TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA KINH TÊ NGOẠI THƯƠNG
FOREIGN
TRÍ!DE
UNIVERSITT
KHOA
LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài
Lý THUVỂT TRÒ CHƠI - KINH NGHlệm VÀ GIẢI PHIÍP
CHO CÁC DOANH NGHIỆP Vlậ NAM TRONG Quá TRÌNH
HỘI NHỘP KINH Tễ ọuốc Tễ'
Sinh
viên
thực
hiện
:
LÝ
THANH
LUYẾN
Lớp : NHẬT 3 - F- KHOA 40 - HÀ NỘI
Giáo viên hướng dẫn : THS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG ANH
THU" VI •:• N Ị
Ì (UÒ»G
C I
1
-OI.
NGOAI
T Vt.t-l
SI f v ì
HÀ NỘI
-
2005
Khoa luận
tốt
nghiệp
MỤC
LỤC
LỜ3RỐ3
Báa OI
CHƯƠNG
1.
KHÁI QUÁT
VẾ LÝ
THUYẾT
TRÒ
CHƠI
4
ì.
LÝ
THUYẾT
TRÒ CHƠI
4
1.
Lược
sử về lý thuyết trò
chơi
4
2. Vai trò của lý thuyết trò
chơi
trong kinh tẽ
4
3.
Bài toán
kinh
điển:
"Thếnan
giải
của
những
người
bị
giam
giữ"
7
4.
Chiến
lược
trội
ngặt
hay
chiến
lược
có ảnh
hưởng
chi
phối
9
5.
Cân
bằng
Nash
li
S.I
Khái niệm
li
5.2
Thí dụ
12
5.3
Sự
tồn
tại
cân
bằng Nash
lĩ
n.
TRÒ CHƠI
CẠNH
TRANH
HAY HỢP
TÁC
15
1.
Cạnh
tranh
15
1.1 Tác
động tích
cục của
cạnh tranh
đối với các
doanh nghiệp 16
1.2 Tác
động
phi
tích
cực của
cạnh tranh
với
doanh nghiệp
17
2.
Hợp
tác
18
2.1 Tác
động
tích
cực của hợp tác đối
với doanh nghiệp
19
2.2 Tác
động
phi
tích
cực của họp tác đối với
doanh nghiệp
19
3.
Lý
thuyết trò
chơi
vói
cạnh
tranh
và hp
tác
20
3.1
Quan
điểm trước
đây vê
cạnh tranh
và
hợp
tác
20
3.2
Lý
thuyết trò chơi -
một hệ tu
tưởng
mới
21
4.
Độc
quyền
nhóm và
việc
áp
dụng
lý thuyết trò
chơi
23
4.1
Khái niệm
về độc
quyền
nhóm
23
4.1.1
Khái niệm
23
4.1.2
Nguồn
gốc của độc
quyền
nhóm
23
4.2
Đặc
điểm
của độc
quyền
nhóm
24
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
Khoa
luận tốt nghiệp
CHƯƠNG
2 MỘT SỐ ỨNG
DỤNG
LÝ THUYẾT TRÒ
CHƠI
TRONG
KINH TẾ 26
ì.
VẾ VẤN
ĐỂ
ĐỊNH
GIÁ
26
1.
Về mặt
lý
thuyết
26
2.
ứng
dụng
29
2.1
OPEC
- sự lợi hại của họp tác
29
2.1.1 Giới thiệu chung về
OPEC
29
2.1.2
OPEC
- người lãnh
đạo
giá
cả 29
2.1.3 Sức
mạnh
của hợp tác
32
2.2
Mạng
lưới cung cấp dịch vụ di động tại thị trường Việt
Nam
37
2.2.1 Tình huống
37
2.2.2
Phân
tích các chiến lược
38
2.2.3 Kết quả thực tế.
40
3.
Bài học rút
ra
43
li.
NGĂN
CHẶN
GIA
NHẬP
THỊ
TRƯỜNG
43
1.
Lý
luận
chung
43
Việc ngăn chn thất bại
44
1.2 Việc ngăn chn thành công
45
2.
Vô
lý
hay hợp
lý
46
2.1
Cơ
sở lý luận
46
2.2 Nintendo -
Sự
hữu lý của điều vô lý
47
2.2.1 Tiếp cận thị trường
47
2.2.2
Sự
hữu lý của điều vô lý
48
2.2.3 Kết quả
52
3.
Bài học rút
ra
52
ra.
LựI
THẾ
CỦA
NGƯỜI HÀNH
ĐỘNG
TRƯỚC
53
1.
Lợi
thế
trong
trò chơi
lựa
chọn
một
lần
53
2.
Giành
lợi
thế
trong
trò chơi
lặp
đi
lặp
lại
54
Lý
Thanh Luyến - Nhật
3-K40F-KTNT
Khoa
luận tốt nghiệp
2.1
Chặn
trước
sự
mô
phỏng,
bắt
trước
của
đối
thủ
55
2.1.1
Sử
dụng
một
công nghệ bảo vệ
tính
bảo mật
cho
sản
phẩm
55
2.1.2
Đăng
kí
thương hiệu
55
2.2
Biện pháp
duy
trì
lợi
thế khi
việc
bắt
chước
đã
xảy ra
56
3.
Omo
-
người
đi
đầu
57
3.1
Thị trưứng
bột
giặt tại Việt
Nam 57
3.2
Cạnh
tranh
giá là
không cần
thiết
58
3.3
Omo
-
ngưứi hành động
trước
59
4.
Bài học rút
ra
61
IV.
MẶC CẢ 61
1.
Mặc
cả
trong
trò chơi không
họp
tác
61
2.
Mặc
cả
trong
trò chơi
hợp
tác
63
2.1
Tình huống
63
2.2
Các
biện
pháp
chiến lược
64
2.2.1
Thông qua
ngưứi
thứ
ba
65
2.2.2
Sử
dụng
chính
những
bất
đồng
trong
mặc
cả
đề
tạo
ra những
giao dịch
cùng
thắng
cho các bên
66
3.
Thí
dụ
tham
khảo
67
4.
Bài học rút
ra
67
CHƯƠNG 3:
KINH NGHIỆM VÀ
GIẢI PHÁP
CHO DOANH
NGHIỆP
VỆT
NAM
TRONG
QUÁ
TRÌNH
HỘI
NHẬP
KINH TÊ QUỐC
TẾ
69
ì.
NẾN KINH TẾ
VIỆT
NAM
VỚI HỘI
NHẬP
KINH
TẾ
QUỐC
TẾ 69
1.
Xu
thê
hội
nhập
kinh
tê quức tê ngày
nay
69
2.
Tiến
trình
hội
nhập
kinh
tế
quức
tế
của
Việt
Nam 69
3.
Cơ
hội
và
thách
thức
cho Việt
Nam
trong
quá
trình
hội
nhập
kinh
tế
quức
tế
70
3.1
Cữ
hội
của
Việt
Nam
khi tham
gia
hội nhập
70
3.2
Những thách thức cho
Việt
Nam
trong
tiến
trình
hội nhập
71
4.
Doanh
nghiệp
Việt
Nam
với
quá
trình
hội
nhập
72
Lý
Thanh Luyến - Nhật
3-K40F-KTNT
Khoa
luận tốt nghiệp
4.1
Cơ
hội
cho
các doanh nghiệp
Việt
Nam 72
4.2
Thách thức
đặt ra
cho
doanh nghiệp
Việt
Nam 73
n.
KINH
NGHIỆM
VÀ
GIẢI
PHÁP
CHO
CÁC
DOANH
NGHIỆP
VIỆT
NAM
TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP
KINH
TẾ
QUỐC
TẾ
74
1.
Đối
với
các
doanh
nghiệp
lớn
75
1.1
Đối
với
các doanh nghiệp độc quyền
75
1.2
Đối
VỚI
các doanh nghiệp
lớn
khác
76
1.2.1
Cạnh
tranh bằng giá
77
1.2.2 Giành lợi
thế
cạnh tranh bằng thương hiệu
77
1.2.3
Hợp
tác nhân đôi thương hiệu
79
2.
Đối
với
các
doanh
nghiệp
vừa và nhỏ
79
2.1
Hợp
tác trong
cùng ngành
nghề.
80
2.2
Nhượng quyền thương
mại 81
2.3 Giãi
pháp
cho
người
đi
sau
81
2.3.1 Lợi
thế
giá thấp
82
2.3.2
Tạo
ra hoặc tăng thêm giá trị gia tăng của sản
phẩm
82
2.3.3
Phân
đoạn thị trưởng sản
phẩm
83
2.3.4
Các
dịch vụ khuyến mãi đi
kèm
83
2.3.5
Đi
trước mt bước
84
3.
Đối
với
các
doanh
nghiệp
nói chung
84
31 Nhận
thức
đúng về
canh tranh, họp tác rà môi quan hệ tranh hợp
trong quá
trình
xây dụng chim hạc
84
3.2
Xây
dựng các
chiến
lược
86
3.2.1 Chiến lược công nghệ
Số
3.2.2 Chiến lược tài chính
87
3.2.3 Chiến lược nhân
sự
87
3.2.4 Chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh
87
3.2.5 Xay dựng chiến lược hi nhập
88
KỂTLHậH
90
Lý
Thanh Luyến - Nhật
3-K40F-KTNT
Khoa luận
tốt
nghiệp
LỜI
RỐI Báa
l.Tính cấp thiết của đề tài
Hội
nhập
kinh tế
quốc tế -
xu
thế
chung
của
thời
dại
- đòi
hỏi
các
quốc
gia phải
không
ngừng
nỗ
lực
để mỏ
rộng
hợp tác
quốc
tế,
từng
bước
tự
do
hoa nền
kinh tế.
Và
Việt
Nam,
với
tư cách là một thành viên của nền
kinh tế thế
giới,
cũng
không
thể
đứng ngoài xu
thế
chung đó.
Nhụng năm
gần
đây,
Việt
Nam vẫn
tiếp
tục
đẩy
mạnh
hợp
tác, tham gia
các tổ
chức
trong
khu
vực,
trải
qua các vòng đàm phán để
tiến
tới
gia nhập
tổ
chức
thương mại
thế
giới.
Cùng
với nhụng
nỗ
lực
của nhà
nước,
các
doanh
nghiệp
trong
nước
cần
có sự
chuẩn bị
sẵn sàng về
tinh
thân,
về
lực
lượng
để
tham
gia
vào sân chơi
chung
của
thế
giới.
Muốn giành được sự chủ động
khi
gia
nhập, doanh
nghiệp
cần
được
trang
bị
nhụng
hiểu
biết
chung
về
thị
trường
thế
giới
cũng
như
tiếp
cận
dần
với
nhụng
hình
thức
kinh
doanh mới.
Lý
thuyết
trò
chơi
là
một phương pháp phân tích tình
huống
và đưa
ra
các
chiến
lược.
Lý
thuyết
trò
chơi
lần
đầu tiên
xuất
hiện trong
lĩnh
vực
quân
sự.
Sau
đó,
do tính
thiết
thực
của
nó
trong
thực
tiễn
mà dần dần lý
thuyết
trò
chơi được ứng
dụng
ở hâu
hết
các
lĩnh
vực xã
hội,
từ quân
sự,
an
ninh,
chính
trị,
luât,
Và
trong kinh
tế,
lý
thuyết
trò chơi đã
thu
hút sự
tham
gia
nghiên cứu tìm tòi của
nhiều
nhà học
giả,
nhà
kinh tế.
Thế
giới
ghi nhận
nhụng
đóng góp của lý
thuyết
trò chơi
trong kinh tế
bằng
các
giải
Nobel
trao
cho các nhà nghiên cứu
nó.
Năm
1994,
ba nhà tiên
phong
trong
nghiên
cứu
lý
thuyết
trò chơi là
John Nash, John
Harsanyi
và
Reihart Selten
đã
vinh
dự
nhận
giải
thưởng
cao
quý
đó.
Và một
diều
đáng
mừng
đã
xảy
ra
sau
khi
em
chọn
đề tài
là:
một sự
kiện
gây xôn xao
trong
giới
kinh tế khi
giải
Nobel
2005
lại tiếp
tục
được
trao
cho
hai
nhà nghiên cứu lý
thuyết
trò chơi
là
Ông Thomas
Schelling
và ông
Robert
Aumann.
Trong
dó,
ông
Schelling,
nhà nghiên cứu về lý
thuyết
trò chơi
trong kinh
tế,
đã
tập trung
vào vấn đề
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT Ì
Khoa luận
tốt
nghiệp
xoay
quanh xung
đột
và hợp
tác,
đặc
biệt
là
tranh
chấp
giá cả và
chiến tranh
thương
mại.
Ngay các vị giám
khảo
của
Viện
Hàn lâm Hoàng
gia
Thúy
Điển cũng nhận
định:
lý
thuyết
trò
chơi
sau
khi
được phát
triển
có
thể
được
sử
dụng
làm công cụ
giải
quyết
các
xung đột
về
kinh
tế,
thương
mại.
Còn
đối với
phạm
vi
các
doanh
nghiệp,
lý
thuyết
trò chơi
lại
được xem như một
công cụ
tối
cần
thiết
để có được
nhẻng
chiến
lược
kinh
doanh
tối
ưu.
Với
mong muốn tìm
hiểu
rõ hơn lý
thuyết
trò chơi là gì? Nó được
ứng dụng ra
sao mà các
doanh
nghiệp
lại
đề cao
vai
trò
trong
định
hướng
chiến
lược như
vậy?
Và lý
thuyết
trò chơi có
thể
giúp gì cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam
trong
quá trình
hội
nhập
kinh tế
quốc
tế?
Em
xin
mạnh
dạn
chọn
dề
tài "Lý
thuyết
trò
chơi,
kinh nghiệm và
giải
pháp cho cho các doanh
nghiệp
Việt
Nam
trong
quá
trình
hội nhập kinh tế quốc
tê
"
cho khoa
luận
tốt
nghiệp
của
mình.
2. Mục đích của khoa
luận
Lý
thuyết
trò
chơi ngày càng có
vai
trò
quan
trọng trong kinh
tế.
Qua
khoa
luận
này,
em muốn tìm
hiểu
rõ hơn về phương pháp phân tích
kinh
tế
mới
mẻ
này,
các ứng
dụng
mang tính
thực
tiễn
của
nó,
từ
đó rút
ra
các bài
học
kinh
nghiệm.
Trên cơ sở
đó, kết
hợp
với
các
kiến
thức
đã được nhà
trường
trang bị,
mạnh
dạn đưa
ra
một số
giải
pháp cho các
doanh
nghiệp
trong
thực
tiễn
kinh
doanh
và
chuẩn
bị cho quá trình
hội
nhập
kinh tế với
khu
vực
và
thế
giới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để
thực
hiện
khoa
luận
này,em sử
dụng
các phương pháp nghiên cứu
như phương pháp duy
vật biện
chứng,
phương pháp hệ
thống,
so
sánh,
phân
tích,
tổng
hợp,
và có
sự
kết
hợp
giẻa
lý
luận
và
thực
tiễn
thông qua các tài
liệu,
sách báo của các tác
giả trong
và ngoài
nước.
Khoa
luận
cũng
vận
dụng
các
quan
điểm,
đường
lối,
chính sách về phát
triển
kinh tế
và
hội
nhập
của
Đảng
và Nhà nước để làm cơ sở
vẻng chắc
cho
việc
phân tích và đề
ra
các
giải
pháp.
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
2
Khoa
luận tốt nghiệp
4. Bố cục của
khoa
luận
Ngoài các
phần
Mục
lục,
Lời
mở
đầu,
Kết
luận,
Tài
liệu
tham khảo,
Khoa
luận
được
chia
làm 3 chương:
Chương
ì:
Khái quát
vé
lý
thuyết
trò
chơi
Chương
li:
Một số ứng dụng
lý
thuyết
trò
chơi trong
kinh
tê
Chương IU: Kinh nghiệm và
giải
pháp cho các doanh nghiệp
Việt
Nam
trong
quá
trình
hội nhập kinh tế quốc tế
Trong
quá trình
thực
hiện,
em đã cố
gắng
tìm
hiểu
tài
liệu
của cả
trong
và ngoài
nước,
cập
nhật
các thông
tin
mới
nhất.
Tuy
nhiên,
do
nhiều
nguyên nhân cả chủ
quan lẫn
khách
quan
nên đề tài không tránh
khỹi
những
thiếu
sót.
Vì
vậy,
kính
mong
quý
thầy
cô và các bạn
sinh
viên
quan
tâm, thông cảm và góp ý để
khoa
luận
của
em hoàn
thiện
hơn.
Qua
đây,
em
xin
cảm ơn nhà trường và
khoa
kinh tế
ngoại
thương đã
gợi
ý cho em đề
tài
hay
cũng
như
tạo
điều
kiện
cho em
trong suốt
quá trình
viết
khoa
luận
tốt.
Em
cũng
xin
bày
tỹ
lòng
biết
ơn chân thành
nhất
tới
cô
giáo
hướng
dẫn, Thạc
sỹ
Nguyễn
Thị
Tường
Anh. Sự
nhiệt
tình
hướng
dẫn,
chỉ
bảo và
dộng
viên của cô là
nguồn
động
lực lớn lao
giúp em hoàn thành
khoa
luận
này.
Em
xin
chân thành cám ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2005.
Lý
Thanh Luyến - Nhật 3-K40F-KTNT
3
Khoa
luận
tốt
nghiệp
CHƯƠNG
1.
KHÁI QUÁT VỀ LÝ
THUYẾT
TRÒ CHƠI
L LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI
1.
Lược sử về lý
thuyết
trò
chơi.
Lý
thuyết
trò chơi
ra đời lần
đầu tiên
trong lĩnh
vực quân
sự.
Đó là
những
ngày đầu
của thế chiến
hai,
khi lực
lượng
hải
quân Anh chơi trò mèo
vờn
chuột
với
các tàu
chiến
ngầm của phát xít Đức. Bằng cách áp
dụng
những
khái
niệm
sau này được
biết
như
lý thuyết trò
chơi,
người
Anh đã có
thể
bắn trúng
nhiều
tàu ngầm của
đễch
hơn. Như
vậy,
chính nhu cẩu
thực
tiễn
đã cho
ra dời
lý
thuyết
trò
chơi.
Tiếp đó,
lý
thuyết
trò chơi
lại tiếp
tục
dược
áp
dụng
nhiều
hơn
trong
những
lĩnh
vực khác
nhau.
Và năm
1944,
nhà
toán học thiên
tài
John
von
Neumann
và nhà
kinh tế
Oscar
Morgenstern
đã
xuất
bản
cuốn
sách
mang
tựa
đề "Lý
thuyết
trò chơi và hành
vi kinh tế".
Cuốn
sách đã đề cập đến "Thế nan
giải
của
hai
nguôi tù" và
lần
đầu tiên
"bài toán
trò
chơi
với
n
người"
được trình bày một cách rõ ràng về mật toán
học.
Cuốn sách
ngay
từ khi
mới
ra đời
đã được xem như một công trình
khoa
học
xuất sắc,
một thành
tựu
khoa
học vĩ đại của thế
kỷ XX. Có
thể
nói
đây là mốc đánh dấu cho sự
ra
đòi của lý
thuyết
trò chơi
trong kinh tế.
Ngày
nay,
lý
thuyết
trò chơi vẫn đang được áp
dụng
nhiều trong kinh tế,
đặc
biệt
là trong lĩnh
vực
chiến
lược
kinh
doanh.
2. Vai
trò của lý
thuyết
trò chơi
trong kinh tế
- Thứ
nhất:
Phải
nói
rằng
lý
thuyết
trò chơi
cung
cấp
cơ sở toán học,
phương pháp phân tích để nghiên cứu sự tương tác
giữa
con nguôi
trong đời
sống
kinh
tế,
chính
trễ-xã hội từ
quan
điểm
những
tiềm
năng
chiến
lược của
cá nhân và các nhóm.
Rõ
ràng,
"trò
chơi"
ở đáy không còn
mang
ý
nghĩa
thông thường là
vui
chơi và
giải
trí
như
trong từ
điển
mà dựa trên
những
nguyên
tắc
của trò
Lý
Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
4
Khoa
luận
tốt
nghiệp
chơi dể đưa
ra
những
mô hình toán
học.
Việc
xây
dựng
mô hình toán học
cho
các quá trình
kinh tế
không chỉ có ý
nghĩa
về mặt lý
thuyết,
mà lý
thuyết trò
chơi còn được áp
dụng
thực
hành
nhiều
trong
cả
sản
xuất
lẫn kinh
doanh
và dem
lại
nhiều
hiệu
quả
trong
thực
tiễn
như mô hình
Cournot
với
hai
công
ty
độc
quyền
trong
quản
lý sản
xuất,
hay trò chơi cân
bờng
Nash-
Bayes
trong
đấu
giá,
Một số nhà
kinh tế
trên
thế
giới
cũng
đã dựa trên
mô hình toán
trong
lý
thuyết
trò chơi để đề cập một cách tường
minh
tới
quá trình thương lượng
hoặc
tác động qua
lại
giữa
con
người
với
con
người
trong
cuộc
sống.
- Thứ
hai:
Lý
thuyết trò
chơi
tập trung
vào
vấn
đề gây
nhiều
khó khăn
nhất
trong kinh
doanh:
Đó là xây
dựng
các
chiến
lược đúng đắn và
ra
các
quyết
định đúng đắn.
Trong
quá trình làm
kinh
tế,
có
lẽ
mọi
người
hay chú ý
tới việc
làm
thế
nào
tạo
được một môi trường
quản
lý để có
thể
đưa
ra
những
quyết
định
đúng.
Rồi
cũng
có
nhiều
cuốn
sách giá
trị
hướng dẫn làm
thế
nào để xây
dựng
các
tổ
chức
một cách
hiệu
quả nhờm
thực
hiện
các
quyết
định đã đưa
ra.
Tuy nhiên, vẫn cần
phải
có thêm
những
chỉ dẫn để
nhận
biết
đâu là
chiến
lược đúng đắn dể
bắt đầu.
Và dó chính là điều mà lý
thuyết
trò chơi
mang
lại.
Nó đi
thẳng
vào
điểm
mấu
chốt
của vấn
đề, chỉ
cho
ta thấy
trước
hết cần phải
làm
những
gì trên
quan
điểm
về
chiến
lược.
Như chúng
ta
biết,
trong
quá trình
tiến
hành làm
kinh
tế,
các
doanh
nghiệp
luôn
phải
phân tích
các yếu
tố
về môi trường
cũng
như
đối thủ
cạnh
tranh
để đưa ra
những
quyết
định
chiến
lược về giá
cả, chi
tiêu
quảng
cáo,
đầu tư
vốn
mới,
Một
loạt
các câu
hỏi đặt ra
cho
doanh
nghiệp
giải
đáp
như:
tại
sao các hãng
lại
có xu hướng
cấu kết
nhau
trên một
số thị
trường này và
cạnh
tranh với
nhau
một
cách gay
gắt
trên
những
thị
trường khác? Một
số
hãng
xoay
sở như
thế
nào để ngăn
chặn
những
đối thủ
cạnh
tranh tiềm
tàng của họ đi vào
trong
doanh
trường? Các hãng
phải
tiến
hành định giá
ra
sao
khi
các điều
kiện
nhu cầu
hay
chi
phí
dang
thay đổi
hoặc
những
đối thủ
cạnh
tranh
mới đang
Lý
Thanh Luyến - Nhật
3-K40F-KTNT
5
Khoa
luận
tốt
nghiệp
đi vào
thị
trường?,
Để
trả
lời
những
câu
hỏi
này,
doanh
nghiệp
phải
thu
thập
thông
tin,
đánh giá phân tích tình hình. Và lý
thuyết
trò chơi là một
trong
số
ít
các phương pháp hữu
hiệu
giúp
doanh
nghiệp
đưa
ra
các
chiến
lược
và
lựa
chọn
quyết
định
chiến
lược đúng đắn sao cho có
lợi
nhất.
- Thứ
ba:
Kinh
doanh
luôn
diạn
ra
trong
một
thế
giới
đầy
những
sự
phức
tạp
khôn
lường.
Vô
số
các
yếu
tố
thường
xuyên tác động
tới
hoạt
động
của
doanh
nghiệp,
trong
đó không
ít
yếu
tố
khó đoán
biết
trước
được.
Thậm
chí
ngay
cả
trong
trường hợp có
nhiều
yếu
tố
liên hệ tương tác qua
lại
lẫn
nhau
và cả
khi
doanh
nghiệp
nhận
biết
được
tất
cả các yếu
tố
liên
quan
thì
bất
kỳ yếu
tố
nào
thay đổi
cũng
có khả năng gây ảnh hưởng
tới
những
yếu
tố
khác,
ảnh hưởng
tới
sự thành
bại
của doanh
nghiệp.
Giữa
sự
phức
tạp
của
các yếu
tố
như
vậy,
lý
thuyết
trò chơi có khả năng bóc tách vấn đề thành
các
phần
chủ
yếu,
giúp
ta thấy
rõ
điều
gì đang xảy
ra
và
cần
hành động như
thế
nào.
Hơn
nữa,
khi
các
đối
thủ
trong
ngành cùng
tiếp
cận và
hiểu
rõ ý
nghĩa
của lý
thuyết
trò chơi thì
việc phối kết
hợp
với
nhau
hay
việc
quyết
định
cạnh
tranh
hay hợp tác sẽ được đưa
ra
một cách dạ dàng và
hiệu
quả
nhất.
Hay nói cách khác thì lý
thuyết
trò chơi sẽ đảm bảo sự
nhất
trí
giữa
các bên để
đạt
tới
kết
quả có
lợi
nhất
cho các bên mà
trong
lý
thuyết
trò
chơi
gọi
đó
là
cùng
thắng
hay
"win-win".
- Thứ
tư:
Trong
thời
đại
ngày
nay,
việc
áp
dụng
lý
thuyết
trò chơi
trong
kinh
doanh
càng được
quan
tâm
tới nhiều
hơn
bởi
trước
những đổi
thay
nhanh
chóng của
thị
trường và công
nghệ
đòi
hỏi phải
nhanh
chóng có
thông
tin
chiến
lược
phản
hồi.
Việc
ra
quyết
định
cũng
trở
nên
phức
tạp
và
phân tán hơn. Do đó,
việc chia
sẻ suy
nghĩ
chiến
lược cần
phải
có
trong
hoạt
động
kinh
doanh
ở mọi
nơi.
Mặt
khác,
lý
thuyết
trò chơi
gợi ra
những
phương án
lựa
chọn
cho mỗi
bối
cảnh
kinh
doanh.
Nó không
chỉ
đơn
thuần
phù hợp cho một
thời
điểm
cụ
thể,
và
cũng
không vô
hiệu
ngay
lập tức khi
các
điều
kiện
xung quanh
thay đổi.
Tức là lý
thuyết
trò chơi chính là cách
Lý
Thanh Luyến - Nhật 3-K40F-KTNT
6
Khoa
luận
tốt
nghiệp
suy
nghĩ
có
thể tồn
tại trong
các môi trường
kinh
doanh
đang
biến
đổi
không
ngừng.
3.
Bài toán
kinh
điển: "Thế nan
giải
của
những người
bị
giam
giữ"
Những trò chơi
kinh
tế
mà các hãng, các
doanh
nghiệp
tiến
hành
trong
quá trình
hoạt
động của mình gồm
hai
loại
là
trò
chơi
hợp
tác
và
trò
chơi không hợp
tác.
Trò chơi sẽ là hợp tác
khi
những người
chơi có
thể
thương
lượng
những
hợp đồng ràng
buộc
khiến
họ có
thể
hoạch
định
những
chiến
lược
chung.
Ví
dụ,
việc
mặc cả giá của một sản phậm nào đó
giữa
người
mua và
người
bán. Nếu
tổng chi
phí để sản
xuất
ra
sản phậm này là
100
USD và
người
mua
thì
đánh giá
sản
phậm đó 200 USD. Ở đây có
thể
có
một
giải
pháp hợp tác cho trò chơi vì một
thoa
thuận
bán sản phậm
với
bất
kỳ
giá nào
giữa loi
USD và 199 USD đều sẽ đem
lại
thặng
dư tiêu dùng
cho người
mua và
lợi
nhuận
cho
người
bán. Kết quả là cả
hai
đều có một
khoản
dư dôi
ra
so
với
dự tính.
Trò chơi sẽ
là
không hợp tác nếu
việc
thương
lượng
và
thực hiện
một
hợp
đồng ràng
buộc là
không
thể
có.
Ví
dụ, hai
công
ty
đang
cạnh
tranh với
nhau
đều lưu ý
tới
thái độ
chắc
phải
có của công
ty kia
nhưng độc
lập
xác
định
một
chiến
lược định giá và
quảng
cáo để giành
phần
thị
trường.
Như
vậy,
điểm
khác
nhau
cơ bản
giữa
trò
chơi hợp tác và trò chơi không hợp tác
là
việc giữa hai
bên có hợp đồng ràng
buộc
hay không.
Trong
khuôn khổ cho phép,
luận
văn này sẽ
tập
trung
chủ yếu vào
phần
các trò chơi không hợp tác và
chỉ
dề cập
tới
một ứng
dụng
khá phổ
biến
của trò
chơi hợp tác
trong kinh tế kinh
doanh.
Để
tiếp
cận
dễ dàng hơn,
ta
cùng làm
quen
với
một bài toán
điển
hình
của
loại
trò
chơi không hợp tác
này: bài toán
"thế
nan
giải
của những người
bị
giam
giữ".
Tình huống: Đây là bài toán mà
bất
kỳ
ai khi
nhắc
tới
lý
thuyết
trò
chơi đều
nghĩ
tới
dầu
tiên.
Đúng như tên
gọi,
bài toán
dặt ra
một tình
thế
khó xử
giữa hai
người tù: Hai người
bị
bắt
vì bị cho là dính líu vào một
tội
Lý
Thanh Luyến
-
Nhật
3-K40F-KTNT
7
Khoa
luận
tốt
nghiệp
ác nghiêm
trọng
và bị
giam
trong
những
xà
lim
riêng
biệt.
cảnh
sát đã
giải
thích cho họ
kết
cục
những
hành động mà họ
thực
hiện:
nếu anh là
người
duy nhất
thú
tội
thì anh sẽ được đền đáp
bằng
một án nhẹ là Ì năm,
trong
khi
người
tù
ngoan
cố
kia
sẽ
phải ngồi
tù 10 năm. Nếu cả
hai
cùng thú
tội,
thì
cả
hai
sẽ được
hưởng
một
sự
khoan
hồng
nhất
định là mới
người
sẽ
nhận
5 năm
tù.
Cuối
cùng, nếu không
ai
thú
tội,
vân có
thể kết
tội
cả
hai người
một
tội
án
nhẹ
hơn
với
mức án
là
2 năm.
Sự
lựa
chọn
chiến lược:
Rõ ràng bài toán cho phép mới
người
chơi (ở
đây
là
hai
tù
nhân)
có
hai
sự
lựa
chọn
là
thú
tội
hoặc
không thú
tội,
do đó sẽ
có bốn
chiến
lược có
thể
xảy
ra
là:
- Tù nhân Ì thú
tội,
tù nhân 2 thú
tội
-> tù nhân
Ì:
5 năm tù
;
tù nhân
2:
5 năm
tù
- Tù nhân Ì thú
tội,
tù nhân 2 không thú
tội
-> tù nhân
Ì:
Ì
năm tù ;
tù nhân 2:10 năm tù
- Tù nhân Ì không thú
tội,
tù nhân 2 thú
tội
-ỳ tù nhân
1:
10 năm tù ;
tù nhân
2:
Ì năm tù
- Tù nhân Ì không thú
tội,
tù nhân 2 không thú
tội->
tù nhân
1:
2
năm tù
;
tù nhân
2:
2 năm tù.
Để
thấy
rõ hơn các
chiến
lược,
ta biểu diễn
theo
như ma
trận
sau:
Tù nhân 2
Tù nhân 1
Thú
tội
Không thú
tội
Tù nhân 1 Thú
tội
-5
;
-5
-1;
-lũ
Tù nhân 1
Không thú
tội
-10;
-1
-2
;
-2
Trong
đó:
-
trong
các ô
chiến
lược,
kết
cục của tù nhân Ì
viết
trước,
kết
cục của
tù nhân 2
viết
sau.
Lý
Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
8
Khoa tuân
tốt
nghiệp
- Do
là
mức
phạt
tù nên
kết
quả mang dấu âm.
Trên
thực
tế,
kết
quả
nhận
dược
là
cả
hai
đều thú
tội,
tức là
chiến
lược
(thú
tội;
thú
tội)
dược
lựa
chọn.
Và về mặt lý
thuyết
cũng
có
thể thấy
(thú
tội;
thú
tội)
là
kết
quả hợp
lý,
và thú
tội
là phương án
tốt
nhất
cho mỗi tù nhân
bất
kể
người
kia
quyết
định
như
thế
nào.
Do mỗi tù nhân đều mong muốn
tối thiểu
hoa
thời
gian
mà anh
ta phải
ở tù nên nếu cả
hai
đều không thú
tội
là
kết
quả
tốt
nhất
cho
cả
hai
người.
Nhưng
chuyỏn
gì sẽ xảy
ra
khi
chỉ
có một
người
thú
tội?
Rõ
ràng
khi
đó một
người
sẽ được
lợi
chỉ bị
tù Ì năm
trong khi
người
kia
lại
bị
tù
tới
lo
năm. Vì
thế,
nếu không có sự
thoa
thuận
trước thì không tù nhân
nào muốn
chọn
phương án không thú
tội,
tức
là đi
khỏi
kết
cục có
lợi
nhất
cho
cả
hai
người.
Vì lý do đó mà bài toán
"thế
nan
giải
của
những
người
bị
giam
giữ"
được xem là
thí
dụ mẫu
của
hành
vi
có lý
trí,
tư
lợi
nhưng không
dẫn
tới
một
kết
quả
tối
ưu xã
hội.
4. Chiến
lược
trội
ngạt
hay
chiến
lược có ảnh hưởng
chi phối
Trong
bài toán
"thế
nan
giải
của
những
người
bị
giam
giữ"
trên,
ta
thấy
phương án thú
tội
là
lựa
chọn
tốt
nhất
cho mỗi tù nhân
bất
kể
người
kia
làm
gì.
Và
trong
lý
thuyết
trò chơi
người ta gọi
đó là
chiến
lược
trội
ngặt
hay
một
số
giáo trình
gọi
đó
là
chiến
lược có ảnh hưởng
chi
phối.
Vậy
chiến
lược
có ảnh hưởng
chi phối
là
gì?
Trong
quá trình
tiến
hành trò
chơi,
dựa vào
những
kết
quả có
thể
có
của
trò chơi
cũng
như thái độ hợp lý của
người
chơi mà
ta
quyết
định
lựa
chọn
chiến
lược
tốt
nhất.
Một số
chiến
lược có
thể
thành công nếu
đối thủ
cạnh
tranh
có
những
sự
lựa
chọn
nào
dó,
nhưng sẽ
thất
bại
nếu họ có
những
sự
lựa
chọn
khác.
Tuy
nhiên,
nhiều chiến
lược
lại
có
thể
thành công
bất
kể
đối thủ
cạnh
tranh lựa
chọn
gì.
Đây
là
bản
chất
của
khái
niỏm
chiến
lược có
ảnh
hưởng
chi phối
-
chiến
lược được xem là
tối
ưu
đối
với
một
người
chơi
bất
kể
đối
phương làm gì.
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
9
Khoa luận
tốt
nghiệp
Để hiểu
rõ hơn khái
niệm
này, ta
cùng xem
thí
dụ
sau:
Hai
hãng A và B đang bán
những
sản phẩm có sức
cạnh
tranh với
nhau
và đang xem xét có nên
tiến
hành các
chiến
dịch
quảng
cáo hay
không. Nhưng mỗi hãng sẽ
chịu
tác động
bởi
các
quyết
định của
đối thủ
cạnh
tranh với
mình. Những
kết
quả có
thể
có của trò chơi được
minh
hoa
bởi
ma
trấn
sau:
HãngB
Quảng cáo
Không
quảng
cáo
Hãng A Quảng cáo
10;
5
15
;0
Không
quảng
cáo 6; 8
10;
2
Trong
mỗi ô
chiến
lược,
số đứng trước là
lợi
nhuấn
thu
được của
hãng A;
số
đứng
sau là
lợi
nhuấn
thu
được
của
hãng B.
Trong
bài toán này, mỗi hãng sẽ
lựa
chọn
chiến
lược nào? Trước
hết
với
hãng A: Rõ ràng hãng này
phải
quảng
cáo
bởi lẽ bất
kể hãng B làm gì
thì
việc tốt
nhất
hãng A nên làm vẫn là
quảng
cáo.
Ma
trấn
cho
thấy:
nếu
hãng B
quảng
cáo thì hãng A nên
quảng
cáo vì
lợi
nhuấn
thu
được nhờ
quảng
cáo
vẫn lớn
hơn
lợi
nhuấn
khi
không
quảng
cáo
(lo
>
6);
nếu hãng B
không
quảng
cáo
thì
hãng A
sẽ thu
được
tới
15 nếu nó
quảng
cáo và
chỉ thu
được
lo nếu không
quảng
cáo. Do
vấy,
quảng
cáo là
chiến
lược có ảnh
hưởng
chi phối đối với
hãng A. Tương
tự
như
vấy, với
hãng B
quảng
cáo
cũng
là chiến
lược
tốt
nhất
bất
kể hãng A làm
gì.
Chùy:
+
Giả
thiết
đặt ra là
tất
cả
người
chơi đều
phải
có
kiến
thức
chung,
tức là
mọi
người
chơi đều có lý
trí
và
biết
rằng
đối thủ
khác
cũng
có lý
trí.
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
10
Khoa luận
tốt
nghiệp
+ Không
phải
mọi trò chơi đều có một
chiến
lược có ảnh hưởng
chi
phối đối với
mỗi
người
chơi.
Với việc cải
biên bài toán
quảng
cáo một chút
ta
có
thể thấy
rõ
điều
dó.
Giả
thiết
bài toán
dặt ra
vẫn như
trên,
tuy
nhiên
trong
trường hợp cả
hai
hãng cùng không
quảng
cáo
thì
hãng A sẽ có
lợi
nhuận
là
20,
còn hãng
B có
lợi
nhuận
là
2.
Do vậy ma
trận
sẽ
trở
thành:
HãngB
Hãng A
Quảng cáo
Không
quảng
cáo
Hãng A
Quảng cáo
10;
5
15
;
2
Hãng A
Không
quảng
cáo 6
;
8
20;
2
Lúc này, hãng A không có
chiến
lược có ảnh hường
chi phối
mà
quyết
định
tối
ưu
cằa
hãng
phải tuy thuộc
vào chỗ hãng B làm
gì.
Nếu hãng
B
quảng
cáo
thì
hãng A làm
việc
tốt
nhất
cho mình là
quảng
cáo,
nhưng nếu
hãng B không
quảng
cáo thì
việc tốt nhất
hãng A nên làm
cũng
là không
quảng
cáo.
Nếu
hai
hãng cùng
phải ra quyết
định đồng
thời,
vấn đề
đặt ra
là
hãng A
sẽ quyết
định như
thế
nào?
Để trả
lời
câu
hỏi
này
ta
cùng tìm
hiểu
một khái
niệm
quan
trọng
nhất trong
lý
thuyết trò
chơi.
Đó là cân
bằng
Nash.
5.
Cân
bằng
Nash
5.1
Khái niệm
Điều
quan
trọng nhất trong
mỗi trò chơi là
ta phải
xác định
kết
quả
hẳn
có
cằa trò
chơi
đó.
Muốn
vậy, ta phải đi
tìm
những
chiến
lược kiên định
hay
còn
gọi là chiến
lược
tự
tuân
thằ (chiến
lược kiên định
là chiến
lược mà
người
chơi không
muốn
chệch
khỏi
đó
bởi
nó là
phản
ứng
tốt
nhất cằa
anh
ta
đối với
các
chiến
lược dự đoán
cằa
những
người
chơi còn
lại).
Mọi
chiến
lược
có ảnh hưởng
chi phối
đều là
chiến
lược kiên định nhưng không
phải
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
li
Khoa
luận
tốt
nghiệp
trò chơi nào
cũng
có
chiến
lược có ảnh hưỏng
chi phối.
Vì vậy để đi
tới
kết
quả
của trò chơi
ta
cần một
lời
giải
chặt chẽ hơn.
Năm
1951,
nhà
khoa
học
Min
Nash đã đưa
ra lòi
giải
đó
bằng
một
thế
cân
bằng.
Do
vậy,
người
ta gọi
đó là cân
bằng
Nash.
Dưới
góc độ
nhập
môn và không quá thiên về toán
học, ta
có
thể hiểu
một cách dem
giản
khái
niệm
đó như
sau:
Một
thế
cân
bằng
Nash
là
một
tập
hợp các
chiến
lược
(hay
hành
vi)
khiến
cho mỗi
người
chơi
nghĩ
(một
cách đúng
địn)
rằng
mình đang làm
việc
tốt
nhất
có
thể
làm
khi
đã
biết
các hành
vi
của
những
đối thủ
của mình. Vì mỗi
người
chơi
không có
dộng
cơ xa
rời
chiến
lược Nash của mình nên các
chiến
lược đều
kiên định.
5.2
Thí dụ
Thí du
Ị:
Trong
bài toán
"thế nan
giải
của
những
người
bị
giam
giữ",
kết
cục (thú
tội
;
thú
tội)
chính là một cân
bằng
Nash.
Nếu tù nhân Ì
chọn
chiến
lược
tốt
nhất
là thú
tội
thì chiến
lược
tốt
nhất
cho tù nhân 2 là thú
tội.
Ngược
lại,
tù nhân 2
chọn
chiến
lược
tốt
nhất
là
thú
tội
thì
tù nhân Ì
cũng
sẽ
chọn
chiến
lược thú
tội.
Và
cuối
cùng,
(thú
tội;
thú
tội)
là kết
quả mà
tại
đó
không tù nhân nào muốn
thay đổi lựa
chọn
của
mình.
Thí du 2:
Trong
bài toán về
quảng
cáo,
cân
bằng
Nash là cặp
chiến
lược
cả
hai
hãng đều
quảng
cáo.
Vì
quảng
cáo là
chiến
lược có ảnh hưởng
chi
phối đối với
cả
hai
hãng A và B, nên đó là
những
chiến
lược kiên định.
Và
khi
đã
biết
đối thủ
cạnh
tranh
quyết
định
chọn
quảng
cáo thì mỗi hãng
đều
hài lòng
rằng
mình đã có một
quyết
định
tốt
nhất
có
thể
có và không có
động
cơ
thay đổi
quyết
định
của
mình.
Trên đây là
những
thí dụ mà ở đó mỗi đấu
thủ
đều có
chiến
lược có
ảnh
hưởng
chi phối.
Thế cân
bằng
trong chiến
lược có ảnh hưởng
chi phối
chỉ là
một trường hợp đặc
biệt
của
cân
bằng
Nash.
Xét cân
bằng
Nash
trong
trường
hợp
trò
chơi không có
chiến
lược có ảnh hưởng
chi phối. Trở
lại
với
bài toán
quảng
cáo
dạng
cải
biên và
trả
lời
câu
hỏi
đã
đặt
ra,
nếu
hai
hãng
phải ra
quyết
định
dồng
thời
thì
hãng A sẽ
quyết
định như
thế
nào? Từ ma
Lý
Thanh Luyến
-
Nhật
3-K40F-KTNT
12
Khoa
luận
tốt
nghiệp
trận
ta
thấy,
hãng A không hề có
chiến
lược có ảnh
hưởng
chi
phối,
mà
quyết
định
tối
ưu của họ
lại
tuy thuộc
vào
việc
hãng B
quyết
định như
thế
nào.
Do
vậy,
dể có
thể ra quyết
định cùng
lúc,
hãng A nên
tự đặt
mình vào
vị trí
hãng B. Chắc hằn hãng B sẽ làm
theo
những
gì mà họ cho là
tốt
nhất.
Và
từ
ma
trận
ta
cũng
thấy
rằng
hãng B có một
chiến
lược có ảnh
hưởng
chi
phối.
Đó
là
chiến
lược
quảng
cáo, bất
kể hãng A làm
gì.(Nếu
hãng A
quảng
cáo,
hãng B sẽ
thu
được 5 nhờ
quảng
cáo và 0 nếu không
quảng
cáo.
Nếu
hãng A không
quảng
cáo, hãng B sẽ
thu
được 8 nếu
quảng
cáo và 2 nếu
không
quảng
cáo).
Vì mỗi
người
chơi đều có
kiến
thức
chung
nên hãng A
có
thể kết
luận
được
rằng
hãng B sẽ
quảng
cáo. Và
từ
đó hãng A
cũng
sẽ
quyết
định
chiến
lược
quảng
cáo.
Thế cân
bằng
đem
lại
vãn là
(quảng
cáo ;
quảng
cáo).
Đây
là kết
quả logíc
của trò
chơi và hãng A làm
việc
tốt
nhất
có
thể
làm
khi
dã
biết
quyết
định của hãng B, và hãng B làm
việc tốt
nhất
có
thể
làm
khi
đã
biết
quyết
định
của
hãng A.
Từ thí dụ trên có
thể
thấy
sự khác
biệt
rõ nhất giữa khái niệm cân
bằng Nash và khái niệm về một
thế cân
bằng
trong
các
chiến lược
có ảnh
hưởng
chi
phối là:
Các
chiến
lược có ảnh
hưởng
chi
phối:
Tôi đang làm cái
việc
tốt
nhất tôi
có
thể
làm
bất
kể anh làm gì.
Anh
đang làm cái
việc
tốt
nhất
anh có
thể
làm
bất
kể
tôi
làm
gì.
- Thế cân
bằng
Nash:
Tôi đang làm cái
việc tốt
nhất tôi
có
thể
làm
sau khi
đã
biết
anh đang
làm
gì.
Anh
đang làm cái
việc tốt
nhất
anh có
thể
làm sau
khi
đã
biết
tôi
đang làm gì.
5.3
Sự
tồn tại
cân bằng Nash
Cân
bằng
Nash
có ý
nghĩa
trong việc
đưa
ra kết
quả trò
chơi.
Đây
cũng
là cái đích mà mọi
người
muốn
tìm
hiểu
nhất.
Câu
hỏi đặt ra là:
"Cân
bằng
Nash
có luôn
tồn
tại
không? Và có là duy
nhất
cho mỗi trò chơi hay
Lý
Thanh Luyến - Nhật 3-K40F-KTNT
13
Khoa
luận
tốt
nghiệp
không?"
Khi
đưa
ra
khái
niệm
về cân
bằng Nash,
nhà
khoa
học
John
Nash
cũng chỉ ra
rằng:
trong
bất
kỳ trò chơi hữu hạn nào
- tức
là hữu hạn về số
người
chơi và số
chiến
lược của trò chơi - thì đều
tồn
tại
ít
nhất
một cân
bằng Nash. Điều
này có
nghĩa là
đối với
trò chơi hữu hạn
thì
cân
bằng
Nash
luôn
tồn
tại
nhưng không
nhất
thiết
là
chỉ
có một
thế
cân
bằng
Nash duy
nhất,
mà có
thẩ
có
nhiều
hơn.
Xét thí dụ
sau:
Một nhà
nhập khẩu
nước ngoài muốn mua cà phê của
hai
doanh
nghiệp xuất
khẩu
trong
nước. Đối với
mỗi
doanh
nghiệp,
nhà
nhập khẩu chỉ
mua một
loại
cà
phê: hoặc
cà phê chè
hoặc
cà phê
vối.
Giá
nhà
nhập khẩu
trả
sẽ
phụ
thuộc
vào
việc
hai
doanh
nghiệp
cung
ứng như
thế
nào.
Nếu
hai
doanh
nghiệp
bán cho nhà
nhập khẩu
cùng
loại
cà phê
thì
ông
ta
sẽ ép giá và
chỉ
trả
75% giá đã
thoa thuận.
Nếu
hai
doanh
nghiệp
trong
nước
cung cấp
hai
loại
cà phê khác
nhau thì
ông
ta
buộc
phải
trả
đúng giá là
100%.
Ta có ma
trận
sau:
Doanh
nghiệp
B
Doanh
nghiệp
A
Cà phê chè Cà phê
vối
Doanh
nghiệp
A
Cà
phê
chè
75%;75%
100%; 100%
Doanh
nghiệp
A
Cà phê
vối
100%; 100%
75%;75%
Giả
sử cả
hai
doanh
nghiệp
đều
biết
việc
trả
giá này, và
bằng
một
cách nào đó
doanh
nghiệp
A
biết
rằng
doanh
nghiệp
B đã
thu
mua đủ
loại
cà phê chè và đang sẵn sàng
cung
cấp cho nhà
nhập
khẩu.
Khi dó
doanh
nghiệp
A sẽ
buộc
phải
cung
cấp cho nhà
nhập khẩu
cà phê
vối.
Và nếu
doanh
nghiệp
B
cung cấp
cà phê
vối
thì doanh
nghiệp
A
lại
cung cấp
cà phê
chè.
Ở đây,
khi
dã
biết
hành
dộng
mà
doanh
nghiệp
dự đoán là
doanh
nghiệp kia
sẽ làm thì
doanh
nghiệp
này
tốt
nhất
là nên hợp
tác.
Bởi nếu
Lý
Thanh Luyến
-
Nhật
3-K40F-KTNT
14
Khoa luận
tốt
nghiệp
không hợp
tấc thì
cả
hai sẽ phải
nhận
một
kết
quả không
tốt,
phải
nhận
một
mức
giá
thấp
chỉ
còn
75%
giá
thị
trường.
Đây là
điểu
mà
không
doanh
nghiệp
nào
muốn
cả.
Trong
bài toán
tồn
tại
hai
cân
bằng
Nash
:
đó
là cặp
chiến
lược (cà phê chè
;
cà phê
vối)
và (cà phê
vối;
cà phê
chè).
Tọi đây, ta thấy
rằng
một
thế
cân
bằng
Nash dựa
nhiều
vào tính duy
lý
của
cá
nhân.
Nhưng
sự lựa
chọn
chiến
lược
của
mỗi
người
chơi không
chỉ
phụ
thuộc
vào tính duy lý
của
bản thân
người
đó
mà
còn vào tính duy lý của
đối thủ nữa. Vọi
bài toán phân
phối
cà phê trên thì
việc lựa
chọn
cân
bằng
Nash
là
chiến
lược
tốt
nhất
cho mỗi
doanh
nghiệp.
Nhưng
trong
các trưởng
hợp
trưọc
đó,
cân
bằng
Nash là
lựa
chọn
tốt
nhất
nhưng không
phải
tối
un.
Bởi vậy,
người
ta
còn
gọi
cân
bằng
Nash
là
giải
pháp
tối
đa
tối
thiểu.
n.
TRÒ CHƠI
CẠNH
TRANH
HAY HỢP
TÁC
Phần
trên
ta
đã xét các tình
huống
trạng
thái
tĩnh
mà ở
đó
người
chơi
chỉ
có
duy
nhất
một cơ
hội lựa
chọn.
Trong
thực tế, kinh
doanh
là một
chuỗi
các
hoạt
động liên
tục
nên
việc ra
quyết
định là thường
xuyên,
lặp
đi
lặp
lại.
Cứ
mỗi
lần lặp
lại
là một
thế
khó xử của
những
người
bị
giam
giữ
mà
doanh
nghiệp
cần
phải đối
mặt và
chọn
lựa.
Hơn
nữa, trong
những
trò
chơi
trên,
mỗi
người
chơi đều
muốn
tối
đa hoa
phần
thưởng
của
riêng mình
dãn
tọi
làm
tổn
thương
người
chơi khác
hoặc
không
đạt
được
lợi
ích
tối
ưu
cho
cả đôi bên
mà
lẽ ra
có
thể
có
được.
Nói cách
khác,
đó là
những
trò chơi
mang
tính ích
kỷ,
thiếu
sự hợp
tác.
Thực
ra,
hình ảnh
mà
lý
thuyết
trò chơi
thường
gợi ra
trưọc
hết
là
kinh
doanh
như một
trận
chiến.
Giá
trị
đích
thực
của
lý
thuyết
trò chơi
đối vọi kinh
doanh
sẽ
có
được
khi
toàn
bộ
lý
thuyết
này được
đặt
vào
trong thực
tiễn
và lý
giải
sự tương tác
lẫn
nhau
giữa
cạnh
tranh
và hợp tác.
1.
Cạnh
tranh
Cạnh
tranh
được đề
cập
đến
nhiều trong kinh tế kinh
doanh
vọi nhiều
định
nghĩa
khác
nhau,
song
nhìn
chung,
vọi
tính cách là động
lực
phát
triển
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT 15
Khoa luận tốt nghiệp
nội tại
của
nền
kinh tế thị
trường,
cạnh
tranh
được
hiểu
là
"sự chạy
đua hay
ganh
đua
giữa
các thành viên
của
một
thị
trường hàng
hoa, sản
phẩm cụ
thể
nhằm mục đích
lôi
kéo về phía mình ngày càng
nhiều
khách
hàng,
thị
phần
và
thị
trường.
Như
vậy,
về phương
diện kinh
tế,
cạnh
tranh
được hình thành
trên cơ
sấ
có sự
hiện diện
của
các thương nhân trên
thị
trường,
có
cuộc chạy
dua
vì mục tiêu
lợi
nhuận
giữa
các thương
nhân,
các
doanh
nghiệp
trên
thị
trường
hàng hoa cụ
thể.
Vổi
tính cách là một
hiện
tượng
xã
hội,
cạnh
tranh
chỉ
xuất
hiện
dưới
những
tiền
đề
kinh tế
và pháp lý cụ
thể.
Trong
điểu
kiện
kinh tế thị
trường,
cạnh
tranh
đã
xuất
hiện
và
tổn
tại,
không
những
thế
còn
tồn
tại
như một động
lực
phát
triển
nội
tại
của
nền
kinh
tế.
Một
số
nhà
kinh
tế
đã
khẳng
định
cung
cẩu là
cốt vật chất,
giá cả là
diện
mạo và
cạnh
tranh
là
linh
hồn
sống của
cơ
chế
thị
trường.
1.1 Tác
động tích
cực của
cạnh tranh
đối với các
doanh nghiệp
Trong
khuôn khổ của
kinh tế thị
trường,
ý
nghĩa
kinh
tế
của
cạnh
tranh là:
một mặt
tạo ra
động
lực
của
sự phát
triển
kinh
tế,
mặt khác
là
cách
hữu
hiệu
nhất
để
tối
đa hoa
lợi
nhuận
và
lợi
ích của cả
người
cung
cấp
lẫn
người
tiêu dùng hàng hoa và
dịch vụ.
Xét trên bình
diện
tổng
thể
của nền
kinh tế
xã
hội,
nếu không có
cạnh
tranh,
một bộ
phận nguồn
lực
của nền
kinh tế
sẽ không được huy động vào sản
xuất
và gây
ra
sự lãng phí không
đáng có.
Nhìn bình
diện
tổng
thể
nền
kinh
tế
xã
hội
nói
chung
và
đối với
doanh
nghiệp
nói
riêng,
cạnh
tranh tạo ra
3
lợi
ích
lớn
sau:
Thứ
nhất,
thông qua quy
luật
cung
cẩu,
cạnh
tranh
giúp
doanh
nghiệp
có
khả
năng
nhanh nhạy
trong việc
phát
hiện
và đáp ứng mọi nhu
cầu
và
thị
hiếu
người
tiêu
dùng,
tiến tới
những
sáng
tạo trong cải
tiến
sản
phẩm.
Thứ
hai,
vì
cạnh
tranh
có mục tiêu lâu dài là
thu
hút về mình càng
ngày càng
nhiều
khách hàng nên
doanh
nghiệp
với
tư cách là nhà sản
xuất
hay
nhà phân
phối
sản phẩm hàng
hoa, dịch
vụ
phải-tạo ra
được
những
sản
phàm có
chất
lượng
ngày càng
cao
với chi
phí ngày
càng
thấp.
Lý
Thanh Luyến - Nhật 3-K40F-KTNT
LL'L. '6
Khoa
luận
tốt
nghiệp
CÓ
người
nói, bí
quyết
kinh
doanh
là
chạy
càng
nhanh
càng
tốt.
Nghĩa
là, khi
doanh
nghiệp
làm
ra
được một
sản
phẩm
tốt
hơn, những
người
khác sẽ sao chép
hoặc cũng
tiến
hành
cải
tiến
sản
phẩm. Và lúc
này,
vấn để
không
phải
là sản phẩm
tạo
ra
tốt tới
mức nào mà là
doanh
nghiệp
có
thể
liên
tục
cải
tiến
sản
phẩm
của
mình
tới
đâu.
Thứ ba, cạnh
tranh
là cơ
hội
buộc
các
doanh
nghiệp phải
áp
dụng
công
nghệ
mới và
tiến
bộ
khoa
hồc kỹ
thuật.
Do đó,
cạnh
tranh
cũng
là
nguồn
gốc,
động
lực
để phát
triển
khoa
hồc kỹ
thuật
công
nghệ
cao cho
đất
nước
nói
chung,
cho nền
kinh tế
và doanh
nghiệp
nói riêng.
1.2
Tác
động
phi
tích
cực của
cạnh tranh
với
doanh nghiệp
Tuy
nhiên,
trong
quá trình phân
phối
lại
các
nguồn
lực,
chồn
lồc
và
đào
thải,
cạnh
tranh
cũng
có mặt trái của
nó.
Đôi
khi
những
mặt trái này
còn
lớn
hơn
những
lợi
ích mà nó đem
lại,
đặc
biệt
là
những
tác
hại
gây ra
bởi
sự
cạnh
tranh
không lành
mạnh.
- Trước
hết,
như đã đề
cập
ở
trên,
cạnh
tranh
đẩy
doanh
nghiệp
tới
việc
liên
tục phải
đầu
tư cho
việc
nghiên
cứu
và
cải
tiến
sản
phẩm. Đây
là
một quá
trình đòi
hỏi tốn nhiều chi
phí
cũng
như
thời
gian.
Việc
đẩu tư
nhiều
nguồn
lực
như
vậy
không
phải
doanh
nghiệp
nào
cũng
có
khả
năng
chi trả.
-
Tiếp
đó,
lượng
khách hàng - kể cả khách hàng
trung
thành -
cũng
không ổn
định.
Nếu không đủ
khả
năng
đổi
mới
sản
phẩm
(tức
là đi
vào đầu
tư dài
hạn),
doanh
nghiệp
rất
dễ đi vào
cạnh
tranh
bằng giá.
Điều
này còn
bất
lợi
hơn cho
doanh
nghiệp
vì
việc
giảm
giá dẩn dần như vậy sẽ dẫn
tới
lợi
nhuận
của chính
doanh
nghiệp
giảm,
thị
trường bị
chia
sẻ và có
thể
bị
đối
thủ
cạnh
tranh trả
đũa.
- Đặc
biệt
các trường hợp
cạnh
tranh
không lành
mạnh
sẽ ảnh
hưởng
xấu
tới
mối
quan
hệ
với
các
đối
tác khác như khách
hàng,
nhà
cung cấp
hay
cả đối thủ nữa.
Từ đó dẫn
tới
sự
giảm
uy
tín của doanh
nghiệp.
Lý
Thanh Luyến
-
Nhật
3-K40F-KTNT
17
Khoa luận
tốt
nghiệp
Khi
tiến
hành các
hoạt
động
kinh
doanh, cạnh
tranh
là không thê
thiếu.
Tuy
nhiên,
nếu các
doanh
nghiệp
bảo
thủ,
quá thiên về
cạnh
tranh
mà
không xem xét tình hình, yêu cầu cụ
thể
thì
nguy
cơ
thất
bại
là
rất
lớn.
Trong
ví dụ sau
ta
có
thể
thấy
dù
doanh
nghiệp
có
lớn
tới
đâu nhưng nếu
hiểu
và
tiến
hành
cạnh
tranh
một cách dơn
thuần,
mù quáng thì hậu quả
nhận
được
lại
khôn
lường.
Đó là câu
chuyện
về ngân hàng
Citibank cuối
những
năm 1970
thế
kỷ XX.
Citibank
là một ngân hàng
lớn
hàng đầu của
Mự. Và đây
cũng
là ngân hàng đẩu tiên
giới
thiệu
dịch
vụ máy rút
tiền
tự
động
(ATM).
Tiếp
sau đó, các ngân hàng khác
cũng
thi
nhau
lắp
đặt
các
máy ATM của mình, và họ muốn
Citibank gia
nhập
mạng
lưới
của mình.
Điều
này làm cho
thẻ
ATM của mỗi ngân hàng có giá
trị
hơn
nhiều
khi
khách hàng có
thể
rút
tiền
ở
tất
cả các máy
tự
động.
Nhưng
Citibank
đã
từ
chối.
Họ không muốn giúp gì cho
đối thủ cạnh
tranh
của mình, đồng
thời
cũng
không muốn làm
điều
gì có
lợi
nếu
việc
đó
cũng
có
thể
có
hại.
Quyết
định
này làm
thiệt
hại
cho chính khách hàng của
Citibank.
Dần
dần,
các
mạng
lưới
khác đã dẫn đầu cả
nước,
còn khách hàng của
Citibank
cũng
lần
lượt
từ
bỏ ngân hàng của mình.
Việc
tiếp
cận hạn
chế
trong
cạnh
tranh
đã
làm
giảm
một
phần
lớn thị
phần của
Citibank.
Trong
thí
dụ nêu
trên,
Citibank
đã
nhận
một bài học đáng nhớ
khi
đưa
ra
quyết
định hoàn toàn dựa trên sự
cạnh
tranh
đơn
thuần
mà
thiếu
mất sự
hợp
tác
với
các ngân hàng
khác.
Như
vậy, trong kinh
doanh, cạnh
tranh
là
cần
thiết,
nhưng hợp
tác cũng là
một yêu
cầu
không kém
phần quan
trọng.
2.
Hợp
tác
Là sự liên
kết
đồng
thuận
giữa
hai
hay
nhiều
cá nhân,
tổ chức
hay
quốc
gia đối
vói cùng một sự
việc,
về một
lĩnh
vực nào đó nhằm
đạt
được
một
lợi
ích xã
hội
chung.
Trong
kinh tế kinh
doanh,
hợp tác được
hiểu
là sự
liên
kết
các hành
vi
thương mại
giữa
các
chủ
thể
của
nền
kinh tế.
Nếu
cạnh
tranh
chỉ
diễn
ra
khi
xuất
hiện
những
tiền
đề
kinh
tế
và
pháp lý cụ
thể
thì
hợp tác
lại
chủ yếu
có được nhờ sự
tự
nguyện của
các chủ
Lý Thanh Luyến
-
Nhật 3-K40F-KTNT
18
Khoa luận
tốt
nghiệp
thể
nhằm
đạt
được một
lợi
ích nào
đó.
Trong
nền
kinh
tế,
hợp tác có
thể
xảy
ra
trong
các mối
quan
hệ
giữa
doanh
nghiệp
với
các chủ
thể
khác như: mối
quan
hệ
với
khách
hàng,
với
nhà
cung
cấp,
doanh
nghiệp
khác,
Chính phủ.
Cũng
giống
như
cạnh
tranh,
hợp tác
cũng
có cả tác động tích cực và
phi
tích
cực đối với
các
doanh
nghiệp
trong
quá trình
kinh
doanh.
2.1
Tác
động tích
cực của
họp
tác đối với
doanh nghiệp
- Hợp tác
tạo
các mối
quan
hệ làm bôi trơn quá trình
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp.
Nói một cách đơn
giản
thì nhờ có
những
mối liên hệ đã
kể
trên mà
doanh
nghiệp
có
thể
"tăng bạn
nạt thù".
Để có được
điều
này
cần tới kinh
nghiệm
từng
trải
trên thương
trường.
Đó là cả một
nghệ
thuổt
sống
trong kinh
doanh
.
- Hợp
tấc tạo
cơ
hội
học
hỏi
thêm
kinh
nghiệm
của
đối
tác, bổ
sung,
hỗ
trợ
nhau khắc phục những
khiếm
khuyết
cho
nhau.
Mỗi
doanh
nghiệp
đều có
những
thế
mạnh
riêng của mình.
Việc
liên
kết
hợp tác
với
nhau
giúp
cấc doanh
nghiệp
hướng
tới
sự hoàn
thiện
cho bản thân mình.
- Do quá trình nghiên cứu và phát
triển
sản phẩm cần
nhiều
nguồn
lực
cả về
chi
phí và
thời
gian
nên
việc
hợp tác
với
nhau
trong
lĩnh
vực
này là
hợp
lý
nhất.
Việc
liên
minh
lại
sẽ giúp
chia
sẻ
chi
phí và
những
rủi
ro
phải
gánh
chịu.
Cũng
bởi
vổy mà hợp tác
giữa
các
doanh
nghiệp
cũng
góp
phẩn
đẩy nhanh
sự phát
triển
của
khoa
học kỹ
thuổt
thông qua nghiên
cứu,
cải
tiến
sản
phẩm
cũng
như
chuyển
giao
công
nghệ
cho
nhau.
Đây
là
điểm
tích
cực
chung
giữa
cạnh
tranh
và hợp tác .
2.2
Tác
động
phi
tích
cực của
hợp
tác đối với
doanh nghiệp
Tuy
vổy,
mọi
việc
đều có tính
hai
mặt của
nó.
Hợp tác ngoài
những
điểm
trên
thì cũng
có
những
tác
dộng
phi
tích
cực
đối với
các
doanh
nghiệp:
- Hợp tác
tạo ra ít
động cơ thúc đẩy
đổi
mới
cải
tiến
sản
phẩm.
- Liên
minh
lại
với
nhau cũng
đồng
nghĩa
với việc phải chia
sẻ
thị
trường,
phụ
thuộc
lẫn
nhau
trong
một số
hoạt
động.
Thị
phần
là một mục
Lý Thanh Luyến
•
Nhật 3-K40F-KTNT
19