Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Chính sách phụ nữ nông thông trong thời kỳ công nghiệp doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.68 KB, 36 trang )

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA
PGS, TS. Hoàng Bá ThịnhTrường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà NộiCập nhật
ngày: 22/10/2010
Phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp, nông
thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là một lực lượng chủ yếu
trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn nhân lực của đất nước, nhưng phụ
nữ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị. Chính vì
vậy, cần có những quan tâm hợp lý đến phụ nữ nông thôn.
1 - Những thách thức đối với phụ nữ nông thôn hiện nay
Ở Việt Nam, phụ nữ nông thôn là lực lượng to lớn và quan trọng của quá trình công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn. Theo số liệu từ Tổng điều tra dân số năm 2009, phụ nữ chiếm 50,5%
số người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ này là 60%). Trong tổng lực lượng
lao động nữ, có 68% là hoạt động trong nông nghiệp, tỷ lệ này đối với nam giới là 58%. Vai trò
của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình chuyển đổi
kinh tế, với sự tham gia của lao động nữ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong
khi lao động nam giảm dần. Thời kỳ 1993 - 1998, số nam giới tham gia hoạt động nông nghiệp
mỗi năm giảm 0,9%. Trong giai đoạn này, 92% số người mới gia nhập lĩnh vực nông nghiệp là
phụ nữ, vì nam giới chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Hiện tượng thay đổi này dẫn đến
xu hướng là, nữ giới tham gia nhiều hơn trong hoạt động nông nghiệp.
Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn đang tạo nên những biến
đổi mạnh mẽ trong đời sống của người nông dân Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những yếu tố tích
cực thì cũng có một số tác động không tích cực của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, đặc biệt
là việc chuyển đổi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và sân gôn (từ năm 2001
đến 2007 diện tích đất nông nghiệp cả nước đã mất 500.000ha, riêng năm 2007 mất 120.000ha)
khiến cho hàng ngàn hộ nông dân không còn ruộng đất canh tác và phải tìm kiếm những phương
thức sinh kế khác nhau, làm tăng thêm số lượng người di cư từ nông thôn ra đô thị cùng với phụ
nữ xuất khẩu lao động và lấy chồng là người nước ngoài.
Lao động di cư có khuôn mẫu giới rất rõ, phụ nữ trẻ từ nông thôn ra đô thị làm việc ở khu
vực kinh tế không chính thức hoặc giúp việc nhà. Còn nam giới có xu hướng làm việc tại các trang
trại, khu công nghiệp, nhà máy. Nhóm dân số trẻ di cư đến các đô thị, khu công nghiệp, để lại làng
quê những người cao tuổi, phụ nữ và trẻ em. Nhiều gia đình nông thôn, gánh nặng công việc sản


xuất và chăm sóc, giáo dục con cái đè nặng lên đôi vai của người vợ, ông bà. Di cư nội địa cũng
làm biến đổi cấu trúc gia đình nông thôn, tạo nên nhiều “gia đình không đầy đủ” vì thiếu vắng vợ
hoặc chồng do họ đi làm ăn xa, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các chức
năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục con cái. Hiện tượng nam giới tuổi trung niên và
nam, nữ thanh niên “ly hương” đi tìm công ăn việc làm ở các đô thị, các khu công nghiệp trên
phạm vi cả nước dẫn đến thực trạng ở nông thôn có xu hướng nữ hóa nông nghiệp (chủ yếu phụ
nữ gánh vác công việc sản xuất nông nghiệp), lão hóa nông thôn (đa số những người trên trung
niên và cao tuổi mới ở lại quê) và phụ nữ hóa chủ hộ gia đình trên thực tế (vì nam giới là chủ
hộ trên danh nghĩa lại đi làm ăn xa). Xu hướng này sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ không chỉ đối với đời
sống gia đình (sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và
HIV/AIDS) mà còn cả với sự phát triển của thế hệ con em nông dân sống ở nông thôn hiện nay.
Đó là những thách thức đối với người nông dân nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng ở
các vùng nông thôn Việt Nam hiện nay.
2 - Một số trở ngại của nguồn nhân lực nữ trong nông
nghiệp, nông thôn
Về trình độ chuyên môn/kỹ thuật
Các kết quả điều tra cho thấy, trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn đã có những chuyển dịch cơ cấu theo hướng
tích cực nhưng chất lượng của lao động nông, lâm nghiệp và
thủy sản còn thấp, chưa được cải thiện nhiều trong 5 năm qua.
Theo Tổng cục Thống kê, mỗi năm, nước ta có hơn 1
triệu người tham gia lực lượng lao động, đa số lực lượng này là
cư dân nông thôn, không được đào tạo nghề cơ bản. Nguồn
nhân lực làm việc trong các lĩnh vực nông, lâm, thủy sản ở các
vùng nông thôn có trình độ và được đào tạo nghề có tỷ lệ rất
thấp. Cả nước có 81.300 công chức xã nhưng tỷ lệ được đào
tạo chuyên môn đại học chỉ chiếm 9%; 39,4% có trình độ trung cấp; 9,8% sơ cấp và 48,7% chưa
qua đào tạo. Như vậy, phần lớn lao động trong nông, lâm nghiệp và thủy sản là các lao động phổ
thông, giản đơn, lao động làm việc theo kinh nghiệm. Đây là nguyên nhân căn bản của việc năng
suất lao động trong nông, lâm, thủy sản ở nước ta còn rất thấp và là trở ngại lớn trong quá trình

đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Quá trình công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi người lao động không chỉ có trình độ
chuyên môn kỹ thuật mà còn phải có chuyên môn kỹ thuật bậc cao. Đây là thách thức lớn nhất đối
với phụ nữ trong ngành nông nghiệp, nông thôn hiện nay, khi trình độ học vấn của phụ nữ nông
thôn còn rất thấp: tốt nghiệp trung học phổ thông (8,02%), công nhân kỹ thuật (1,12%), trung học
chuyên nghiệp (1,78%), cao đẳng, đại học (1,39%) và trên đại học (0,02%). So với nam giới, có sự
khác biệt khá rõ về trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Có điểm đáng chú ý là, mặc dù phụ nữ đảm nhận đa phần các công việc liên quan đến sản
xuất nông nghiệp, nhưng họ lại ít có cơ hội tham gia các lớp tập huấn chuyển giao kiến thức khoa
Ở Việt Nam, phụ nữ nông thôn
là lực lượng to lớn và quan trọng
của quá trình công nghiệp hóa
nông nghiệp, nông thôn. Theo số
liệu từ Tổng điều tra dân số năm
2009, phụ nữ chiếm 50,5% số
người hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ này
là 60%). Trong tổng lực lượng
lao động nữ, có 68% là hoạt
động trong nông nghiệp, tỷ lệ
này đối với nam giới là 58%.
học kỹ thuật. Theo khảo sát, chỉ có khoảng 10% phụ nữ là các thành viên tham gia các khóa học
trồng trọt và 25% trong các khóa học về chăn nuôi. Hiện tượng “Nữ làm, nam học” này khá phổ
biến ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Về sức khỏe lao động nữ trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn
Kết quả một cuộc khảo sát gần đây của Cục An toàn lao động (Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội) cho thấy các bệnh nghề nghiệp, mãn tính do làm việc trong môi trường độc hại, nguy
hiểm của người lao động nông nghiệp ngày mỗi tăng. Có 30,3% nông dân mắc các bệnh nghề
nghiệp về da, gần 30% bị viêm nhiễm đường hô hấp, 10% bị đau đầu. Theo số liệu thống kê, cứ
100 ngàn lao động thì có 1.710 người bị ảnh hưởng sức khỏe do tiếp xúc với thuốc bảo vệ thực

vật Môi trường sản xuất nông nghiệp ô nhiễm không chỉ do sử dụng nhiều hóa chất, thuốc bảo
vệ thực vật mà còn tăng thêm bởi ô nhiễm do các khu chế xuất, khu công nghiệp, sân gôn đang
đua nhau mọc lên ở các vùng nông thôn.
Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2007 có gần 4 triệu tấn
phân bón các loại bị sử dụng lãng phí do cây trồng không hấp thụ được (chiếm 55% - 60%), cộng
với việc lạm dụng sử dụng tới 75.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật mà không tuân thủ các quy trình
kỹ thuật đã gây mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm nghiêm trọng đất, nguồn nước tại nhiều vùng
nông thôn. Cùng với trồng trọt, hằng năm, ngành chăn nuôi cũng “đóng góp” khoảng 73 triệu tấn
chất thải, trong đó chỉ có 30% - 60% chất thải được xử lý, còn lại xả thẳng ra môi trường. Ngay cả
mô hình chăn nuôi trang trại cũng chỉ có 10% trong tổng số 16.700 trang trại có hệ thống xử lý
chất thải. Ô nhiễm môi trường sản xuất nông nghiệp và nông thôn tác động xấu đến sức khỏe của
phụ nữ nhiều hơn nam giới, bởi phụ nữ là người đảm nhận chính các hoạt động sản xuất, trồng trọt
và chăn nuôi.
Tác động của công việc sản xuất nông nghiệp vất vả
trong môi trường ô nhiễm còn cộng thêm với vai trò làm vợ,
làm mẹ. Việc thực hiện chức năng sinh sản của phụ nữ cũng là
một gánh nặng khi mà nam giới còn ít tham gia và chia sẻ trách
nhiệm với phụ nữ trong kế hoạch hóa gia đình, khiến cho tỷ lệ
nạo, hút thai do có thai ngoài mong đợi của phụ nữ nông thôn
khá cao, bình quân tỷ lệ nạo, hút thai là 1/1 ca đẻ sống. Đó là
chưa kể, phụ nữ chưa có được quyền sinh sản khi mà họ bị sức
ép của chồng và gia đình chồng đẻ con trai. Tất cả những điều
này là những yếu tố tác động xấu đến sức khỏe thể chất, tinh
thần và tâm lý của phụ nữ nông thôn. Trong khi thực hiện
“thiên chức”, phụ nữ nông thôn không được hưởng các chế độ
thai sản như phụ nữ thuộc các lĩnh vực làm công ăn lương
khác, họ cũng không được hưởng các tiêu chuẩn về bảo hiểm
xã hội, y tế trong thời gian mang thai, sinh nở.
Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận quyền sở hữu ruộng đất
Mặc dù phong tục truyền thống của Việt Nam thừa nhận cả nam giới và phụ nữ đều được

thừa kế đất đai nhưng trên thực tế, ít phụ nữ được đứng tên giấy tờ sử dụng đất. Từ năm 1988
ruộng đất đã được cấp cho các hộ gia đình nông thôn nhưng đa số giấy tờ chứng nhận quyền sở
hữu ruộng đất đều do nam giới đứng tên. Luật Đất đai năm 2003 có quy định tất cả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mới phải bao gồm tên của cả hai vợ chồng.
3 - Một số giải pháp về chính sách đối với phụ nữ nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa
Một là, ưu tiên đào tạo nghề và việc làm cho phụ nữ
Khi đề cập đến tình hình thất nghiệp do ruộng đất bị thu hồi, trong Chỉ thị số 11/2006/CT-
TTg ngày 27-3-2006 của Thủ tướng Chính phủ về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao
động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã nhấn mạnh: “Tình trạng thất
nghiệp và thiếu việc làm hiện đang là vấn đề bức xúc ở nhiều vùng chuyển đổi đất”.
Quá trình biến động đất đai trong nông nghiệp không chỉ khiến cho nhiều nông dân, nhất là
phụ nữ thất nghiệp mà nó còn tác động đến thị trường lao động với những mức độ khác nhau. Với
mô hình phân công lao động theo giới hiện nay cộng thêm nam giới di cư đến các vùng đô thị, khu
công nghiệp để tìm kiếm việc làm, phụ nữ nông thôn đảm nhận “đa vai trò” nên có những bất lợi
hơn so với nam giới trong việc tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp. Nghị quyết số 26-NQ/TW Về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn được thông qua tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã xác
định “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình
Việc bảo đảm quyền lợi về
ruộng đất là vấn đề hết sức quan
trọng đối với phụ nữ ở nông
thôn, đặc biệt là phụ nữ làm
nông nghiệp. Điều này lại càng
đặc biệt quan trọng đối với phụ
nữ ở các vùng sâu, vùng xa,
hoặc phụ nữ là người dân tộc
thiểu số, họ ít có cơ hội tiếp cận
với các nguồn lực khác nên đất
đai có thể xem như là phương
tiện sinh kế duy nhất giúp họ

duy trì cuộc sống và thoát
nghèo.
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước”, đồng thời nhấn mạnh việc ưu tiên đào tạo nghề và việc
làm cho những gia đình mất ruộng “Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm
việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất”. Có cơ sở để thấy
rằng phụ nữ nông thôn cần được quan tâm đào tạo nghề hơn nam giới, ít nhất là ở mấy lý do: a)
phụ nữ là “nhân vật chính” vì họ đảm nhận hầu hết các công việc trồng trọt, chăn nuôi; b) ở các
vùng quê nam giới đi làm ăn xa, nếu có ở lại quê thì họ cũng dễ tìm kiếm việc làm và ít gặp rủi ro
hơn so với phụ nữ; c) phụ nữ không chỉ gắn với ruộng đồng mà còn gắn với làng xóm vì xu hướng
“nữ hóa nông thôn” đang diễn ra; và d) phụ nữ thường gặp trở ngại nhiều hơn nam giới trong cơ
hội tiếp cận giáo dục, đào tạo do vẫn còn quan niệm thiên vị giới ở mức độ khác nhau. Trong một
phân tích về thay đổi nghề nghiệp trong các khu vực nông thôn cho thấy nam giới thay đổi nghề
nghiệp nhiều gấp hơn 2 lần phụ nữ (31,6% và 13,2%). Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, xác suất đổi
nghề của lao động nam lớn hơn lao động nữ, nếu một phụ nữ có xác suất đổi nghề là 22% thì một
lao động nam tương đương có xác suất đổi nghề là 52%. Điều này càng cho thấy sự cần thiết ưu
tiên đào tạo nghề, chuyển giao kỹ thuật liên quan đến sản xuất nông nghiệp cho phụ nữ, vì nam
giới có tính linh hoạt hơn nữ trong quá trình nắm bắt các cơ hội mới khi chuyển đổi nghề nghiệp,
việc làm.
Các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới về chính sách lao động khuyến cáo rằng, mục tiêu
của các chính sách trong bộ luật lao động cần phải mang lại lợi ích cho người lao động, đặc biệt là
người nghèo, và tạo việc làm nhiều hơn, dù là chính thức hay không chính thức, cho những lao
động thiếu kỹ năng. Trong tập huấn, cần chú ý đến những khác biệt giữa nam và nữ trong tiếp cận
các dịch vụ khuyến nông, và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp và phi nông
nghiệp ở nông thôn. Có chính sách ưu tiên chuyển giao khoa học - kỹ thuật và đào tạo nghề cho
phụ nữ, nhất là phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, phụ nữ trong các hộ gia đình có ruộng đất thu hồi.
Chú ý đến những phẩm chất của phụ nữ thích hợp với các ngành nghề truyền thống, dịch vụ xã
hội Trong đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật cho phụ nữ nên tính đến đặc điểm phong tục, tập
quán, dân tộc và mức độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, miền. Chỉ khi chúng ta tính đến
những đặc điểm văn hóa - xã hội như vậy mới có thể xây dựng chương trình đào tạo nghề, tạo việc
làm phù hợp với điều kiện, năng lực và hoàn cảnh của phụ nữ, và đào tạo nghề mới có hiệu quả.

Hai là, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tiếp cận các nguồn lực
Không làm chủ được các nguồn lực (đất đai, tài sản, phương tiện sản xuất, ) thì phụ nữ sẽ
thuộc “nhóm yếu thế”, không thể tự chủ và khó phát huy được sức mạnh của vai trò nữ giới. Điều
này sẽ càng thêm bất lợi nếu như đời sống gia đình của người phụ nữ có vấn đề, gặp chuyện “cơm
không dẻo, canh chẳng ngọt” dẫn đến gia đình tan vỡ.
Chính vì lẽ đó, cần thúc đẩy việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai theo Luật
Đất đai 2003. Đứng tên trong giấy tờ sử dụng đất không chỉ cho phép phụ nữ tiếp cận dễ dàng hơn
với các nguồn vốn mà còn nâng cao sự an toàn cho chính họ trong trường hợp ly hôn hoặc thừa kế.
Với phụ nữ nông thôn, đất đai là một phương tiện bảo đảm an sinh xã hội đồng thời cũng là
phương tiện duy nhất để thoát nghèo. Nghiên cứu cũng cho thấy, so với nam giới thì phụ nữ nói
chung và phụ nữ nông thôn nói riêng thường ít có cơ hội trong việc tiếp cận vay vốn tín dụng. Vì
thế, cần tính đến những khác biệt giữa nam và nữ trong tiếp cận và sử dụng vốn vay tín dụng từ
ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để có chính sách, chế độ riêng đối với nam và nữ nông
dân trong triển khai chính sách tín dụng hiện nay.
Ba là, chăm lo sức khỏe và an sinh xã hội cho phụ nữ nông thôn
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói nghèo CPRGS- 5/2002 đã xác định một
trong số 18 nội dung về vấn đề thực hiện bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ là “Cải thiện sức
khỏe phụ nữ bằng việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe trong việc cung
cấp các dịch vụ y tế và kế hoạch hóa gia đình. Bảo đảm cho phụ nữ nghèo được tiếp cận các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe một cách thuận lợi. Nâng cao chất lượng các dịch vụ sau sinh đẻ”. Đây là tư
tưởng chỉ đạo rất đúng đắn, vì hiện nay phụ nữ nông thôn vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi trong việc
chăm sóc sức khỏe. Để có chính sách ưu đãi nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ nông
thôn, nên tập trung vào:
- Sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Khi thực hiện chức năng tái sinh sản, người phụ nữ nông
thôn hiện nay phải đối diện với những gánh nặng về dân số - kế hoạch hóa gia đình do quan niệm
của nam giới “khoán” việc đó cho nữ giới và nam giới thiếu sự tham gia, chia sẻ trách nhiệm trong
vấn đề này. Đồng thời, quan tâm đến chất lượng dân số hiện nay không thể coi nhẹ những nội
dung liên quan đến sức khỏe sinh sản, quyền sinh sản của người phụ nữ nông thôn.
- Cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt ở nông thôn. Hiện nay, ô nhiễm môi trường
sống ở nông thôn và môi trường sản xuất nông nghiệp đã và đang đến mức báo động. Do vậy, các

chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cần
chú trọng đến việc giữ gìn, bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn. Những “điển hình” công
nghiệp hủy hoại môi trường như Vedan, Miwon là những ví dụ về sự trả giá quá đắt cho đời sống
và môi trường của người dân nông thôn nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng./
(Theo Tạp chí Cộng sản ngày 20/10/2010)
Sửa đổi, bổ sung chính sách đối với nữ công nhân, lao động theo hướng bình đẳng giớiCập
nhật ngày: 08/03/2012
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-11-2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ đã xác
định Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH-HĐH, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
Thực hiện mục tiêu nam nữ bình quyền, các Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bình
đẳng giới, Luật Bảo hiểm xã hội… và nhiều chính sách của Nhà nước quy định quyền lợi, nghĩa
vụ cho lao động nữ và nhiệm vụ của các cấp, các ngành. Trong đó, nhiều chính sách ưu tiên đối
với nữ công nhân, lao động đã được ban hành và thực hiện tốt.
Tuy nhiên, trên thực tế một số chính sách đối với nữ công nhân, lao động chưa trở thành hiện thực.
Ví dụ: có doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng ngắn hạn để không phải đóng bảo hiểm cho công nhân.
Lao động nữ không chỉ bị thiệt thòi do doanh nghiệp không đóng bảo hiểm, mà còn dễ bi sa thải
khi mang thai; hoặc không được xét thưởng vì nghỉ thai sản. Các doanh nghiệp thường không hỗ
trợ tài chính cho lao động nữ đi học bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, không đào tạo nghề dự phòng
cho chị em theo quy định. Một số doanh nghiệp cho rằng những quy định ưu tiên, ưu đãi đối với
lao động nữ là gánh nặng tài chính của doanh nghiệp mình.
Mặc dù Bộ luật Lao động hiện hành quy định “Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối
với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ”, Nghị định 23/CP ngày 18/4/1996 của Chính
phủ cũng khẳng định doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được các chính sách ưu đãi như xét
giảm thuế; được giảm thuế lợi tức… nhưng trên thực tế, những chính sách này chưa đi vào cuộc
sống do các quy định quá phiền hà, phức tạp về thủ tục hành chính, số tiền giảm thuế không bù
đắp được chi phí thực hiện các quy định ưu đãi nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp.
Luật quy định không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ trong

thời gian mang thai hoặc nuôi con nhỏ. Thế nhưng, trong thực tế, nhiều lao động nữ khi vừa mang
thai, sắp đến ngày sinh hoặc hết thời gian nghỉ thai sản cùng lúc với việc hợp đồng hết hạn, đã bị
chủ doanh nghiệp cho nghỉ việc.
Quy định doanh nghiệp phải bố trí cho nữ công nhân nghỉ 30 phút, có phòng thay đồ cho nữ công
nhân trong thời gian kinh nguyệt, có phụ cấp nuôi con nhỏ, dạy nghề dự phòng cho lao động nữ
phòng khi thai sản hay thất nghiệp nhưng nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện.
Nhiệm vụ của các công đoàn cơ sở là thương lượng, đưa những điều khoản ưu đãi lao động nữ,
cao hơn quy định của luật, vào thỏa ước lao động tập thể, nhưng nội dung nhiều thỏa ước lao động
tập thể không khác mấy so với những quy định tại Bộ luật Lao động, nên nhiều thỏa ước lao động
tập thể chỉ mang tính hình thức và thường không được tuân thủ nghiêm túc.
Các văn bản pháp luật đều quy định rõ về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi dành cho người
lao động, trong đó có những quy định riêng đối với lao động nữ. Tuy nhiên, thực tế là số đông lao
động nữ, nhất là tại các khu công nghiêp, phải làm việc trong điều kiện, môi trường không đảm
bảo, nặng nhọc, nhiều người phải làm tăng ca 4-6 tiếng/ngày trong thời gian dài, ảnh hưởng đến
sức khỏe, thời gian chăm lo hạnh phúc gia đình, nhưng vì miếng cơm, manh áo trước mắt, đành
chấp nhận. Những ngành sử dụng nhiều LĐ nữ như dệt may, da giày, chế biến thủy hải sản do
chênh lệch giới tính, thường xuyên tăng ca, nên nhiều nữ công nhân đã không tìm được hạnh phúc
riêng tư.
Luật Bình đẳng giới ra đời và có hiệu lực từ năm 2006. Việc triển khai thực hiện các quy định của
Luật là trách nhiệm của toàn xã hội. Vì vậy, thời gian tới, cần tăng cường công tác quản lý nhà
nước về bình đẳng giới; đảm bảo lồng ghép giới trong hoạch định và thực hiện chính sách, kế
hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội; phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa
phương; phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, nhất là Công đoàn, Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ nữ trong việc thực hiện Luật Bình đẳng giới.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động - xã hội là bình đẳng về quyền, trách nhiệm, cơ hội, đối xử
và đánh giá đối với mỗi người không phân biệt giới tính của họ. Để đảm bảo nguyên tắc này, hệ
thống chính sách đối với lao động nữ cần được sửa đổi theo hướng lồng ghép nội dung bình đẳng
giới. Mọi quy định của pháp luật nên tính đến sự khác biệt đối với lao động nam và lao động nữ.
Cần xóa bỏ các quy định bất hợp lý, chồng chéo và gây cản trở lao động nữ tiếp cận các cơ hội tìm
kiếm việc làm; có các quy định nhằm bảo vệ chức năng sinh sản cho cả lao động nam và lao động

nữ trong quá trình lao động để bảo đảm có những thế hệ tương lai khỏe mạnh. Giảm và tiến tới
xóa các quy định ưu tiên mà không gắn liền với sức khỏe, với chức năng sinh sản của lao động nữ
vì các chính sách này nhiều khi làm hạn chế cơ hội có việc làm cho nữ công nhân, lao động.
Xây dựng các chính sách hỗ trợ, điều hòa trách nhiệm công việc gia đình và tham gia hoạt động
kinh tế tạo thu nhập, trao cho người cha cơ hội để chăm sóc gia đình và con cái, giảm bớt gánh
nặng công việc nhà cho phụ nữ, giảm bớt gánh nặng của lao động nữ (vừa phải làm việc để tăng
thu nhập, vừa phải đảm nhận phần lớn các công việc gia đình).
Quy định rõ ràng trách nhiệm của các bên khi thực hiện các chính sách và trợ cấp thai sản, nuôi
con nhỏ đối với lao động nữ; có chính sách, biện pháp ưu đãi cụ thể hơn, phù hợp hơn để khuyến
khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ: kết hợp biện pháp hỗ trợ về tài chính và chế độ
khen thưởng, xử phạt rõ ràng trong quá trình thực hiện chính sách.
Kết hợp giữa tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chính sách bình
đẳng giới và lao động nữ tại doanh nghiệp, xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm về bình
đẳng giới theo đúng quy định của Luật Bình đẳng giới. Quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính
sách cần bảo đảm nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới, lồng ghép các nội dung về giới vào quy
trình thực hiện chế độ, chính sách ở các cơ quan, doanh nghiệp.
Cần thành lập Quỹ hỗ trợ bình đẳng giới là quỹ phi lợi nhuận, triển khai các mục tiêu giảm khoảng
cách giới trong các lĩnh vực, hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ bù đắp một phần
những chi phí phát sinh khi thực hiện các chính sách bảo vệ chức năng sinh sản và nuôi con của
người lao động, Quỹ này do đóng góp từ ngân sách Nhà nước, đóng góp bắt buộc của tất cả các
doanh nghiệp, của người lao động, đóng góp tự nguyện của các tổ chức trong và ngoài nước vì
mục tiêu bình đẳng giới.
Nhà nước cần có chính sách nâng cao tay nghề, nhận thức pháp luật cho lao động nữ. Nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Lao động về lao động nữ như: Quy định đảm bảo bình
đẳng giới trong chính sách tuyển dụng lao động. Giám sát chặt chẽ, nâng cao mức xử phạt đối với
các trường hợp vi phạm, phân biệt đối xử về giới tính trong tuyển dụng lao động. Bổ sung thêm
các quy định bảo vệ sức khỏe sinh sản của cả lao động nam và nữ; Chính sách khuyến khích sử
dụng nhiều lao động nữ; Chính sách đào tạo nghề, giới hạn độ tuổi tham gia đào tạo của phụ nữ
ngang bằng với nam giới để đảm bảo quyền bình đẳng trong tham gia học tập, đào tạo và thăng
tiến trong nghề nghiệp của phụ nữ và nam giới.

Việc sửa đổi, bổ sung, hoạch định và thực hiện các chính sách đối với nữ công nhân, lao động có
vai trò quan trọng của các cấp Công đoàn. Nhiệm vụ của công đoàn cơ sở là tích cực tuyên truyền
chính sách, pháp luật; tham gia tổ chức, thực hiện và kịp thời phát hiện những bất cập của các
chính sách đối với công nhân, lao động, kiến nghị bổ sung, sửa đổi, nhất là những chính sách liên
quan trực tiếp đến nữ công nhân, lao động.
Lê Thanh Hà- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
Vấn đề nữ quyền và giáo dục
Trần Lê Bảo


1. Vai trò quan trọng của phụ nữ trong thời đại mới
Toàn cầu hóa cùng với khoa học công nghệ đang làm thay đổi nhanh chóng diện mạo của nhân
loại. Cùng với phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ trong thế kỉ XX, phong trào giải
phóng phụ nữ cũng diễn ra ngày càng rộng lớn và có chiều sâu.
Trong thực tế phong trào này đã được lịch sử ghi nhận. Qua những xung đột hoặc chiến tranh giải
phóng dân tộc, khi nam giới ra tiền tuyến chiến đấu thì phụ nữ có vai trò to lớn làm cho guồng
máy của toàn xã hội ở hậu phương vận hành suôn sẻ. Tuy nhiên ở nhiều nơi trên thế giới địa vị xã
hội của người phụ nữ vẫn ít được thay đổi và ít được pháp luật khẳng định. Mặc dù cuộc đấu tranh
cho quyền lợi phụ nữ là cuộc đấu tranh có tính xã hội nhưng để cho công bằng với phụ nữ, trước
hết sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải là sự nghiệp do phụ nữ thực hiện, cho dù có không ít nam
giới đã đóng góp quan trọng cho sự nghiệp này.
Tuy nhiên từ khi có xã hội phân chia giai cấp cũng là bắt đầu sự thất thế của người phụ nữ. Khát
vọng giải phóng của phụ nữ có từ ngàn đời nay, nhưng diễn ra thầm lặng và sự nghiệp giải phóng
phụ nữ cũng vì vậy mà còn diễn ra lâu dài. Mặc dù đây đó trên thế giới ở những nước văn minh,
vài khu vực tiến bộ có những nhân vật nữ lên nắm quyền, có những nơi công nhận phụ nữ là một
chủ thể xã hội thì phần lớn “thời gian sống” phụ nữ vẫn là “đối tượng cần được giải phóng”, chưa
nói gì tới việc họ được hưởng đầy đủ quyền tự do và bình đẳng thật sự.
Tại những nước nghèo và những nước mới phát triển thì sự nghiệp giải phóng phụ nữ còn khó
khăn hơn vì nghèo đói và thiếu hiểu biết không chỉ kìm hãm toàn xã hội mà đối với phụ nữ địa vị
và thân phận của họ còn bị chìm đắm hơn trong tăm tối. Ngay cả những nước phát triển dù có

phong trào nữ quyền thì cũng không có gì đảm bảo cho phong trào này thắng lợi khi có những
người còn mang nặng tư tưởng thù địch với bình đẳng nam nữ, luôn tìm mọi lí do để cản trở e sợ
phong trào này đi quá xa. Tệ hại hơn có những nơi do cuồng tín hoặc phong tục lạc hậu còn giết cả
các em gái từ trong bào thai hoặc khi đến trường để tìm tri thức…
Vấn đề giải phóng phụ nữ trong mấy thập niên qua đã đạt được những thành tựu không ai có thể
phủ nhận được, song điều này cũng chưa đáp ứng được nguyện vọng cháy bỏng của nửa dân số
trên hành tinh này. Chính Chương trình phát triển của LHQ (UNDP) đã khẳng định: “trong mọi sự
bất bình đẳng về phát triển, thì bất bình đẳng giữa nam và nữ là một trong những điều đặc thù
nhất và đã bộc lộ ở tất cả các nước, ngay cả những nước tiên tiến nhất và tự hào về những thành
tích của mình trong lĩnh vực này, người phụ nữ không thực sự được hưởng những cơ hội tương tự
như nam giới trong bất cứ một dân tộc, một quốc gia nào” (tr97-98).
Điều này cho thấy việc đấu tranh chống bất bình đẳng giới không chỉ phụ thuộc vào sự tăng
trưởng kinh tế, mà là một vấn đề phức tạp trước hết cần dựa vào nhận thức và ý chí chính trị của
người dân mỗi nước, rằng điều này sẽ làm tăng vận hội phát triển của mỗi quốc gia. Đấy là chưa
nói tới một luận điểm ngợi ca vai trò cội nguồn sáng tạo quan trọng của người mẹ người phụ nữ
thường được dẫn ra: “không có người mẹ thì anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu?”
2. Thực trạng của bất bình đẳng giới, nghèo khổ và bạo lực
Mặc dù nhân loại có đạt được những thành tựu khả quan về tiến bộ phụ nữ, song những thành tựu
này còn cách xa khái niệm thật sự bình đẳng nam nữ về quyền sống con người mà ngàn năm nay
luôn là khát vọng của phụ nữ.
a. Về giáo dục, trong 20 năm qua cho dù khoảng cách giữa nam và nữ có giảm đi một nửa, song
những bất bình đẳng vẫn tồn tại dai dẳng như một thách thức nhân loại trong 880 triệu người mù
chữ trên thế giới có gần 2/3 là phụ nữ; trong số 130 triệu trẻ em không được đến trường tiểu học
có 60% là em gái. Phần lớn phụ nữ và em gái này sống ở nông thôn. Trong chương trình giáo dục
cũng như sách giáo khoa ở nhiều nước vẫn còn những quan niệm thành kiến với phụ nữ (chẳng
hạn phụ nữ chỉ nên học một số ngành khoa học xã hội, ít học khoa học tự nhiên), không đề cập đến
những thành tựu của phụ nữ hay những vấn đề đặt ra hàng ngày đối với phụ nữ (chẳng hạn giải
phóng các em, đặc biệt các em gái khỏi những công việc kiếm sống, để tập trung vào học tập cũng
quan trọng như các chiến lược giáo dục khác)
Bước vào thế kỉ XXI, cộng đồng quốc tế trong đó UNESCO đã thức nhận vấn đề giáo dục có tầm

quan trọng đặc biệt cho sự phát triển bền vững và UNESCO có cả chương trình hành động; “Thập
kỉ giáo dục vì sự phát triển bền vững” (2005-2014). Trong đó việc ưu tiên cho giáo dục phụ nữ và
phát triển giáo dục phụ nữ sẽ góp phần quyết định sự phát triển. Điều này được minh chứng bởi
các số liệu của Ngân hàng Thế giới về Kênya nâng trình độ học vấn của phụ nữ ngang với nam
giới đã làm tăng sản lượng lương thực từ 9% lên 22%. Những nước có thời kì được coi là “con
rồng”, “con hổ” của Đông Á đều có tỷ lệ đầu tư cho giáo dục trong đó có giáo dục phụ nữ trên
20% GDP.
b. Nhu cầu của nam và nữ giới về y tế cũng như về dinh dưỡng tưởng như bằng nhau nhưng thực
chất phụ nữ vẫn được chăm sóc ít hơn, điều này càng đúng ở thế giới thứ ba. Theo số liệu của
LHQ hàng năm có hàng triệu phụ nữ bị tàn tật sau những lần phá thai, có 10 vạn phụ nữ chết vì
phá thai, có 60 vạn phụ nữ tử vong do biến chứng của việc mang thai hoặc sinh đẻ… Chưa kể phụ
nữ dễ mắc bệnh lây nhiễm nhiều hơn nam giới tới một lần rưỡi.
c. Nghèo khổ là một trong những vấn đề tác động mạnh mẽ đến phụ nữ. Thậm chí người ta còn
cho rằng “nghèo khổ mang gương mặt phụ nữ - thầm lặng”. 70% trong số 1,3 tỷ người nghèo trên
thế giới là phụ nữ. Nghèo khổ thường đi đôi với phân biệt đối xử và cũng là nguyên nhân dẫn đến
hàng triệu cái chết cho phụ nữ và em gái trên hành tinh này. Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ
của phụ nữ cũng thật đa dạng và phức tạp, từ địa vị xã hội, phong tục tập quán, phương thức sống
cho đến các thể chế chính sách, các thị trường…
Ngay cả những nước phát triển, cơ hội bình đẳng về giáo dục nam nữ là như nhau, song sự đe dọa
về nghèo với phụ nữ vẫn nhiều hơn bởi lẽ phụ nữ thường chịu trách nhiệm về gánh nặng gia đình
và luôn bị phân biệt đối xử trong thị trường lao động. Ngay cả quyền bình đẳng của phụ nữ ở
những nước này cũng chưa được xã hội công nhận, cho dù trình độ học vấn của họ có ngang nam
giới song lương cũng không cao hơn nam giới và quyền lãnh đạo cũng ít có cơ hội hơn nam giới.
Mặc đây đó có những phụ nữ nắm quyền điều hành đất nước ở những vị trí nhất định, thì con số
này có thể tính trên đầu ngón tay.
d. Vấn đề bạo lực với phụ nữ
Mặc dù quyền con người vốn được hiểu là bình đẳng cho cả nam và nữ, nhưng thực chất nhiều
nơi vẫn chưa chấp nhận quyền này. Chính điều này đã dẫn sự coi thường địa vị xã hội của phụ nữ,
cao hơn là nạn bạo lực, đàn áp về thể chất và tinh thần đối với phụ nữ diễn ra khắp nơi và suốt
cuộc đời người phụ nữ. Ngay từ lúc còn là bào thai người ta đã có tư tưởng trọng nam khinh nữ,

sẵn sàng loại bỏ thai nhi nữ, cho tới khi ra đời các bé gái đã chứng kiến bạo lực gia đình luôn diễn
ra từ xưa. Ngay cả những nước văn minh vấn đề bạo lực đối với phụ nữ cũng vẫn tồn tại: Mỹ và
Đức hàng năm có 4 triệu phụ nữ bị bạo hành, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc có từ 20% đến 60%
phụ nữ bị chồng đối xử thô bạo… Chính những bạo hành đối với phụ nữ trên đã gây ra nhiều cái
chết đau thương (phần lớn là tự tử) cho phụ nữ. Đấy là chưa kể tới hàng năm có tới 100 triệu thiếu
nữ bị cưỡng bức hoặc lạm dụng tình dục. Rõ ràng bạo lực đối với phụ nữ là hành vi không thể
chấp nhận được. Nó vi phạm các quyền cơ bản của con người và tự do cơ bản của phụ nữ, ngăn
cản họ không cho thực hiện quyền tự do đó. Điều này cho thấy chỉ có pháp luật là chưa đủ để thay
đổi bức tranh đen tối của bạo lực. Quan trọng hơn là thay đổi về nhận thức và xây dựng một môi
trường văn hóa nhân văn để điều hòa xung đột hai giới dẫn đến sự tôn trọng và đối thoại chân
chính với nhau thông qua giáo dục.
3. Những thành tựu trong đấu tranh bình đẳng giới
Trong hai thập niên trở lại đây, bình đẳng giới đã đạt được những thành tựu trên quy mô toàn cầu
về những mặt cụ thể như: giáo dục, sức khỏe sinh sản và quyền lực của phụ nữ…
a. Về giáo dục, từ năm 1970-1990 tỷ lệ trẻ em gái và phụ nữ so với em trai và nam giới đều có sự
tiến bộ rõ rệt. Tỷ lệ xóa mù chữ tăng từ 54% lên 74%. Bậc giáo dục tiểu học tỷ lệ nữ sinh tăng
1,7% so với nam 1,2%; bậc đại học tỷ lệ nữ sinh viên so với nam còn đáng khích lệ hơn tăng từ
50% lên 70%. Chính trong điều kiện này, cộng đồng quốc tế đã thức nhận coi giáo dục là lĩnh vực
đầu tư tốt nhất, trong đó đặc biệt là giáo dục phụ nữ.
b. Về y tế, tuổi thọ của phụ nữ tăng 20% so với nam giới. Tỷ lệ sinh đẻ giảm từ 4,7con/1 mẹ (từ
1970-1975) xuống 3 con (từ 1990-1995). Điều này không chỉ góp phần tăng cường sức khỏe, giảm
nguy cơ tử vong khi sinh đẻ hoặc mang thai cho phụ nữ mà còn tăng cường tự do và sự lựa chọn
cho phụ nữ trong việc tham gia công tác xã hội và phát triển kinh tế.
c. Về mặt sinh đẻ, những Hội nghị của LHQ về Dân số và Phát triển (Cairo 1994) và Phụ nữ (Bắc
Kinh 1995) đều đã khẳng định “công nhận quyền cơ bản của các cặp vợ chồng và mọi người được
tự do quyết định một cách có trách nhiệm số con của mình và khoảng cách giữa các lần sinh đẻ và
được thông báo các biện pháp để thực hiện điều đó…” (Chương trình hành động Bắc Kinh, Điều
95). Rõ ràng sự công nhận này là quan trọng. Điều này cho thấy tự do và trách nhiệm luôn gắn bó
mật thiết. Thêm nữa trách nhiệm ở đây vừa do cá nhân và tập thể cùng cam kết thực hiện. Tập thể
xã hội và gia đình phải huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ, trẻ em trong

các lĩnh vực giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội.
d. Về mặt quyền lực, mặc dù được mở ra đối với phụ nữ song còn chậm. Việc phụ nữ tham gia
chính quyền không còn là điều hiếm ở một số nước trên thế giới. Số lượng nữ bộ trưởng tăng gấp
đôi trong 10 năm qua. Số lượng nghị sĩ nữ cũng tăng lên đáng kể (Thụy Điển, Na Uy là 40%,)
chưa kể Tổng thống nữ. Nhiều nhà khoa học cũng đã có lí, dự báo thế kỉ XXI là thế kỉ của phụ nữ
khi càng có nhiều phong trào do phụ nữ lãnh đạo có hiệu quả.
4. Bất bình đẳng giới thông qua so sánh
Giới nhằm nói đến vai trò cũng như quyền lực khác nhau trong xã hội của nam giới và nữ giới.
Quan hệ giới có ảnh hưởng đến hình thái tổ chức cộng đồng, gia đình và thể chế xã hội; nó cũng
ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định và việc sử dụng tài nguyên môi trường. Chính vì vậy, để
hiểu được yếu tố giới tác động đến môi trường như thế nào, chúng ta cần tìm hiểu vai trò trách
nhiệm của nam giới và nữ giới với cách tiếp cận và kiểm soát tài nguyên, những hiểu biết của họ
và quyền quyết định sử dụng tài nguyên…
a.Từ góc độ môi trườngsuy thoái đối với giới.
Nam giới hay nữ giới không chỉ khác nhau về cách họ sử dụng và quản lý tài nguyên và môi
trường mà họ còn bị ảnh hưởng của suy thoái tài nguyên thiên nhiên dưới nhiều hình thức khác
nhau. Suy thoái rừng, thiếu nước, ô nhiễm sông ngòi, nguồn nước, suy thoái đất, việc tiếp xúc với
các hóa chất nông nghiệp và công nghiệp, các chất ô nhiễm hữu cơ… ảnh hưởng đến phụ nữ và
nam giới theo các hình thức, cũng như mức độ không hề giống nhau.
Điều này là do ba nguyên nhân: kinh tế, sinh học và giới tính. Để phát triển kinh tế, chống lại đói
nghèo, để có một nền kinh tế thị trường với lợi nhuận khổng lồ, người ta bất chấp cả sự an toàn
của môi trường. Các tác động của sự suy thoái môi trường thường bị đẩy xuống dưới mục tiêu
kinh tế.
b. Từ bất bình đẳng xã hội, thậm chí chạy theo mối lợi của một tập đoàn, một nhà máy người ta
còn dùng mọi thủ đoạn phá hoại làm ô nhiễm môi trường, đẩy những người nghèo trong đó có
nhiều phụ nữ không có đủ điều kiện để tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền sống của mình trước sự
xuống cấp của môi trường. Đặc biệt là phụ nữ khắp nơi trên thế giới thường bị rơi vào những hoàn
cảnh trên, họ ở những nấc thang dưới đáy của kinh tế xã hội.
c. Từ góc độ sinh lí có những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ, bao gồm các sự khác biệt
quan trọng trong cấu trúc hormon, khiến cho nam và nữ có sự nhạy cảm khác nhau đối với hiện

tượng phơi nhiễm chất độc và các chất ô nhiễm khác có từ môi trường. Chẳng hạn căn bệnh ung
thư vú trong nữ giới ở trên thế giới ngày càng tăng cao là do sự phơi nhiễm các chất thải công
nghiệp, nhất là các chất clo hữu cơ tổng hợp, có mặt khắp nơi trong các nước công nghiệp hóa.
d. Từ góc độ dinh dưỡng, suy thoái môi trường còn gây nên sự suy giảm về chế độ dinh dưỡng
trong gia đình. Ở những nơi thiếu củi đun, thiếu nước ăn, hoặc những nơi đất bị suy thoái do trồng
trọt chăn nuôi quá mức, hay bị xói lở, sa mạc hóa, thì cả nam giới và nữ giới đều phải thay đổi thói
quen ăn uống trong gia đình. Việc thiếu củi đun buộc các gia đình phải chuyển sang ăn các loại
thức ăn kém dinh dưỡng, có thể ăn sống hoặc nấu tái; thức ăn nấu tái dễ bị ngộ độc, hay ăn các
thức ăn thừa trong điều kiện không có gì bảo quản dễ bị ôi thiu. Mặc dù những thay đổi về dinh
dưỡng ảnh hưởng đến cả gia đình nhưng ở mức độ nào đó, theo cả phong tục, phụ nữ và các em
gái thường được ăn ít nhất và ăn sau cùng thì họ lại là người phải chịu nhiều ảnh hưởng nhất. Đấy
là chưa nói tới phụ nữ và trẻ em còn có nguy cơ tiếp xúc cao với các chất ô nhiễm trong ngôi nhà
của mình, trong khi nam giới đi làm ở bên ngoài. Những chất ô nhiễm trong nhà thường là bồ
hóng được tạo nên do lâu ngày dùng củi đun nấu hoặc sưởi ấm, do đốt than rơm rạ… Việc tiếp xúc
ở mức độ cao và lâu dài với khói trong khi làm việc nhà cũng liên quan trực tiếp đến sức khỏe
cũng như thai sản của phụ nữ như sinh ra trẻ thiếu tháng, nhẹ cân hoặc tử vong sau khi sinh…
e. Từ góc độ sinh sản, suy thoái môi trường còn làm tăng nguy cơ đối với vấn đề sinh sản. Nam
giới khi tiếp xúc nhiều với thuốc trừ sâu, trong chiến tranh một số người bị nhiễm chất độc da cam
họ có thể bị ung thư tinh hoàn không sinh được con, hoặc có sinh được con thì cũng bị dị tật; còn
phụ nữ tiếp xúc nhiều với các chất độc hại trong sản xuất nông nghiệp như thuốc trừ sâu họ cũng
có nguy cơ đẻ non, con chết yểu hoặc mắc bệnh nan y.
g.Xét về vai trò và trách nhiệm đối với gia đình của giới
Nhìn chung ở các nước trên thế giới, do sự phân công lao động lâu nay, nam giới thường giữ vai
trò lớn hơn phụ nữ trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ các mục đính sản xuất hay
thương mại như chặt đốn cây rừng, chăn thả gia súc, đào than, lấy các sản phẩm từ rừng.
Mặt khác cả phụ nữ và nam giới đều tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh tế như cày cấy, thu
hái… bên cạnh đó người phụ nữ còn phải làm nhiều công việc khác theo chức năng giới. Trong đó
trách nhiệm hàng đầu của họ là lo cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của một gia đình như tìm kiếm
chuẩn bị thức ăn, lấy nước, chăm sóc con cái và chăm lo sức khỏe cho cả gia đình. Chỉ riêng điều
này cũng có thể thấy trách nhiệm của nam giới đối với công việc gia đình là còn hạn chế. Từ đó có

thể thấy, do phải gánh thêm phần trách nhiệm đối với công việc gia đình mà người phụ nữ thường
có nguy cơ bị phơi nhiễm sớm hơn và lâu hơn nam giới, đối với các chất ô nhiễm sinh ra từ nước,
các chất ô nhiễm trong quá trình làm thức ăn, các chất ô nhiễm trong sinh hoạt gia đình, bao gồm
cả ô nhiễm không khí trong nhà.
Như vậy nếu xét về tiêu chí thời gian sử dụng trong ngày thì nữ giới phải làm cả công việc trong
gia đình và ngoài gia đình còn nam giới chủ yếu là làm công việc ngoài gia đình. Điều này rất điển
hình ở các nước nghèo và đang phát triển. Nam giới thường phải lên các thành phố tìm việc làm để
kiếm tiền nuôi gia đình, để lại một gánh nặng gia đình cho người phụ nữ ở nông thôn phải gánh
vác. Việc những người nam giới lên thành phố kiếm sống không chỉ ảnh hưởng đến vai trò giới mà
còn ảnh hưởng đến cả môi trường. Chẳng hạn ở Ghana vì thiếu sức lao động của đàn ông để đốn
cây bụi, làm cỏ… đã làm cho chu trình quay vòng cây trồng bị kéo dài, vì vậy mà thời gian tái
phục hồi độ màu mỡ của đất bị ít đi, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến sản lượng cây trồng và đất nhanh
thoái hóa bạc mầu.
h.Về kiến thức cuộc sống
Nhìn chung nhất, cả nam giới và nữ giới đều có những kiến thức nhất định về bảo vệ và quản lý
môi trường, tài nguyên, nhưng họ có thể biết nhiều hay ít về các giống loài cây, con trong tự nhiên
và cách thức ứng xử với môi trường khác nhau là tùy thuộc vào các điều kiện sống của họ. Tuy
nhiên kiến thức môi trường nhìn từ góc độ giới lại rất khác nhau và phức tạp tùy thuộc vào dân
tộc, độ tuổi, vị thế xã hội. Một ông trưởng bản thuộc nhóm bản địa, có những kinh nghiệm và cách
sử dụng tài nguyên rừng khác với một thanh niên sống ngoài cộng đồng ấy. Với phụ nữ cũng vậy,
nhu cầu vào rừng để hái lượm tìm thức ăn và củi đốt nhiều hơn chặt phá cây rừng để làm nhà đốt
nương. Nắm được sự quan tâm khác nhau về kiến thức môi trường giữa nam giới và nữ giới trong
điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, sẽ giúp các nhà quản lý môi trường xác định các hoạt động can
thiệp vào môi trường sao cho hợp lý và bền vững.
i.Vấn đề quyền lợi tiếp cận và kiểm soát tài nguyên
Quyền sở hữu và kiểm soát tài nguyên của cả nam giới và nữ giới đều lệ thuộc vào điều kiện kinh
tế, xã hội, thể chế và pháp luật. 70% người nghèo trên hành tinh này sống phụ thuộc vào đất, nước
và rừng. Họ khai thác tài nguyên thiên nhiên để làm củi đun tạo ra năng lượng, gỗ để làm nhà ở,
cùng các loài động thực vật khác nhau để làm thức ăn. Mặc dù sống phụ thuộc vào môi trường
thiên nhiên rất lớn, song hầu hết những người nghèo đều thiếu quyền tiếp cận và không có quyền

kiểm soát các tài nguyên này.
Vị thế xã hội của người phụ nữ, đặc biệt trong những nước nghèo và đang phát triển đã hạn chế
quyền lợi của những người nghèo đối với việc tiếp cận độc lập và kiểm soát tài nguyên đất. Nhiều
nước trên thế giới còn bảo lưu những luật tục hạn chế vị thế xã hội và quyền lợi của người phụ nữ.
Thường quyền lợi của người phụ nữ đối với đất đai thời phong kiến trước kia ở các nước phương
Đông, đều không được quan tâm, thậm chí mất đi khi người phụ nữ ly dị hoặc góa bụa. Ngay cả
những nước có pháp luật đảm bảo quyền lợi bình đẳng của cả nam và nữ về đất đai như nhau, thì
phụ nữ vẫn có thể không nhận thức ra quyền lợi của họ hoặc do phong tục tập quán họ có thể bỏ
qua quyền sở hữu thực tế được pháp luật thừa nhận này.
Chế độ sở hữu đất đai lâu đời chỉ quan tâm đến nam giới mà không quan tâm đến nữ giới đã cổ vũ
cho chế độ gia trưởng ra đời đặc biệt ở các nước phương Đông đã ăn vào tiềm thức con người.
Chính chế độ sở hữu đất đai này đã ảnh hưởng đến các hình thái sử dụng tài nguyên thiên nhiên
khác nhau theo các nhóm. Người ta thường thấy phụ nữ, người nghèo và các nhóm bị cách ly khỏi
nhịp điệu phát triển của xã hội thường có xu hướng đầu tư thời gian, tiền của và cả việc áp dụng
những phương thức canh tác giúp cho bền vững môi trường ngay trên mảnh đất mà họ không có
quyền sở hữu (chẳng hạn nông dân Hưng Yên không đủ đất canh tác đi thuê đất bãi ở Thanh Trì
Hà Nội để trồng rau và cây thuốc)
k.Sự tham gia của cộng đồng vào việc ra quyết định
Việc tham gia của cộng đồng vào quản lý môi trường ngày càng được xem như là một thành tố
quan trọng của các chính sách môi trường của các quốc gia cũng như trên toàn hành tinh. Thực tế
là việc tham gia của phụ nữ vào việc lập kế hoạch xây dựng và bảo vệ môi trường, thực hiện các
chính sách về môi trường vẫn còn rất thấp ở mọi cấp, từ địa phương đến các cấp cao hơn – nơi
quyết định các chính sách về môi trường quốc gia và quốc tế.
Sự tham gia hạn chế của giới nữ đối với việc ra quyết định về các chính sách môi trường cũng có
nghĩa là nhu cầu, kiến thức, và viễn cảnh về quyền lợi của người phụ nữ đối với môi trường bị coi
nhẹ và các giải pháp họ đưa ra thường bị lờ đi. Nhưng người phụ nữ vẫn phải sống, phải lo cho sự
sống của gia đình, nên họ vẫn phải dựa vào thiên nhiên, tác động vào môi trường. Vì vậy những
hoạt động, hành vi bảo đảm sự tồn tại của họ và gia đình dễ trở thành bất hợp pháp, trong khi các
chính sách lại không làm thay đổi hành vi của họ được.
5. Giáo dục như là một phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục bình đẳng giới và giải

phóng phụ nữ
Giải phóng phụ nữ là một sự nghiệp lớn lao và lâu dài của toàn xã hội. Vì vậy nó là kết quả tổng
thể của nhiều yếu tố mới có thể thành công được. Trong thời đại ngày nay nhân loại không thể bỏ
qua 50% tiềm lực sáng tạo của mình. Vì vậy cần giúp cho phụ nữ những phương tiện hành động
không chỉ về kinh tế mà ở các lĩnh vực khác của đời sống trí tuệ và khoa học, nơi mà lâu nay tài
năng và tầm nhìn của họ luôn bị che khuất hoặc không được công nhận. Để đảm bảo thành công
cho chiến lược phát triển, trước hết cần đầu tư vào giáo dục và y tế cho phụ nữ, đồng thời đảm bảo
sự tham gia của họ về mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
a. Phổ cập giáo dục và giáo dục suốt đời là một mục tiêu quan trọng của UNESCO đối với mọi
người và đặc biệt đối với phụ nữ
Phổ cập giáo dục trên thực tế là làm cho các em gái bình đẳng với các em trai ở độ tuổi tới trường
và giúp cho phụ nữ có những kiến thức khoa học tiến bộ nhờ tiếp cận với giáo dục thường xuyên
hoặc từ xa. Mặt khác phải mở rộng giáo dục phụ nữ cho tất cả phụ nữ trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ
nhiều phụ nữ do nhiều nguyên nhân khác nhau đã bị loại khỏi nền giáo dục đáng ra họ cần được
thụ hưởng trong giai đoạn còn lại của cuộc đời. Đặc biệt những tiến bộ của khoa học giáo dục
người lớn hết sức cần thiết cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Điều này không chỉ tạo ra sự cải
thiện điều kiện sống, nâng cao chất lượng sống cho phụ nữ mà còn có những hiệu quả thiết thực về
nhận thức và hiệu quả thu nhập cho bản thân phụ nữ và cả gia đình họ, thậm chí cả một cộng đồng.
Bên cạnh đó giáo dục cho người lớn còn góp phần khôi phục phẩm giá của người phụ nữ.
Chính vì vậy cần việc đảm bảo giáo dục suốt đời có tác dụng quan trọng trong quá trình bình đẳng
giới. Giáo dục đã đem lại hiểu biết và kiến thức về xã hội và tự nhiên giúp người phụ nữ có thể tự
chủ về kinh tế, lựa chọn tự do cách thức sống, ý thức được tự do và trách nhiệm trong việc sinh
sản cũng như lựa chọn cho tương lai, trực tiếp để họ sống tốt hơn và ứng xử tốt hơn với nhau đặc
biệt là giữa hai giới vốn đã bất bình đẳng.
b. Về nội dung giáo dục
Trước khi có được những nội dung giáo dục thích hợp cho phụ nữ, cũng cần nhắc tới bốn cột trụ
của giáo dục đó là: học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để cùng chung sống. Chỉ cần vận
dụng tốt bốn trụ cột này, cho mọi nội dung giáo dục trong cả quá trình giáo dục đều có thể đạt chất
lượng khả quan, tất nhiên cũng tốt cho công tác giáo dục phụ nữ nhằm nâng cao địa vị và cơ hội
phát triển của họ.

Cần tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ trong đó có các em gái được tiếp cận những kiến thức cơ
bản, đặc biệt là giáo dục công dân và giáo dục khoa học kĩ thuật để họ có thể ngang hàng với nam
giới trong vấn đề hiện đại hóa và việc thể hiện khả năng và trách nhiệm.
Giáo dục công dân cần thiết đối với mọi người dân, đặc biệt càng cần thiết đối với phụ nữ vốn lâu
nay bị vị thế xã hội thấp mà nhiều quyền lợi cũng chưa được pháp luật công nhận. Điều này không
chỉ đem lại những hiểu biết về quyền con người đối với người phụ nữ để họ thay đổi từ tư duy đến
nhận thức và lựa chọn quyết định hành động trong quá trình ứng xử với xã hội và tự nhiên. Từ
những hiểu biết về quyền con người, người phụ nữ chẳng những tin tưởng ở tiềm năng của mình,
tiến tới đòi hỏi những quyền sống chính đáng cho mình và cho mọi người, đấu tranh với hủ tục,
những áp bức bất công đối với phụ nữ nhằm cải thiện điều kiện sống và sự công bằng đối với phụ
nữ.
Một nội dung giáo dục đối với phụ nữ có hiệu quả là “giáo dục và tìm hiểu về pháp luật” để phụ
nữ có ý thức về quyền thực sự của mình và những điều luật bảo vệ họ. Điều này không chỉ tăng
thêm niềm tin đối với cuộc sống mà trực tiếp phát huy sức mạnh của phụ nữ trong xã hội.
Một nội dung giáo dục quan trọng nữa nhằm thay thế thói bạo lực đối với phụ nữ bằng văn hóa
hòa bình. Thực tế trong cuộc sống ngàn năm nay của nhân loại, phụ nữ thường cố gắng bảo tồn
những gì còn lại của cấu trúc xã hội và gia đình mình, còn nam giới thích bạo lực và giết chóc. Vì
vậy UNESCO thông qua các chương trình giáo dục nhằm tăng cường vai trò vị trí người phụ nữ
bằng cách giáo dục những giá trị văn hóa đề cao lòng bao dung, đoàn kết và tình thương đối với
mọi người trong cộng đồng; đem lại sự bình đẳng cho phụ nữ, chống lại mọi bạo hành và lạm
dụng của nam giới đối với phụ nữ và các em gái.
Một yếu tố rất quan trọng đối với nội dung giáo dục và quá trình giáo dục là vai trò to lớn của phụ
nữ trong công tác giáo dục. Có thể nói phụ nữ là nhà giáo dục đầu tiên và nhiều phụ nữ tham gia
và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy họ cần được tham gia trực tiếp
vào mọi sự cải tổ của hệ thống giáo dục cũng như chương trình và nội dung giáo dục, để có thể
phát huy cao độ nguồn nhân lực to lớn và lâu dài của một quốc gia.
c. Về chính sách xã hội như một hệ quả của giáo dục
Để có được bình đẳng giới, tạo điều kiện để nâng cao vị thế và cơ hội của phụ nữ không chỉ là
những hình thức giáo dục và nội dung giáo dục trực tiếp mà điều này cần thấm sâu vào nhận thức
của mọi người thông qua giáo dục và được thể chế hóa thành các chế độ chính sách xã hội.

Theo UNESCO thành công trong lĩnh vực giáo dục của một số nước chính là sự điều chỉnh ngân
sách nhà nước ưu tiên cho giáo dục. Điều này không chỉ làm tăng tổng sản phẩm quốc dân mà còn
làm giảm mức độ gia tăng dân số, nâng cao trình độ dân trí.
Một thực tế là phụ nữ luôn phải đương đầu với mọi thách thức của xã hội, nếu không có sự can
thiệp của chính quyền chắc chắn sự tiến bộ của phụ nữ khó có thể thực hiện được. Ngoài những
quan niệm lạc hậu, kì thị phụ nữ vốn có từ ngàn đời là những cơ chế của thị trường, sức ép trong
lĩnh vực tư nhân và bất cập trong lĩnh vực công, chưa kể đói nghèo bệnh tật luôn đeo đẳng… đã là
cái “vòng kim cô” làm cho phụ nữ khó vượt qua được nếu như không có cải cách cơ cấu cùng
những biện pháp hỗ trợ tích cực của chính quyền nhằm đảm bảo cho sự bình đẳng về giới.
Làm cho phụ nữ có thể tiếp cận bình đẳng về y tế và dinh dưỡng, về các dịch vụ sức khỏe sinh sản,
về giáo dục và đào tạo nghề; tiếp cận bình đẳng về chế độ tài chính tiến tới bình đẳng về kinh tế.
Đảm bảo phụ nữ được bình đẳng về quyền công dân và dân sự, cụ thể là quyền sở hữu và thừa kế
tài sản.
Tăng cường khuyến khích phụ nữ cũng như nam giới trong khả năng tự do lựa chọn về lao động,
đặc biệt cần có chương trình ưu tiên thực hiện phổ cập giáo dục suốt đời cho phụ nữ, đồng thời
bảo đảm sức khỏe cho phụ nữ nhất là thời kì thai sản. Bên cạnh đó là tạo điều kiện cho vay tín
dụng để phát triển kinh tế đó là những chính sách có tính tổng hợp có thể tăng cường quyền lợi và
cơ hội đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Tóm lại, để kết thúc bài viết chúng tôi xin trích ý kiến của Giắc Lang (Jack Lang) cựu Bộ
trưởng Văn hóa và Giáo dục Quốc gia Pháp, một trong những cố vấn của Tổng Thư ký
Liên Hiệp Quốc trong việc chuẩn bị cho Hội nghị Cấp cao Bắc Kinh, đã nhấn mạnh: “đã
đến lúc cần phải trao cho phụ nữ của hành tinh này vị trí xứng đáng của họ. Cần phải
chấp nhận điều hiển nhiên: thông qua việc giải phóng bản thân, phụ nữ sẽ giải phóng
thế giới. Phụ nữ không phải là một câu hỏi, có lẽ trước hết phụ nữ chính là câu trả lời;
câu trả lời cho các vấn đề chậm phát triển và tăng dân số, câu trả lời cho các vấn đề duy
trì hòa bình, câu trả lời cho vấn đề quyền lực và dân chủ.”
Ghi chú: những con số được trích dẫn trong bài viết dựa theo nguồn của UNECSO Việt Nam năm
1999 trong tài liệu Một thế giới mới của Phêđêricô Mayo.
PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ XÃ/PHƯỜNG
TẠI TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

TS. ĐẶNG ÁNH TUYẾT*
Đề tài “Phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý cấp xã/phường ở Hà Tĩnh hiện nay: Thực trạng và giải
pháp” được thực hiện tại huyện Hương Sơn và TP Hà Tĩnh. Có 372 người tham gia khảo sát
(nam: 51,2% và nữ: 48,8%) trong độ tuổi 18-65. 30,9% cán bộ có trình độ trung học phổ thông,
42,2% có trình độ trung cấp/cao đẳng, và 22,8% có trình độ đại học/trên đại học. Gần một nửa cán
bộ (49,2%) có trình độ lý luận chính trị trung cấp, 28,1% sơ cấp và 2,5% cao cấp. Có 10,4% thuộc
khối Đảng, 47% thuộc khối chính quyền, 40,9% thuộc khối đoàn thể 1,6% thuộc các tổ chức
khác. 11,9% giữ chức vụ bí thư/phó bí thư Đảng ủy, hoặc chủ tịch/phó chủ tích HĐND, 11,6% chủ
tịch/PCT UBND, 4,2% Chủ tịch/PCT MTTQ, 17,6% chủ tịch/PCT Hội Phụ nữ, 15,8% chủ
tịch/PCT đoàn thể khác, 29,3% chuyên viên và 9,6% khác. Nghiên cứu mô tả và tìm hiểu những
động thái của sự thay đổi vị thế quyền lực giới cấp xã/phường tại tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
1. Thực trạng và xu hướng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý cấp xã/phường
Nam giới chiếm một tỷ trọng lớn (69,3%) trong hệ thống chính trị cấp xã/phường tại Hà
Tĩnh. Tỷ lệ nữ cán bộ nắm giữ các chức vụ quan trọng còn quá ít (Bí thư/Phó bí thư Đảng ủy hoặc
chủ tịch/phó chủ tịch HĐND chiếm 6,3% so với 18,1% của nam, 2,3% giữ chức vụ chủ tịch/phó
chủ tịch UBND so với 21,9% của nam; trong khi đó, tỷ lệ nam và nữ giữa các chức vụ chủ
tịch/phó chủ tịch các đoàn thể chênh lệch không nhiều (10,9% của nữ so với 21,3% của nam). Tuy
nhiên 74,6% đối tượng cho rằng tỷ lệ phụ nữ trong chính trường sẽ tăng. Từ hiện trạng này có thể
thấy, Hà Tĩnh đang thiếu hụt đội ngũ cán bộ nữ để quy hoạch, đề bạt vào hệ thống chính trị cơ sở.
Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý cấp xã/phường có tới
92,9% những người được hỏi đánh giá là rất quan trọng và quan trọng. Vai trò này được thể hiện
qua các lĩnh vực:
- Đảm bảo bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý
Có 88,2% người trả lời “phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý sẽ đảm bảo bình đẳng giới trong
lãnh đạo, quản lý”, trong đó, nam đồng ý chiếm 47,7% so với 52,6% nữ được hỏi bày tỏ ý kiến
đồng tình.
- Trong công tác lãnh đạo, quản lý: Vai trò của người phụ nữ trong quá trình ra quyết định và
thực thi các chính sách có hiệu quả được đánh giá thấp. Cụ thể, có 34,3% người trả lời cho rằng
quá trình ra các quyết định lãnh đạo minh bạch và thu hút sự tham gia ở các bên liên quan; 22,8%
đồng ý với có sự tham gia của phụ nữ thì quá trình thực thi chính sách hiệu quả hơn. Trong đó, lần

lượt, nam đồng ý 40,6% so với 59,4% của nữ, 34,1% của nam so với 65,9% của nữ.
- Trong cải thiện đời sống của cán bộ nữ: 63% và 71,2% người cho rằng sự tham gia vào lãnh
đạo, quản lý của phụ nữ có vai trò cải thiện tốt hơn về đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Như
phân tích ở trên, tiếng nói của phụ nữ trong ban lãnh đạo, quản lý ở cơ quan, tổ chức sẽ tạo ra sự
chú ý của lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong công tác nữ nhiều hơn và sẽ có sự quan tâm
đến đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ nhiều hơn.
- Trong các khía cạnh khác: Vai trò của phụ nữ trong việc thực hiện có hiệu quả các chương
trình kinh tế và đấu tranh phòng chống tham nhũng được đánh giá không cao. Cụ thể, 28,4% và
18% người trả lời cho rằng vai trò của phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý làm cho việc thực thi các
chương trình kinh tế hiệu quả hơn và hạn chế quá trình tham nhũng.
Sự tham gia của phụ nữ trong việc ra quyết định ở cấp xã/phường chưa thực hiện một cách đầy
đủ, đặc biệt, tiếng nói của cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội chưa
được chú trọng.
2. Những rào cản đối với phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý cấp xã/phường
2.1. Cơ hội đào tạo, bồi dưỡng
Có sự khác biệt không nhiều trong rào cản về cơ hội giáo dục, đào tạo ở nông thôn và thành thị
(53,5% ở nông thôn so với 46,5% ở thành thị). Riêng đối với phụ nữ, 57,6% phụ nữ nông thôn cho
rằng cơ hội đào tạo còn hạn chế so với 42,4% phụ nữ thành thị.
- Đối với nhóm tuổi, nhóm tuổi dưới 30 trả lời có hạn chế chiếm tỷ lệ cao nhất (31%), tiếp đến
là nhóm 31-40 tuổi (28,6%), 41-50 tuổi (22,6%), trên 50 tuổi (17,9%). Có thể thấy nếu phụ nữ
dưới 40 tuổi không được quy hoạch, đào tạo, họ sẽ khó có cơ hội tiếp tục những trình độ cao hơn
về chuyên môn, nghiệp vụ, khiến cán bộ nữ cũng khó được đề bạt ở chức vụ cao hơn.
- Đối với nhóm phụ nữ giữ các chức vụ khác nhau, trong tổng số người trả lời có hạn chế về cơ
hội đào tạo, nhóm phụ nữ giữ chức vụ chủ tịch/phó chủ tịch Hội Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao nhất. Phải
chăng, cán bộ phụ nữ ở đây chưa được quan tâm đúng mức? Nếu tiếng nói của người bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng sẽ ít được quan tâm trong hệ thống chính trị cấp cơ
sở, quyền tham chính của phụ nữ sẽ bị hạn chế rất nhiều.
2.2. Quy định về tuổi nghỉ hưu:
Cả hai giới đều cho rằng những quy định về tuổi nghỉ hưu gây ra trở ngại trong công tác quy
hoạch, đề bạt, đào tạo và bồi dưỡng (43,5% đối với nam và 58,3% đối với nữ; không đồng ý chiếm

49,2% đối với nam và 31,8% đối với nữ).
- Rào cản từ công tác khuyến khích, đề bạt cán bộ
Với nhận định “chưa có chính sách khuyến khích phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý”, có 49,6%
cho rằng “đúng và rất đúng”; 36,1% nói “không đúng”; và 10,5% trả lời “không đúng hoàn toàn”.
Trong đó, có 12,4% nam giới và 16,2% nữ trả lời “rất đúng”; 29,5% nam và 41,6% nữ cho là
“đúng”, “không đúng và không đúng hoàn toàn” chiếm 53,23% đối với nam so với 39,31% nữ. Có
hai xu hướng trái ngược nhau: (1) tỷ lệ nữ trả lời đúng và rất đúng chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới;
(2) tỷ lệ nam giới cho là không đúng và không đúng hoàn toàn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ. Điều này
cho thấy sự khác biệt về giới trong đánh giá về nhận định chính sách liên quan đến khuyến khích
phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.
- Công tác quy hoạch, đề bạt cán bộ nữ ở chức vụ quản lý cao hơn
+ Nhìn chung, công tác quy hoạch, đề bạt cán bộ nữ ở địa phương rất được cấp đảng ủy quan
tâm. Song, việc quy hoạch, đề bạt cán bộ nữ vào các vị trí chủ chốt vẫn còn hạn bởi lẽ vẫn còn
định kiến giới, thiếu đội ngũ cán bộ nữ có trình độ chuyên môn hoặc đề bạt chưa chú ý đến năng
lực, sở trường của cán bộ nữ.
+ Trong công tác quy hoạch, cho thấy việc “Xem xét, cất nhắc phụ nữ vào vị trí lãnh đạo khó
khăn hơn nam giới”, 18,2% trả lời không đúng, 6,6% không đúng hoàn toàn.
2.3. Nhận thức về giới và định kiến giới
Có 11,9% trả lời rất đồng ý với các quan niệm truyền thống đã và đang cản trở đến sự phấn
đấu của phụ nữ, 46,6% đồng ý và 41,5% không đồng ý. Như vậy, quan niệm truyền thống như giá
trị, chuẩn mực quy định về người phụ nữ đã ảnh hưởng đến sự phấn đấu của cán bộ nữ hiện nay.
Có sự khác biệt giới trong cách nhận thức giới và định kiến giới của cán bộ cấp cơ sở tại địa
phương ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Ở nông thôn vẫn còn tồn tại quan niệm thiên kiến
về hình ảnh của người phụ nữ làm công tác chính trị-xã hội.
Những biểu hiện của sự phân biệt giới trong lãnh đạo, quản lý: Các cấp lãnh đạo thường ưu
tiên chọn nam giới quy hoạch đào tạo chiếm 63,9%; Khung chính sách, pháp luật còn rào cản đối
với phụ nữ chiếm 42,8%; 54,8% người trả lời cho rằng cử tri thương ưu tiên bầu nam giới vào các
vị trí lãnh đạo, quản lý; Gia đình và người thân ủng hộ và tạo điều kiện cho nam giới nhiều hơn
chiếm 44,6%; Dư luận xã hội khắt khe với phụ nữ khi tham gia lãnh đạo, quản lý chiếm 20,5%.
Như vậy, sự phân biệt giới trong lãnh đạo được thể hiện thông qua khung chính sách, công tác đào

tạo, quy hoạch, gia đình và dư luận xã hội.
2.4. Phân công lao động trong gia đình
45,3% nam giới cho rằng họ gặp gánh nặng gia đình so với 54,7% của phụ nữ. Xét từng
nhóm phụ nữ, một trong những khó khăn trong quá trình phấn đấu của cán bộ nữ là gánh nặng gia
đình (chăm sóc con cái, việc nhà, người thân…), tỷ lệ này chiếm 63,8%. Trong đó, nhóm cán bộ
nữ công tác ở khu vực nông thôn gặp khó khăn về gánh nặng gia đình chiếm 43,6% so với 56,4%
ở nhóm cán bộ nữ thành thị. Mặc dù, sự chênh lệch không nhiều, nhưng đã cho thấy sự khác biệt
giữa thành thị và nông thôn.
Nhóm phụ nữ giữ chức vụ chủ tịch/phó chủ tịch Hội Phụ nữ và các tổ chức đoàn thể khác
cho rằng gánh nặng gia đình là một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự thăng tiến chính
trị (62,7% và 20,3%). Phụ nữ làm công tác chính quyền và đoàn thể cho rằng gánh nặng công việc
gia đình là một trong những khó khăn cho sự phấn đấu của họ (37,9% và 55,3%).
3. Rào cản từ bản thân người phụ nữ
Qua khảo sát, rào cản từ phía bản thân của người phụ nữ thể hiện ở chỗ sự lựa chọn gia
đình hay công việc. Sự lựa chọn của người phụ nữ: Cả hai giới không có sự khác biệt nhiều trong
việc lựa chọn sự hài hòa giữa gia đình và sự nghiệp (48,8% của nam so với 51,2% của nữ). Xét
riêng ở nhóm phụ nữ, người phụ nữ có xu hướng lựa chọn sự dung hòa giữa gia đình và công việc.
Xu hướng này không có sự khác biệt nhiều giữa các nhóm phụ nữ thành thị, nông thôn, nhóm phụ
nữ giữ các chức vụ khác nhau.
Như vậy, con đường phấn đấu của nữ cán bộ gặp nhiều cản trở, trong đó có rào cản chính
bản thân họ. Năng lực, kinh nghiệm, tính cách, quan hệ xã hội, cộng với sự lựa chọn hài hòa giữa
gia đình và công việc là những yếu tố tạo rào cản của bản thân người phụ nữ. Rào cản ấy dễ dàng
qua đi nếu có sự hỗ trợ kịp thời về công tác đào tạo, bồi dưỡng, chính sách hỗ trợ và sự ủng hộ của
gia đình, đặc biệt là người chồng.
4. Những liên hệ về chính sách nâng cao năng lực cán bộ nữ cấp xã/phường
Về thể chế, khung chính sách đối với cán bộ nữ
- Rà soát văn bản từ góc độ giới, đặc biệt các văn bản liên quan đến: (1) Độ tuổi đào tạo,
bồi dưỡng và (2) Độ tuổi đề bạt, bổ nhiệm. Thống kê tất cả các quy định khác nhau về độ tuổi giữa
nam và nữ đang tồn tại trong các văn bản hiện nay, gồm nội dung quy định, cơ quan ban hành,
năm ban hành, hiệu lực thi hành, đối tượng thực hiện, v.v

- Quy hoạch đội ngũ nguồn cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý để tránh sự thiếu hụt
về số lượng cán bộ nữ.
- Có cơ chế đảm bảo phụ nữ là chủ thể liên quan trực tiếp của quyền chính trị. Thay đổi
nhận thức và hành vi xem phụ nữ là chủ thể trong quá trình thực hiện các văn bản pháp lý liên
quan đến quyền của họ.
- Có chính sách hỗ trợ công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ nữ về vật chất cũng như
tinh thần để họ có đủ điều kiện vượt lên chính mình vươn đến vị trí cao trong lĩnh vực tham chính.
Về điều kiện kinh tế
Ngoài công việc tham gia chính trị cơ sở ở địa phương, phụ nữ cũng phải đối mặt với áp lực
kinh tế như một vai trò kép. Vì vậy, đối với những tỉnh đặc thù, chính sách đãi ngộ cán bộ nữ với
nhiều hình thức đa dạng cũng là nhân tố quan trọng để họ nắm bắt được cơ hội trong tham chính.
Do đó, để đảm bảo người phụ nữ có cơ hội ngang bằng với nam giới trong tham chính ở cấp cơ sở,
cấp ủy Đảng và chính quyền cần có cơ chế đảm bảo điều kiện kinh tế cho phụ nữ được độc lập khi
tham chính thông qua các chế độ tiền lương và đãi ngộ hoặc các nguồn hỗ trợ khác.
Thay đổi định kiến giới trong xã hội – chia sẻ giá trị bình đẳng giới
Các cơ quan chức năng (Ban tuyên giáo, Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch, Đài truyền hình …)
cần nâng cao chất lượng tuyên truyền để từng bước giảm thiểu tư tưởng định kiến xã hội đối với
phụ nữ, thay đổi nhận thức, thái độ cho mọi người thấy được hiệu quả của việc đầu tư cho phụ nữ
là thực hiện công bằng xã hội.
Phát huy vai trò của người đứng đầu trong hệ thống chính trị
Cơ quan Đảng và Chính quyền địa phương cần có sự nhạy cảm giới. Người đứng đầu trong hệ
thống chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện, bồi dưỡng, quy hoạch, và đề bạt cán
bộ nữ.
Tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở trong công tác truyền thông
nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về phụ nữ tham chính ở cấp cơ sở.
Hội phụ nữ, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, Đoàn Thanh niên và các tổ chức chính trị- xã hội
khác có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo quyền tham chính của cán bộ nữ. Cần phát huy
vai trò của các tổ chức này trong việc đảm bảo quyền chính trị của cán bộ nữ, đặc biệt, trong công
tác quy hoạch, đề bạt vào vị trí then chốt.
Tăng cường tính tích cực chủ động của nữ lãnh đạo cấp cơ sở

Người phụ nữ cần biết đấu tranh cho quyền lợi của bản thân; tự tin vào năng lực, khả năng của chính
mình. Chủ động chia sẻ công việc gia đình và hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, xã hội được phân
công.
LUẬT THI ĐUA KHEN THƯỞNG
Theo Thông tư số 02/2011/TT-BNV ngày 24/01/2011 hướng dẫn thực hiện Nghị định số
42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen
thưởng.
2. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua
a) Danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sỹ tiên tiến”:
Danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sỹ tiên tiến” được xét công nhận đối với các cá nhân là
cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị, các
cơ sở kinh tế; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân thuộc quân đội
nhân dân, công an nhân dân đạt các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 24 Luật Thi
đua, Khen thưởng. Mỗi năm xét một lần vào dịp tổng kết năm công tác của cơ quan, đơn vị.
Đối tượng nữ nghỉ thai sản theo chế độ quy định của nhà nước và những người có hành động dũng
cảm cứu người, cứu tài sản, những người trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu do bị thương tích cần
điều trị, điều dưỡng theo kết luận của cơ quan y tế, thì thời gian nghỉ vẫn được tính để xem xét
tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sỹ tiên tiến”.
Cá nhân đi học, bồi dưỡng ngắn hạn dưới 01 năm, nếu đạt kết quả từ loại khá trở lên, chấp hành
tốt quy định của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thì kết hợp với thời gian công tác tại cơ quan, đơn vị để
bình xét danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến”. Các trường hợp đi đào tạo từ 01 năm
trở lên, có kết quả học tập từ loại khá trở lên thì năm đó được xếp tương đương danh hiệu “Lao
động tiên tiến”, “Chiến sỹ tiên tiến” để làm căn cứ xét tặng các danh hiệu thi đua và hình thức
khen thưởng khác.
Đối với cá nhân thuyên chuyển công tác thì đơn vị mới có trách nhiệm xem xét, bình bầu danh
hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” trên cơ sở có ý kiến nhận xét của đơn vị cũ (đối với
trường hợp có thời gian công tác ở đơn vị cũ từ 6 tháng trở lên).
Không xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” cho các trường hợp: không
đăng ký thi đua; mới tuyển dụng dưới 10 tháng; nghỉ việc từ 40 ngày làm việc trở lên; bị xử phạt

hành chính; bị kỷ luật từ khiển trách trở lên.
LUẬT LAO ĐỘNG
CHƯƠNG X. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
Điều 109
1. Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của người phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có
chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm
thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn

×