MỤC LỤC
Lời nói đầu ....................................................................................................... 1
Chương I - Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín
dụng .................................. 3
I.
Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân
hàng .............................................. 3
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng ............................................................. 3
2.Phân loại tín dụng ngân hàng ............................................................... 4
3.Vai trò của tín dụng ngân hàng ............................................................ 5
3.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế ...................... 6
3.2. Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các NHTM ....................... 8
II.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương
mại ........... 8
1. Quan điểm chung về rủi ro tín dụng .................................................... 8
2.Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng ............................................ 10
2.1. Nợ quá hạn .................................................................................. 10
2.2. Tổn thất tín dụng ......................................................................... 12
2.3. Rủi ro tiềm năng ......................................................................... 12
3.Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ................................................ 13
3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan ................................................. 13
3.1.1. Môi trường tự nhiên .......................................................... 14
3.1.2. Môi trường kinh tế ............................................................ 14
3.1.3. Môi trường pháp lý ............................................................14
3.1.4. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước .........................................
15
3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan ..................................................... 15
3.2.1. Về phía khách hàng .......................................................... 15
3.2.2. Về phía ngân hàng ............................................................ 17
4.Tác động của rủi ro tín dụng ............................................................. 20
4.1. Tác động của rủi ro tín dụng đến ngân hàng .............................. 20
4.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế ........................ 21
Chương II - Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I -
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam ...................................................... 22
1
I.
Khái quát chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
.................................................................................................... 22
1. Lịch sử hình thành và phát triển ....................................................22
2.Cơ cấu tổ chức .............................................................................. 24
3.Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong thời gian qua ...........27
II.
Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở................. 34
1. Một số quy định chung đối với hoạt động tín dụng ...................... 34
1.1. Quy trình cho vay .................................................................. 34
1.2. Nguyên tắc cho vay ............................................................... 37
1.3. Điều kiện vay vốn .................................................................. 37
1.4. Đối tượng cho vay ..................................................................38
2.Thực trạng hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch ............................38
2.1. Cơ cấu tín dụng theo loại cho vay ......................................... 38
2.2. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế ............................... 42
2.3. Cơ cấu tín dụng theo tính chất bảo đảm ................................ 45
3.Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch ...................................47
3.1. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo loại cho vay .................. 48
3.2. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo thành phần kinh tế ........ 51
3.3. Phân tích tình hình nợ quá hạn theo khả năng thu hồi ........... 53
4.Đánh giá ....................................................................................... 56
4.1. Những kết quả đạt được ......................................................... 57
4.2. Những mặt còn hạn chế ......................................................... 58
5.Nguyên nhân ................................................................................. 59
5.1. Nguyên nhân khách quan ...................................................... 59
5.1.1. Môi trường tự nhiên ..................................................... 60
5.1.2. Môi trường kinh tế ....................................................... 60
5.1.3. Môi trường pháp lý ...................................................... 61
5.2. Nguyên nhân chủ quan .......................................................... 62
5.2.1. Từ phía khách hàng ..................................................... 62
5.2.2. Từ
phía ngân hàng ....................................................... 63
Chương III - Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại
Sở giao dịch I - Ngân hàng ĐT&PT Việt
Nam ............................................ 68
2
I.
Định hướng hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam trong năm 2002 ............................................................
68
II.
Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam......................................................
72
1. Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng ................................. 73
1.1. Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi
cho vay ................................................................................... 73
1.2. Tăng cường công tác thu thập thông tin ................................ 77
1.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay ........ 77
1.4. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng ................................. 78
1.5. Đa dạng hoá đầu tư ............................................................... 79
1.6. Có chế độ thưởng phạt hợp lý đồng thời đẩy mạnh công tác đào
tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng ................. 80
2. Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng ........................................... 81
2.1. Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn ............................... 81
2.2. Đối với công tác thu nợ .......................................................... 82
2.3. Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp .... 82
2.4. Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ................................ 83
Kết luận .................................................................................................... 89
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 90
3
LỜI NÓI ĐẦU
rong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước đã có
nhiều chuyển biến tích cực, mọi mặt đời sống xã hội được cải
thiện, chúng ta đã ký được hiệp định thương mại Việt - Mỹ và
đang trong quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam đang là những thời cơ và thách
thức mới đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn trong cạnh tranh. Không nằm ngoài xu
thế chung đó, ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I - Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng cũng có những thời cơ và thách
thức trong tình hình mới.
T
Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh ngân hàng trong thời gian qua ngày
càng trở nên khó khăn, lãi suất trên thị trường thế giới liên tục giảm gây áp lực
lên hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặt khác, bản thân các ngân hàng trong nước
cũng có sự cạnh tranh quyết liệt với nhau nên càng gây ra nhiều khó khăn, buộc
các ngân hàng phải nới lỏng các yêu cầu khi cho vay cũng như cắt giảm lãi suất
tạo ra nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh
cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và do đó gián
tiếp ảnh hưởng đến các ngân hàng. Các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có
thể sử dụng vốn vay của ngân hàng không đúng mục đích hoặc đầu tư không
hiệu quả, thu nhập không đủ bù đắp chi phí... dẫn đến không thể trả được nợ
ngân hàng khi đến hạn, tất cả những điều đó đều có thể gián tiếp gây ra rủi ro
cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro đối với hoạt động tín dụng. Vì vậy, trong thời
gian tới việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là thực sự có ý nghĩa và luôn
là một đề tài bức xúc đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tìm được
các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng để tăng hiệu quả trong kinh
doanh ngân hàng là mong muốn của tất cả các nhà kinh doanh tiền tệ khi phải
đối đầu với sự cạnh tranh quyết liệt, giành giật thị phần để mang lại lợi nhuận.
Nhận thức được điều đó, cùng với mong muốn sử dụng những kiến thức đã
học cũng như các kết quả quan sát học hỏi từ thực tiễn hoạt động tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam em đã lựa chọn đề tài nghiên
4
cứu là: “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I -
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Trong bài luận văn này, em sẽ trình bày các vấn đề lý luận cũng như thực
trạng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch. Từ đó đưa ra một
số giải pháp và kiến nghị góp hạn chế rủi ro tín dụng đối với các Ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung và đối với Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam nói riêng.
Kết cấu luận văn gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng.
Chương II: Thực trạng tín dụng và rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I - Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở
giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên bài luận sẽ không tránh khỏi có
những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo
của các thầy cô giáo và các cán bộ tín dụng để bài luận văn hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Xuân Quế cùng các thầy cô
trong Khoa Ngân hàng - Tài chính đã tận tình hướng dẫn giúp em làm tốt đề tài
này. Em cũng xin cảm ơn tập thể cán bộ Phòng tín dụng I - Sở giao dịch Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em
trong quá trình thực tập tại quý cơ quan.
5
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó các chủ thể chuyển cho nhau quyền
sử dụng về một lượng giá trị hoặc hiện vật với những điều kiện mà hai bên thoả
thuận như số lượng, thời hạn, lãi suất... theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi.
Như vậy, tín dụng có thể được hiểu đơn giản là một quan hệ vay mượn lẫn
nhau dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả khẳng
định người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng tiền hoạc tài sản của mình cho
người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó người đi vay
sẽ phải hoàn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất định theo thoả
thuận. Thông thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị khoản cho vay.
Với cùng bản chất như vậy, tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn
nhau giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các chủ thể kinh tế khác như các
đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, dân cư dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hoàn trả có thể thực hiện một
lần hay nhiều lần tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Một ngân hàng khi tham gia vào các quan hệ tín dụng có thể đóng vai trò là
người đi vay hoặc người cho vay. Khi ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành trái
phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn, vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương, từ các tổ
chức tín dụng khác thì nó đóng vai trò là người đi vay. Còn khi ngân hàng thực
hiện việc cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu... thì nó đóng vai trò là
người cho vay. Tuy nhiên, trong thực tế do tính phức tạp của hoạt động cho vay
so với hoạt động đi vay và cũng là do thói quen nên khi nói đến tín dụng Ngân
hàng người ta thường chỉ đề cập đến hoạt động cho vay mà ít khi đề cập đến
hoạt động đi vay.
2. Phân loại tín dụng Ngân hàng:
Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại tín dụng
ngân hàng theo mục đích sử dụng tiền vay, theo thời hạn trong quan hệ tín dụng,
theo tính chất bảo đảm hoặc theo thành phần kinh tế.
Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay, tín dụng được chia thành:
6
- Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cho vay phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
cá nhân.
- Tín dụng nông nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Tín dụng công nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp.
- Tín dụng xuất nhập khẩu: là hình thức cho vay nhằm tài trợ cho hoạt động
xuất nhập khẩu.
Căn cứ vào tính chất bảo đảm, tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng có bảo đảm là hình thức cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ
thể nào đó như xe cộ hoặc một hình thức nào đó về tài sản cá nhân.
- Tín dụng không có bảo đảm: khác với tín dụng có bảo đảm, tín dụng
không có bảo đảm được dựa trên cơ sở uy tín, tình hình tài chính của người vay,
lợi tức có thể được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây.
Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của người vay như nhu cầu về vốn lưu động.
- Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm
phục vụ nhu cầu sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp, cải
tiến kỹ thuật hoặc xây dựng những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn
không dài.
- Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 3 năm, phục
vụ nhu cầu trang bị tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh, hay xây dựng
những công trình lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.
Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành:
- Tín dụng kinh tế quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các khoản tín dụng này có thể được thực
hiện trực tiếp giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp hoặc theo kế hoạch Nhà
nước.
- Tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho
các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân như các công ty TNHH, công ty cổ
phần...
3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác nhau
như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nặng lãi, tín dụng thuê
7
mua... Trong đó tín dụng Ngân hàng là loại hình tín dụng giữ vai trò quan trọng
nhất và cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp lưu thông luồng tiền tệ, dẫn vốn từ nơi
thừa đến nơi thiếu, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Mặt
khác, tín dụng cũng là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của
các Ngân hàng thương mại. Trong thời gian dài, tín dụng luôn là hoạt động
mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại kể cả các Ngân hàng
thương mại trong nước và các Ngân hàng thương mại trên thế giới.
Ngày nay, khi công nghệ Ngân hàng phát triển đến trình độ cao, các dịch vụ
Ngân hàng đã bắt đầu thể hiện rõ ưu thế của mình và ngày càng chiếm tỷ trọng
lớn hơn trong hoạt dộng của các Ngân hàng thương mại, tín dụng vẫn là hoạt
động không thể thiếu được của các Ngân hàng. Tín dụng vẫn tạo ra nguồn thu
nhập cơ bản cho các Ngân hàng thương mại, nó bảo đảm cho hoạt động của các
Ngân hàng thương mại được thông suốt. Chính vì vậy, tín dụng Ngân hàng luôn
luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi Ngân hàng nói
riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
3.1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia giữ một vai trò hết
sức quan trọng. Xét trên nhiều mặt, hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần
thúc đẩy mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hoá phát triển, tài trợ cho các thành
phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn của quốc gia. Đồng thời hoạt
động tín dụng Ngân hàng cũng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại, hội
nhập với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tín dụng, mối
quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng mà cụ thể là các doanh nghiệp được
củng cố và tăng cường, ngân hàng và doanh nghiệp sẽ hỗ trợ nhau cùng phát
triển. Với mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, đến năm 2020 đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đồng thời với lộ trình gia nhập AFTA
tiến tới gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của nước ta thì tín dụng
Ngân hàng càng có vai trò quan trọng. Cụ thể, vai trò của tín dụng Ngân hàng
đối với nền kinh tế được thể hiện trên một số mặt như sau:
Thứ nhất, hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp điều hoà vốn trong nền kinh
tế, cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất, tái sản xuất mở rộng. Như chúng ta đã
biết, vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục
và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất
tạo thành chu kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của
một vòng tuần hoàn này được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
8
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn
của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ - sản xuất -
lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa hoặc thiếu vốn tạm thời tại các doanh
nghiệp. Đây chỉ là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường
xuyên và phổ biến, làm nảy sinh yêu cầu phải giải quyết cho được vấn đề điều
hoà vốn trong nền kinh tế. Với nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng,
các Ngân hàng thương mại đã giải quyết được vấn đề này. Ngân hàng thương
mại đứng ra tập trung và phân phối lại vốn, điều hoà cung - cầu vốn trong nền
kinh tế, góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp thì yêu cầu về vốn
là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp
không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào nhiều nguồn
vốn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi tập trung
đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời
gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy
nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng là công cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ cho
các ngành mũi nhọn và các thành phần kinh tế kém phát triển. Trong tiến trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tín dụng Ngân hàng được xem như một
công cụ vĩ mô quan trọng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy tối
đa lợi thế so sánh của đất nước. Mặc dù các ngành này có tỷ lệ sinh lời thấp, thời
gian thu hồi vốn chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành
kinh tế mũi nhọn, là xương sống của nền kinh tế, là cơ sở đề phát triển đất nước.
Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển các ngành này là một yêu cầu không thể
thiếu và tín dụng Ngân hàng được xem như một trong những nguồn vốn quan
trọng tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển và hội nhập quốc tế còn đòi hỏi phải vực
dậy một số ngành kinh tế kém phát triển để có đủ khả năng cạnh tranh với các
nước trên thế giới. Muốn vậy, cần phải có vốn đầu tư lớn đối với các ngành kinh
tế này. Vốn đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn nhưng quan trọng nhất
vẫn là nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại. Trong
những năm tới, khi hàng rào thuế quan giữa các nước trong khu vực được dỡ bỏ,
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước một thách thức to lớn là phải đối đầu
với các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực kinh tế mạnh, có kỹ thuật và công
9
nghệ tiên tiến. Khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời hạ giá thành sản xuất, đa dạng mẫu mã
chủng loại hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong nước cũng như thị
trường nước ngoài. Có như vậy mới cạnh tranh được với hàng hoá của nước
ngoài, củng cố và mở rộng thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam. Để làm
được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có vốn đầu tư để mở rộng
sản xuất, đổi mới công nghệ và nguồn vốn vay của Ngân hàng là thực sự cần
thiết.
3.2. Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại:
Bên cạnh vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế, nghiệp
vụ tín dụng còn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi Ngân
hàng thương mại. Tín dụng là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa quyết định đối với
sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Bản chất của một Ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ, hoạt động chủ
yếu là “đi vay để cho vay”. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động, trước tiên được
sử dụng vào hoạt động cho vay và đây cũng là hoạt động mang lại phần lớn lợi
nhuận cho Ngân hàng. Khi các Ngân hàng không thực hiện được duy trì và mở
rộng tín dụng thì phần vốn mà Ngân hàng huy động được sẽ bị ứ đọng, Ngân
hàng sẽ phải trả lãi cho phần vốn đó trong khi không có thu nhập từ lãi cho vay,
điều này sẽ dẫn Ngân hàng tới chỗ bị thua lỗ và có khả năng bị phá sản. Hơn
nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện để
Ngân hàng phát triển đa dạng thêm các hoạt động dịch vụ khác. Do đó, việc duy
trì và mở rộng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các Ngân hàng thương
mại.
II. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Quan điểm chung về rủi ro tín dụng:
Mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, rủi ro và kinh doanh là hai
mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá trình kinh doanh, chúng luôn
tồn tại và mâu thuẫn với nhau. Muốn cho quá trình kinh doanh tồn tại và phát
triển thì kinh doanh phải khống chế được rủi ro.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về rủi ro. Có ý kiến cho rằng, khi
nói tới rủi ro là nói tới điều gì đó đã xảy ra.
Ví dụ, trong Ngân hàng khi nói tới rủi ro tín dụng, thông tin mà người nghe
nhận được sẽ là “số nợ quá hạn” của Ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa là
10
trong tổng số các khoản cho vay của Ngân hàng đến hạn thu nợ có một số khoản
Ngân hàng chưa thể thu được nợ theo thời hạn ghi trong hợp đồng.
Có ý kiến lại cho rằng, nói tới rủi ro không chỉ dừng lại ở mức liệt kê đơn
thuần về điều đã xảy ra mà còn phải bao hàm cả những thiệt hại mà những điều
đã xảy ra mang lại. Theo đó khi nói tới rủi ro tín dụng có nghĩa là những khoản
cho vay bị mất - không thể thu hồi.
Những người theo quan niệm rủi ro là điều tất yếu xảy ra khi tiến hành bất cứ
một công việc nào lại cho rằng “rủi ro” là những khả năng xảy ra sự cố có thể
dẫn tới tổn thất về cái gì đó. Theo quan điểm này, gắn với hoạt động tín dụng
của Ngân hàng, rủi ro đã hàm chứa ngay từ khi bắt đầu thực hiện cho vay chứ
không phải “chờ đợi” sự trả chậm hay không trả của người vay mới coi là rủi ro.
Ý kiến chung nhất cho rằng rủi ro là một khái niệm chỉ khả năng xảy ra
những biến cố mang lại kết quả xấu khi tiến hành một công việc nào đó.
Như vậy, cần hiểu rủi ro bao gồm những nội dung như sau:
- Trước hết, rủi ro là một hiện tượng có thể xảy ra ngoài mong muốn khi
tiến hành bất cứ một công việc nào. Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu tiến
hành một công việc nào đó cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra.
- Thứ hai, mặc dù rủi ro là hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng
xảy ra khi tiến hành các hoạt động nhưng trong nhiều trường hợp, do tính lặp lại
của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó. Chính vì điều
này mà người ta có thể tìm những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro.
- Thứ ba, rủi ro dù ít xảy ra nhưng khi đã xảy ra thường gây nên những tổn
thất. Ý thức được điều này, người ta luôn tìm các biện pháp để hạn chế tổn thất
khi rủi ro xảy ra.
Trong các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại, thì nghiệp vụ tín dụng là
nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Với đặc trưng của hoạt động tín dụng
Ngân hàng - chủ thể là Ngân hàng và người vay, đối tượng là tiền, với các điều
kiện về thời hạn vay, lãi suất - với quan điểm như trên về rủi ro, ta có thể hiểu
rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không hoàn trả được nợ đúng thời hạn
hoặc không trả nợ cho Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là một tất yếu trong kinh doanh Ngân hàng, nó được thể hiện
trên hai mặt:
Thứ nhất, với đặc điểm kinh doanh tín dụng, có sản phẩm độc quyền là tiền
tệ, kinh doanh tín dụng Ngân hàng bán “quyền sử dụng tiền tệ” với thời hạn cho
vay và giá bán là lãi suất. Hoạt động tín dụng Ngân hàng có liên quan tới rất
nhiều chủ thể trong nền kinh tế, có tính xã hội hoá cao, chính vì thế, nó cũng
11
chịu tác động rất lớn từ nhiều phía như cơ chế chính sách, môi trường kinh
doanh. Do vậy, khi có sự biến động trong nền kinh tế, sự thay đổi về cơ chế
chính sách hay môi trường kinh doanh đều có ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng
Ngân hàng và có thể dẫn đến rủi ro. Mặt khác, Ngân hàng hoạt động theo
phương châm “đi vay để cho vay”, do đó, hiệu quả kinh tế của người đi vay
cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Thứ hai, thực tế cho thấy, những năm 1989 - 1990 ở nước ta hàng loạt hợp
tác xã tín dụng sụp đổ, nền tài chính trong trạng thái khủng hoảng ảnh hưởng
đến kinh tế xã hội. Trong thời gian gần đây, tình trạng nợ quá hạn tại các Ngân
hàng trong nước cũng không tốt, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ còn cao, đòi
hỏi phải có những biện pháp để giải quyết. Không chỉ riêng trong nước mà ngay
cả ở một số nước có nền kinh tế phát triển như Nhật, Anh, Pháp... với các hệ
thống Ngân hàng hiện đại có quy mô dự phòng rủi ro lớn vẫn xảy ra những tổn
thất đáng kể.
Như vậy, có thể nói rủi ro trong tín dụng là một tất yếu khách quan trong hoạt
động của các Ngân hàng thương mại. Vấn đề là làm sao để hạn chế tối đa những
rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng. Muốn vậy, trước hết
cần phải đánh giá được mức độ của rủi ro tín dụng thông qua một số chỉ tiêu đo
lường rủi ro tín dụng.
2. Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng:
2.1. Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tín dụng
của một Ngân hàng. Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người vay không
có khả năng thanh toán đầy đủ hoặc đúng hạn như đã cam kết với Ngân hàng khi
đến hạn trả nợ. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thông qua nợ quá hạn, ở nước
ta sử dụng chỉ tiêu sau:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ Nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này phản ánh lượng đơn vị tiền tệ Ngân hàng không thể thu hồi đúng
hạn trong 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng đã cho vay tại thời điểm xác định.
Nước ta hiện đang sử dụng phổ biến chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín
dụng của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ
nợ quá hạn < 5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng và được coi
là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng và của nền kinh tế.
12
Tuy nhiên, có thể thấy rằng do dư nợ quá hạn và tổng dư nợ được đo tại một
thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ quá hạn không phản ánh đúng thực chất chất
lượng tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ phản ánh các khoản nợ đã quá thời
hạn thanh toán chứ chưa phản ánh được mức độ rủi ro của các khoản nợ chưa
đến thời hạn thanh toán. Một số các khoản nợ loại này có thể còn chứa đựng
nhiều rủi ro hơn các khoản nợ đã được xác định là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn có thể chia ra thành nhiều loại tuỳ theo tiêu thức đã chọn. Việc
phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng theo
các khía cạnh khác nhau. Đồng thời, phân loại nợ quá hạn cũng giúp tìm ra các
giải pháp trong phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành:
- Nợ quá hạn thông thường: là các khoản nợ đến ngày đáo hạn người vay
chưa trả được nợ cho Ngân hàng nhưng khả năng hoàn trả là khá cao, sự chậm
trễ trong việc trả nợ là ngắn.
- Nợ quá hạn khó đòi (nợ khó đòi): là những khoản nợ đã quá hạn một thời
gian dài mà con nợ không có khả năng thanh toán đầy đủ nợ gốc và lãi cho Ngân
hàng, khả năng thu hồi khoản nợ này là thấp và quá trình thu nợ thường gặp khó
khăn, phức tạp.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi (mất vốn): là những khoản nợ quá
hạn mà Ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để thu nợ nhưng không thể thu
đựoc toàn bộ hoặc một phần nợ gốc. Con nợ không còn nguồn để trả nợ cho
Ngân hàng cả hiện tại và trong tương lai, khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng là
bằng không và Ngân hàng xác định khoản nợ này là không thu hồi được.
Việc phân loại các khoản nợ quá hạn theo khả năng thu hồi phản ánh rõ nhất
về mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nợ quá hạn không có khả năng thu
hồi càng cao thì nguy cơ mất vốn của Ngân hàng càng lớn.
Theo thời gian quá hạn, có thể chia nợ quá hạn thành:
- Nợ quá hạn dưới 6 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời
gian quá hạn thanh toán là dưới 6 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy
đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm
thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là từ 6 tháng đến 12 tháng và người vay
vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn trên 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời
gian quá hạn thanh toán là trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy
đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
13
Những khoản nợ quá hạn dưới 6 tháng được coi là có độ rủi ro thấp, nợ quá
hạn từ 6 - 12 tháng được coi là có độ rủi ro trung bình còn nợ quá hạn trên 12
tháng được coi là có độ rủi ro cao, có khả năng gây mất vốn cho Ngân hàng.
2.2. Tổn thất tín dụng:
Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của một Ngân hàng
thương mại. Thực chất, tổn thất tín dụng chính là phần vốn mà Ngân hàng
không thu hồi được.
Tổn thất tín dụng = Khoản cho vay không thu hồi được - Giá trị thu hồi được
2.3. Rủi ro tín dụng tiềm năng:
Nếu chỉ cho rằng rủi ro là các hậu quả thực tế đã xảy ra, ta sẽ chỉ hiểu đơn
thuần kết cục của nó mà không hiểu được rõ nguyên nhân do đó sẽ khó khắc
phục chúng. Chính vì vậy, việc xem xét rủi ro tín dụng tiềm năng sẽ giúp đánh
giá một cách toàn diện hơn về rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương mại.
Việc đánh giá rủi ro tín dụng đã được các nước trên thế giới đánh giá thông
qua chỉ tiêu:
Các khoản tín dụng có chất lượng trung bình
Tổng dư nợ
Ưu điểm của việc sử dụng chỉ tiêu này đó là nó đánh giá được rủi ro tín dụng
một cách khá tốt. Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn chỉ đánh giá những rủi ro đã xảy ra
thì chỉ tiêu này còn đánh giá được cả những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai.
Tuy nhiên, việc xem xét thế nào là các khoản tín dụng có chất lượng trung bình
thì cần phải có tiêu thức xếp hạng thống nhất. Hiện nay ở nước ta chưa áp dụng
chỉ tiêu này vì chưa có tiêu thức xếp hạng các khoản tín dụng.
3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt
Nam:
Tín dụng Ngân hàng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế
cũng như đối với các Ngân hàng thương mại. Mặt khác, tín dụng Ngân hàng lại
là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong số các hoạt động nghiệp vụ của Ngân
hàng thương mại. Vì vậy, việc tìm hiểu rõ các nguyên nhân gây ra rủi ro trong
nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng là một điều mà các nhà Ngân hàng cần phải quan
tâm làm rõ để từ đó có cơ sở đưa ra các giải pháp hợp lý nhằm ngăn ngừa và hạn
chế rủi ro. Với quan điểm về rủi ro tín dụng như đã trình bày ở trên, có thể tổng
14
kết các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng cho các Ngân hàng thương
mại theo hai nhóm: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan:
Trong các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng thì nhóm
nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân khó phòng tránh nhất thậm chí
là bất khả kháng. Những nguyên nhân này thường không trực tiếp ảnh hưởng tới
hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhưng nó lại có ảnh hưởng tới hoạt động
của các doanh nghiệp, các khách hàng của ngân hàng, từ đó gián tiếp ảnh hưởng
đến ngân hàng. Tổn thất tín dụng do những nguyên nhân này gây ra thường
chiếm tỷ trọng không lớn. Các nguyên nhân khách quan bao gồm:
3.1.1. Môi trường tự nhiên:
Nói chung môi trường tự nhiên không tác dụng trực tiếp tới hoạt động tín
dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mà hoạt động
của chúng phụ thuộc vào môi trường tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động
trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, dich vụ. Điều kiện tự nhiên diễn biến
thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
3.1.2. Môi trường kinh tế:
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng
như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường kinh tế. Sự biến
động của nền kinh tế tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng
và doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tương tự. Đặc biệt, trong điều kiện
quốc tế hoá mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh
nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi
trường kinh tế quốc tế.
Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp với ngân
hàng (Ví dụ: những rủi do thay đổi tỷ giá, lãi xuất, lạm phát làm cho ngân hàng
bị thiệt về thu nhập) hoặc gián tiếp tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp đều có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
3.1.3. Môi trường pháp lý:
Đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi ro
tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản
dưới luật chưa được đầy đủ đồng bộ, không bảo đảm môi trường cạnh tranh lành
mạnh cũng là một nguyên nhân trược tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Bên
15
cạnh đó, môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ
hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo
ngân hàng. Đồng thời, môi trường pháp lý không ổn định cũng khiến các nhà
đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển kinh doanh, do đó
hạn chế về nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng.
Thực tế cho thấy, với hệ thống văn bản pháp luật đối với hoạt động tín dụng
ngân hàng nếu như không đầy đủ chặt chẽ, nhất là trong các quan hệ tín dụng
quốc tế, sẽ có thể dẫn đến những rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Đối với
Việt Nam đây cũng là một hạn chế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật
và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa đảm bảo môi trường kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, dẫn đến rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho Ngân
hàng.
3.1.4. Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Đây cũng là một nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng ngân hàng. Trong trường
hợp có sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà
nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra
của các Bộ ngành trong nền kinh tế sẽ có thể tác động đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả tín dụng của khách
hàng đối với ngân hàng. Do tính chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng có
liên quan đến rất nhiều Bộ, ngành và lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, mỗi thay đổi
về cơ chế chính sách của Nhà nước cũng đều tác động tới kết quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, một hoạt động kinh
doanh chủ yếu của ngân hàng.
3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan:
3.2.1. Về phía khách hàng:
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính và
cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Người vay có thể do nhiều lý do khác nhau
mà không thể thực hiện trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nhìn chung nguyên nhân
này có thể nắm bắt và hạn chế được nếu ngân hàng thực hiện tốt việc sàng lọc
khách hàng, kiểm tra, giám sát và quản lý khách hàng trước, trong và sau khi
phát tiền vay cho khách hàng. Nguyên nhân từ phía khách hàng được xem xét
trên các mặt sau:
- Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay còn
hạn chế. Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ chính
kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế
chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay
16
của doanh nghiệp. Khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư nếu doanh
nghiệp không tính hết những biến động thụ trường sẽ có thể dẫn đến thua lỗ,
không trả được nợ cho ngân hàng. Mặt khác, việc sử dụng vốn vay của doanh
nghiệp cũng phải đúng mục đích, phân phối có hiệu quả nếu không đồng vốn mà
doanh nghiệp sử dụng sẽ không đạt hiệu quả cao, thậm chí thua lỗ dẫn đến rủi ro
cho ngân hàng.
- Năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém. Năng lực tài chính là
chỉ tiêu cơ bản thể hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp, từ đó mà xác
định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp
cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản chi nhất
thời quá lớn như thanh toán thuế, tiền lương... hoặc cơ cấu vốn đầu tư của doanh
nghiệp không hợp lý đều có thể gây nên khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng
đúng hạn dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Đạo đức, thiện chí của khách hàng: Vấn đề nổi lên ở đây là chọn lựa đối
nghịch và động cơ không trong sạch của người vay. Trong những giao dịch diễn
ra trên các thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì mà
họ cần phải biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự không cân
bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin không cân xứng.
Ví dụ: trong hoạt động tín dụng Ngân hàng, người đi vay thường có thông tin
tốt hơn về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà họ có dự kiến
tiến hành so với Ngân hàng. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ
thống tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao
dịch diễn ra.
Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi
diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài chính
khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn
(đối nghịch) - tức là rủi ro không trả được nợ - là những người tích cực tìm vay
nhất và do vậy là có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do viêc chọn lựa đối
nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện cho những trường
hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể quyết định không cho
vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi
cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một
rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo
đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động này ít có
khả năng để món vay này hoàn trả.
17
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có
thể quyết định thôi không cho vay nữa. Rủi ro đạo đức nảy sinh trong thị trường
vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt động không
mong muốn theo quan điểm của người cho vay, trong tình trạng như vậy, dễ có
thể là người cho vay này sẽ vị đặt vào sự rủi ro về vỡ nợ. Khi những người vay
đã có món tiền vay, vì mục đích lợi nhuận, họ dễ có thể đầu tư sai mục đích vào
những dự án có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên, sự rủi ro này khiến cho họ khó có
khả năng hoàn trả lại món tiền vay.
Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ
cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện
chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí
của khánh hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng
như cố tình sử dụng vốn sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng, hoặc cũng có
thể là các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng TDNH như kinh doanh trái
pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tất cả các hành vi đó đều có thể
mang lại sự rủi ro cho ngân hàng.
3.2.2. Về phía ngân hàng:
Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía ngân hàng thường
chiếm tỷ trọng nhỏ. Các nguyên nhân này thường xảy ra trong quá trình thực
hiện cho vay, thể hiện qua các mặt sau:
a. Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách hàng
trước khi cho vay. Việc phân tích đánh giá được dựa trên một số chỉ tiêu như uy
tín của khách hàng, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính... Giai đoạn
này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu
về chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách
hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an
toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá
trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm chất
đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp.
Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và phẩm
chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã sa ngã.
Họ có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, gây những
tổn thất to lớn cho Ngân hàng. Do thực tế thu nhập của cán bộ tín dụng hiện nay
18
ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp, càng dẫn đến tình trạng họ
không thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân hàng.
Thứ ba, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một nguyên nhân gây rủi ro quan
trọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phổ biến ở Việt Nam hiện
nay, luôn có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi
khi món vay không được hoàn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài sản thế chấp
để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp
đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Có thể
thấy điều này qua một số nét chính như sau:
- Hiện nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu tố
pháp lý, gây nhiều khó khăn cho Ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay, môi trường
pháp lý về thế chấp, cầm cố tài sản chưa đầy đủ, Luật sở hữu chưa rõ ràng, chưa
có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở
hữu tài sản nên tất cả tài sản của doanh nghiệp Nhà nước và của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh không có chứng nhận sở hữu. Vì vậy, rất khó khăn cho
Ngân hàng khi đem những tài sản thế chấp như vậy ra xử lý. Hơn nữa, cũng
chính tình trạng lỏng lẻo trong công chứng hồ sơ tài sản mà đã xảy ra tình trạng
lừa đảo, một tài sản được đem ra thế chấp tại nhiều Ngân hàng.
- Ngay cả khi tài sản thế chấp là hợp pháp thì rủi ro tín dụng đối với những
dự án được xét duyệt vẫn xảy ra khi giá trị của tài sản thế chấp được định giá
quá cao hay có những biến động đột ngột về giá. Hơn nữa, một khi rủi ro xảy ra,
chi phí cho việc phát mại tài sản là không nhỏ. Những tài sản thế chấp của các
doanh nghiệp là máy móc, thiết bị... phần lớn đều cũ kỹ lạc hậu, đem phát mại
để thu hồi vốn cũng phải mất tới hàng năm. Đối với các tài sản thế chấp là bất
động sản thì lại phụ thuộc vào biến động giá của thị trường bất động sản và quy
hoạch của Nhà nước. Một thực tế nữa là nhiều trường hợp tài sản thế chấp mang
tính đặc thù của doanh nghiệp. Ví dụ như liên hiệp đường sắt mang toa tầu ra để
thế chấp. Trường hợp như vậy nếu có phải phát mại thì Ngân hàng cũng đành bó
tay.
Những hạn chế nêu trên khiến vấn đề thế chấp tài sản trở thành một nguyên
nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam thời
gian qua. Điều này có vẻ như một nghịch lý bởi thế chấp được áp dụng với mục
tiêu hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thực chất luôn phải hiểu rằng thế chấp không phải
là tiêu chuẩn hàng đầu để bảo đảm an toàn tín dụng.
b. Trong giai đoạn giám sát tiền vay:
Giám sát là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám
sát sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng
19
vốn được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Nếu việc giám sát không được thực
hiện thường xuyên và chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào
những mục đích phiêu lưu làm phát sinh rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, thực tế ở
Việt Nam cho thấy, hệ thống kiểm soát của các Ngân hàng yếu kém và lỏng lẻo
khiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng
vay, làm nguy cơ tổn thất tín dụng của Ngân hàng tăng cao, phụ thuộc vào hoạt
động sản xuất kinh doanh của chính những khách hàng này.
Mặt khác, sự hợp tác giữa Ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín
dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí, một số Ngân hàng
thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thông tin tín
dụng, và điều đó dẫn tới việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ
chức tín dụng rất khó khăn. Vì thế, Ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về
việc sử dụng tiền vay.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại còn chưa có được một phương pháp
giám sát khách hàng khoa học và có hiệu quả. Nỗ lực của các Ngân hàng thương
mại là cần phải xây dựng một phương pháp giám sát khoa học để luôn đảm bảo
được sự an toàn cho mình và cho khách hàng.
c. Trong giai đoạn thu nợ:
Xử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với
người vay là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của số nợ quá
hạn, số nợ khó đòi trong giai đoạn này. Điều này gây ảnh hưởng đến lợi ích
trước mắt và lâu dài của Ngân hàng. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp đồng
mà không chú ý đến điều kiện của người vay có thể đẩy khách hàng đến một
hoàn cảnh khó khăn hơn và hoàn toàn mất khả năng trả nợ.
Ngoài ra, việc Ngân hàng xử lý cứng nhắc theo hợp đồng, không thực sự hợp
tác với khách hàng sẽ làm Ngân hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu dài.
Và vì thế, Ngân hàng sẽ dần thu hẹp thị phần của chính mình. Trong nhiều
trường hợp, nếu Ngân hàng có sự hợp tác chặt chẽ cùng xử lý với các khách
hàng căn cứ vào điều kiện của họ thì có thể khả năng trả nợ của khách hàng sẽ
sáng sủa hơn, Ngân hàng sẽ có nhiều khả năng thu hồi được vốn.
4. Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại xảy ra do nhiều nguyên nhân,
khiến cho Ngân hàng không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Nhưng dù là do
nguyên nhân nào thì rủi ro tín dụng cũng gây ra những tác động xấu tới bản thân
Ngân hàng và đối với cả nền kinh tế. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít còn tuỳ thuộc
vào mức độ rủi ro tín dụng.
20
4.1. Tác động của rủi ro tín dụng đến Ngân hàng:
Trước hết, rủi ro tín dụng khi xảy ra sẽ có tác động xấu tới tình hình tài chính
của Ngân hàng. Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường
xuyên nhất của Ngân hàng thương mại, phần lớn thu nhập của Ngân hàng có
được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi phát sinh các khoản nợ quá hạn,
Ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát, thu nợ, chi phí
thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng thời,
khoản nợ này đóng băng, không còn đem lại thu nhập cho Ngân hàng hoặc rất ít,
không đáng kể, trong khi Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy
động được, điều này làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra
rủi ro tín dụng thì không chỉ làm giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn có
tác động lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác của Ngân
hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động rất lớn tới các hoạt động khác của
Ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng, chất lượng tín dụng được
nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, ngược lại, sẽ kìm hãm
các hoạt động khác làm giảm lợi nhuận, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình tài
chính của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính.
Nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là
những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Một Ngân hàng nếu gặp nhiều rủi ro
trong hoạt động tín dụng mà không khắc phục được sẽ gây mất lòng tin của các
đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại Ngân hàng. Khi
đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền thì tất
nhiên thị phần của Ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và do
đó Ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi
những người gửi tiền tại Ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường
hợp đó Ngân hàng không có những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể Ngân
hàng sẽ bị phá sản và sẽ gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ thống Ngân
hàng và nền kinh tế.
4.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn trong
nền kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi ro tín
dụng xảy ra làm Ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi được vốn để
tiếp tục cho vay, do đó rủi ro tín dụng làm giảm vòng quay sử dụng vốn của
Ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế.
21
Mặt khác, hoạt động Ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, hoạt động của
một Ngân hàng có ảnh hưởng đến các Ngân hàng khác. Khi một Ngân hàng đối
mặt với tình trạng rủi ro tín dụng cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của
Ngân hàng, dẫn đến mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của công chúng. Lúc
đó rất có thể Ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản
ứng lan truyền trong toàn hệ thống Ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế
trong nước.
22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I NHĐT&PT VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU
TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM:
1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch một phần gắn liền với sự ra
đời và phát triển của ngân hàng NHĐT&PT Việt nam. Chúng ta có thể chia
thành 3 giai đoạn chính sau:
Giai đoạn 1957- 1990: Đây là giai đoạn hình thành và phát triển NHĐT&PT
Việt nam.
Ngày 26 tháng 4 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ký nghị định 177 - TTG
thành lập “Ngân hàng kiến thiết Việt nam” tại Bộ Tài Chính thay thế cho “Vụ
cấp phát vốn kiến thiết cơ bản”. Ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là thanh toán
và quản lý vốn do nhà nước cấp cho kiến thiết cơ bản, nhằm thực hiện các kế
hoạch phát triển kinh tế và hỗ trợ công cuộc chiến đấu và bảo vệ tổ quốc. Từ
năm 1957-1981, ngân hàng là một cơ quan của Bộ tài chính. Thời điểm này,
hoạt động của ngân hàng nặng về kiểm soát và thanh toán các công trình xây
dựng cơ bản hơn là cho vay, nặng về đánh giá và quản lý trước và trong khi
cung ứng vốn, coi nhẹ quản lý sau khi cung ứng vốn. Ngân hàng không mang
bản chất của một “Ngân hàng”.
Ngày 24 tháng 6 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 259 - CP
về việc chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt nam trực thuộc Bộ Tài chính thành
“Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt nam” trực thuộc Ngân hàng Nhà nước
Việt nam. Với quyết định này ngân hàng được tổ chức của doanh nghiệp quốc
doanh, nhiệm vụ mới của ngân hàng là thu hút và quản lý các nguồn vốn dành
cho đầu tư xây dựng cơ bản các công trình không do ngân sách cấp hoặc không
đủ vốn tự có, đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện ngân sách
đầu tư. Ngân hàng vẫn chưa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh.
Ngày 14 tháng 11 năm 1990 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định
thành lập NHĐT&PT thay thế cho ngân hàng đầu tư và kiến thiết cũ. Bây giờ
ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong nước và ngoài
nước và nhận vốn từ ngân sách nhà nước cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh
vực đầu tư và phát triển.
23
Giai đoạn 1991-1997: Đây là giai đoạn ra đời và tìm hướng đi cho Sở giao
dịch.
Căn cứ và Điều lệ tổ chức, hoạt động của NHĐT&PT Việt nam ban hành
kèm theo quyết định 349QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của Thống đốc ngân hàng
Nhà nước Việt nam. Căn cứ quyết định 76/ QĐ - TCCB ngày 28/3/1991 của
Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt nam về việc thành lập Sở giao dịch NHĐT&PT
Việt nam. Theo đề nghị của trưởng phòng tổ chức hành chính Sở giao dịch
NHĐT&PT Việt nam.
Trong thời gian này, Sở giao dịch NHĐT&PT Việt nam là một đơn vị phụ
thuộc thực hiện cho vay, nhận gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của Sở giao
dịch đều mang tính bao cấp thực hiện theo chỉ thị (Sở giao dịch chủ yếu cho vay
đối với các dự án phát triển kinh tế do NHĐT&PT TW chỉ định) lỗ, lãi không tự
hạch toán, và không tự chịu trách nhiệm. Chủ yếu do ngân hàng mẹ đỡ đầu.
Giai đoạn 1998 đến nay: Đây là giai đoạn Sở giao dịch có bước chuyển biến
lớn thật sự tách ra trở thành một ngân hàng hạch toán độc lập.
Năm 1998- 1999, mặc dù đã chính thức được tách ra nhưng Sở giao dịch vẫn
còn mang dấu ấn của sự bao cấp, chỉ thị. Một số chỉ tiêu về hoạt động kinh
doanh của Sở như: nợ, lợi nhuận, dư nợ, lương, chi phí đều do NHĐT&PT Việt
nam đề ra và áp đặt cho Sở.
Năm 2000, các chỉ tiêu đề ra trên không còn, tuy vậy một số dự án lớn từ
trước vẫn còn kéo dài đến nay. Trong đó có nhiều dự án vẫn còn mang tính bao
cấp chỉ thị. Năm 2001, đây là năm mà Sở giao dịch chính thức trở thành một
đơn vị hạch toán độc lập có quyền tự chủ thực sự trong mọi hoạt động kinh
doanh.
2. Cơ cấu tổ chức:
Cho đến nay, Sở giao dịch gồm có 11 phòng ban, một chi nhánh Gia lâm.
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC SỞ GIAO DỊCH I NHĐT&PT
Ban giám đốc
Tín
24
dụng
Hành
Chính
Kho
quỹ
Giao
dịch
Nguồn
Vốn
Kinh doanh
Kiểm
Tra
Kiểm
Toán
Nội bộ
Thanh
Toán quốc tế
Điện toán
Quản
Lý
Khách
Hàng
Kế
Toán
Tài chính
Chi nhánh Gia lâm
Kế
Toán
Tín
dụng
Nguồn
Vốn
Thanh
Toán
Quốc
Tế
Hành
chính
25