Nên đây là các
yếu tố có tác động đáng kể đến chất lượng lao động của doanh nghịêp. Do
tính chất quan trọng trên thì các yếu tố này được coi là các tiền đề quan
trọng trong công tác nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Vì vậy khi xây dựng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao
động xuất khẩu thì yếu tố đầu tiên cần được quan tâm của người lao động là
phẩm chất đạo đức và sức khoẻ của người lao động, đó cũng là cơ sở để hoạt
động xuất khẩu lao động có hiệu quả cao hơn.
1.2. Những yếu tố thuộc về doanh nghiệp.
1.2.1. Công tác tuyển dụng lao động xuất khẩu.
Hiện nay công tác tuyển dụng lao động xuất khẩu đang được các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động quan tâm và ưu tiên phát triển. Nó đóng vai trò
quyết định đến chất lượng lao động xuất khẩu. Các biện pháp tuyển dụng
đang được chủ trọng và hoàn thiện. Với các biện pháp tuyển dụng hiện nay
Việt Nam cũng chưa đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng và cung tuyển dụng
của phía đối tác và người lao động. Hiện nay nước ta đang áp dụng các biện
pháp tuyển dụng như: tuyển qua các trung tâm dịch vụ việc làm, tuyển trực
tiếp qua các địa phương, hay qua giới thiệu của những người đã đi xuất khẩu
lao động.
Các phương pháp tuyển chọn được thực hiện hợp lý, đúng quy tắc cũng
sẽ giúp cho công tác đào tạo chất lượng lao động xuất khẩu dễ dàng hơn. Đó
chính là tiền đề để doanh nghiệp hoặc cơ quan xuất khẩu căn cứ vào để phân
chia người lao động vào các ngành nghề hợp lý, phù hợp với trình độ chun
mơn của người lao động. Do đó có thể nói cơng tác tuyển chọn có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng người lao động xuất khẩu. Công tác tuyển
chọn cần được chú ý và hồn thiện để góp phần nâng cao chất lượng lao
động.
1.2.2. Công tác đào tạo lao động xuất khẩu.
Đây là công tác không thể thiếu trong các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xuất khẩu lao động. Đào tạo lao động là khâu quan trọng và mục
đích của nó là giúp người lao động có thêm trình độ chun mơn nghiệp vụ,
ngoại ngữ hiểu thêm về văn hoá nước đến lao động. Ngoài mục tiêu trang bị
cho người lao động một số kiến thức nhất định về ngoại ngữ, đào tạo còn
quán triệt cho họ hiểu kỹ và nắm vững nội dung hợp đồng, nhất là các điều
khoản về quyền lợi, nghĩa vụ, pháp luật, phong tục tập quán của nước tiếp
nhận lao động. Cũng trong thời gian đào tạo, cần tiếp tục sàng lọc và loại bỏ
dần những phần tử có thái độ, tác phong sinh hoạt và suy nghĩ không phù
hợp với việc đi xuất khẩu lao động như lười biếng, vô kỷ luật, ý thức tổ chức
kém…Bên cạnh chương trình đào tạo giáo dục định hướng theo yêu cầu của
Bộ lao động, thì doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần biên soạn giáo trình
riêng phù hợp sát với thực tế với từng loại hình và trình độ lao động khác
nhau để người học dễ tiếp thu. Việc đào tạo tốt sẽ nâng cao chất lượng lao
động được tuyển dụng từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Do đó đây là yếu tố sống cịn đối với doanh nghiệp, vì vậy các