Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.84 KB, 51 trang )

Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
**************
TIỂU LUẬN KINH TẾ §ÇU T¦
ĐỀ TÀI:
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
1
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
MỤC LỤC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN 1
************** 1
TIỂU LUẬN KINH TẾ §ÇU T¦ 1
ĐỀ TÀI: 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TẠI VIỆT NAM 1
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN KINH TẾ 3
1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế 3
1.2. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư 7
1.3 Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trường và phát triển kinh tế 11
1.3.1 Tốc độ tăng đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế 11
1.3.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và tốc độ tăng trưởng 16
PHẦN II. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 19
2.1 Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và đầu tư tròng vòng 5 năm trở lại đây – những kết
quả đạt được 19
2.2 Tác động của Đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam trong hơn 20 năm qua: 35


2.3 Những tồn tại về tình hình đầu tư trong quá phát triển kinh tế của Việt Nam 40
PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ 48
CHO TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 48
3.1 Giải pháp chung cho đầu tư phát triển 48
3.2 Giải pháp thu hút đầu tư vốn đầu tư nước ngoài 49
PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
2
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
PHẦN I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI
TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Khái quát quan niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế được biểu hiện phổ quát là sự tăng sản lượng thực
tế của một nền kinh tế theo thời gian. Trong kinh tế học phương Tây, tăng trưởng kinh tế
thường chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của giá
trị GNP bình quân đầu người. Tuy nhiên, để phán ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh
tế của một quốc gia, người ta thường chỉ tính sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được
tính bằng mức tăng GDP theo thời gian hoặc mức tăng GDP bình quân đầu người theo
thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế
theo thời gian.
Nhà kinh tế học người Mỹ Walter Wiliam Rostow đã dùng khái niệm tăng trưởng trong
một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia tiến trình phát triển của xã hội loài người
thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại. Quan niệm
của W. W. Rostow nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của tiến trình phát triển, coi tăng
trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển. Và cũng chính vì vậy, nó đã làm nảy
sinh nhiều vấn đề và nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển, trong đó có công bằng xã hội vì công bằng xã hội là một nội
dung quan trọng của phát triển.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế
Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình

kinh tế.
• Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất
nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản
xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để
sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất
lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nong phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa
tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy
để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn
đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và
3
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng
cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng.
• Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực
nông nghiệp và công nhiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor),
yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh
tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T.
Oshima.
• Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố
K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên.
• Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài
hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn
sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)).
• Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ
công nghệ.
• Mô hình Sung Sang Park nguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc
gia cho đầu tư con người.
• Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp

hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L).
Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng
kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều
không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-
Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh
tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do
lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng
một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái
tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế).
4
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ
giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái
toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở
trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì
đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng.
- Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát
triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được
đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực,
nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và
cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
• Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ
luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu
hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc
vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu
tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát
huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và
kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh

thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có
nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách
ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn
phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao
động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh
chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có
sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."
[1]

• Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những
tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và
nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có
những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được
mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các
nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao.
5
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập
trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên
vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
• Vốn (hay còn gọi là Tư bản): là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ
tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ
lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản,
phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên
GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản
không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố
định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản
cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ

được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực
hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia ),
sức khỏe cộng đồng, thủy lợi
Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng
kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, môi trường,
tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai,
tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn
thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một
thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc
hơn.
Phát triển kinh tế là phải nói đến các yếu tố như công bằng xã hội, vấn đề môi trường,
phúc lợi xã hội, tuổi thọ trung bình, Trong kinh tế học, các công trình nghiên cứu cũng
như các báo cáo phát triển chính thức ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế, người ta
thường sử dụng một số công cụ và thước đo chủ yếu như: Đường cong Lorenz; Hệ số
Gini; Mức độ nghèo khổ; Mức độ thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người; Chỉ số phát
triển xã hội tổng hợp; Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống. Trong thời gian gần đây,
một thước đo được sử dụng nhiều là Chỉ số phát triển con người (HDI), do Chương trình
Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra và sử dụng lần đầu tiên năm 1990. Chỉ số
này trải từ 0 (mức độ phát triển con người thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người
cao nhất) và là trung bình cộng của các chỉ số tuổi thọ, trình độ giáo dục và thu nhập.
6
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
1.2. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
• Khái niệm đầu tư
Theo luật đầu tư năm 2005, Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu
hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các

giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung
gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư;
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam;
Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ
Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư
Trong kinh tế “Đầu tư” được hiểu là sự chi tiêu mà kết quả làm tăng tài sản cho nền kinh
tế (giá trị của những tài sản mua đi bán lại giữa các thực thể kinh tế với nhau không được
coi là đầu tư đối với nền kinh tế). Vì vậy, có những trường hợp đối với một cá nhân, hoặc
của một tổ chức nào đó là đầu tư, nhưng xét trên phạm vi toàn nền kinh tế thì đó không
phải là đầu tư nếu quá trình đầu tư đó không tạo thêm tài sản mới. (ví dụ: một người bỏ ra
một khoản tiền để mua một ngôi nhà của người khác để ở thì hành vi mua bán đó không
được tính là đầu tư trên phạm vi toàn nền kinh tế).
Các nhà kinh tế vĩ mô chia đầu tư thành 3 loại chính như sau: đầu tư vào tài sản cố định
dùng trong sản xuất kinh doanh; đầu tư vào tài sản lưu động và đầu tư vào nhà ở.
Đầu tư tài sản cố định là sự bỏ vốn ra để xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng và mua sắm
trang, thiết bị và các tài sản đủ tiêu chuẩn là TSCĐ của các đơn vị sản xuất kinh doanh
(làm tăng thực sự tài sản sản xuất). Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính là những
tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên và có thời gian sử dụng trên 1 năm.
7
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Đầu tư tài sản lưu động là sự bỏ vốn ra để làm tăng thêm giá trị hàng hoá tồn kho của
các doanh nghiệp, bao gồm cả nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm
tồn kho.
Đầu tư nhà ở là sự bỏ vốn ra của các hộ gia đình, các chủ đất để xây dựng nhà ở mới
dùng để ở và cho thuê.
Tuy nhiên có những ý kiến cho rằng đầu tư xây dựng nhà ở không thuộc phạm vi đầu tư
trên phương diện toàn nền kinh tế. Người ta cho rằng nhà ở thuộc tài sản tiêu dùng của

các hộ gia đình. Nhưng trong cuốn sách xuất bản lần thứ 3, của N.Gregory Mankiw, Tiến
sỹ kinh tế của trường Đại học Harvard coi đầu tư nhà ở thuộc phạm trù đầu tư của nền
kinh tế. Đồng thời thuật ngữ “Investment” của nhiều nước hiện nay vẫn bao gồm cả lĩnh
vực đầu tư về nhà ở. Vì vậy, trong bài viết này, nội dung đầu tư được đề cập đến cả lĩnh
vực đầu tư vào nhà ở vì nhà ở được coi là tài sản cố định của nền kinh tế (khác với các tài
sản dùng trong tiêu dùng của hộ gia đình khác mặc dù về giá trị và thời gian sử dụng trên
một năm, nhưng không được coi là tài sản cố định của nền kinh tế).
Việc phân định ranh giới giữa tài sản cố định và tài sản lưu động không phải lúc nào cũng
rõ ràng, đôi khi cũng gây lúng túng cho người thu thập và xử lý thông tin, chẳng hạn đối
với thiết bị, máy móc, đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định nhưng chúng chưa được đưa vào
sản xuất, vẫn nằm trong kho của các đơn vị thì được xếp vào nhóm tài sản lưu động.
• Vốn đầu tư
Luật đầu tư 2005 đã định nghĩa: Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực
hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước
bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước.
Vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư. Như vậy theo quan
điểm kinh tế vĩ mô vốn đầu tư trong kinh tế bao gồm ba nội dung chính là: Vốn đầu tư
làm tăng tài sản cố định; Vốn đầu tư tài sản lưu động và Vốn đầu tư vào nhà ở.
Chỉ tiêu “Vốn đầu tư” với nội dung như trên là rất cần thiết cho việc tính toán các chỉ tiêu
liên quan như: tích luỹ tài sản, vốn hiện có, và dùng trong phân tích về hiệu quả của đầu
tư và các phân tích khác có liên quan đến vốn đầu tư, đồng thời khái niệm này cũng bảo
đảm phạm vi của chỉ tiêu trong so sánh quốc tế.
8
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Trước những năm 2000, do chế độ và điều kiện hạch toán, chỉ tiêu “vốn đầu tư cơ bản”
hay thường gọi là “vốn đầu tư xây dựng cơ bản” được sử dụng phổ biến. Nhưng từ năm
2000 trở lại đây do thay đổi cơ chế quản lý, chế độ và điều kiện hạch toán, đồng thời do
quan điểm của các nhà lãnh đạo, chỉ tiêu “Vốn đầu tư phát triển” đã trở thành một chỉ tiêu
thay thế chỉ tiêu “vốn đầu tư XDCB” (trong niêm giám của ngành thống kê hiện nay chỉ

công bố số liệu của chỉ tiêu “vốn đầu tư phát triển”).
Do vậy, phần này tôi muốn so sánh nội dung của hai chỉ tiêu “Vốn đầu tư cơ bản” và
“Vốn đầu tư phát triển” với nội dung của “Vốn đầu tư trong kinh tế”.
* Vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư trong kinh tế
Vốn đầu tư cơ bản (hay vẫn quen gọi là vốn đầu tư XDCB) là toàn bộ chi phí dành cho
việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền kinh. Nội dung
của vốn đầu tư cơ bản gồm: các khoản chi phí cho khảo sát thiết kế và xây lắp nhà cửa và
vật kiến trúc; mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc; chi phí trồng mới cây lâu năm; mua
sắm súc vật đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định và một số chi phí khác phát sinh trong quá
trình tái sản xuất tài sản cố định.
Vốn đầu tư cơ bản không bao gồm chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định của các cơ sở sản
xuất; chi phí khảo sát thăm dò chung không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng một
công trình cụ thể.
Vốn đầu tư cơ bản gồm: vốn đầu tư xây lắp; vốn đầu tư mua sắm thiết bị và vốn đầu tư cơ
bản khác.
- Vốn đầu tư xây lắp (vốn xây lắp) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho công tác xây
dựng và lắp đặt thiết bị, máy móc gồm: vốn đầu tư dành cho xây dựng mới, mở rộng và
xây dựng lại nhà cửa, vật kiến trúc; vốn đầu tư để lắp đặt thiết bị, máy móc.
- Vốn đầu tư mua sắm thiết bị (vốn thiết bị) là phần vốn đầu tư cơ bản dành cho việc
mua sắm thiết bị, máy móc, công cụ, khí cụ, súc vật, cây con đủ tiêu chuẩn là tài sản cố
định bao gồm cả chi phí vận chuyển, bốc dỡ và chi phí kiểm tra, sửa chữa thiết bị máy
móc trước khi lắp đặt. Đối với các trang thiết bị chưa đủ là tài sản cố định nhưng có trong
dự toán của công trình hay hạng mục công trình để trang bị lần đầu của các công trình xây
dựng thì giá trị mua sắm cũng được tính vào vốn đầu tư mua sắm thiết bị.
9
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
- Vốn đầu tư cơ bản khác là phần vốn đầu tư cơ bản dùng để giải phóng mặt bằng
xây dựng, đền bù hoa màu và tài sản của nhân dân, chi phí cho bộ máy quản lý của ban
kiến thiết, chi phí cho xây dựng công trình tạm loại lớn.
Như vậy, so với tổng số vốn đầu tư trong kinh tế như trên đề cập ta thấy như sau: nội

dung của “Vốn đầu tư cơ bản” là trùng với 2 nội dung chính (trong 3 nội dung) của vốn
đầu tư cho nền kinh tế đó là đầu tư tài sản cố định và đầu tư xây dựng nhà.
Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề còn gây tranh luận là phần vốn chi cho việc sửa chữa lớn
tài sản cố định tại các doanh nghiệp có tính vào tổng vốn đầu tư trong kinh tế hay không?
vì trong nội dung của vốn đầu tư cơ bản không bao gồm phần vốn này và cách tính này là
hoàn toàn phù hợp với hạch toán của các doanh nghiệp hiện nay. Tại các doanh nghiệp
phần vốn này không được quyết toán vào tăng tài sản của doanh nghiệp mà được tính vào
phần chi phí và được phép hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nguồn vốn sửa chữa lớn
TSCĐ thường lấy từ phần trích khấu hao tài sản nên không coi là đầu tư mới trong năm.
Điều này hiện nay là mâu thuẫn với chỉ tiêu “Tích luỹ tài sản (giá trị tài sản tăng trong
kỳ)” của Tài khoản quốc gia.
Như vậy để có nội dung đầy đủ của chỉ tiêu vốn đầu tư trong kinh tế, chúng ta chỉ cần
cộng thêm phần vốn đầu tư bổ sung tài sản lưu động (đầu tư hàng tồn kho) và phần vốn
mua sắm TSCĐ không thuộc công trình xây dựng) vào vốn đầu tư cơ bản là đủ, tức là:
Vốn ĐT trong
kinh tế
=Vốn ĐTCB (bao gồm cả vốn mua sắm TSCĐ
không thuộc công trình XD)
+Vốn bổ sung tài sản
lưu động
• Vốn đầu tư phát triển và vốn đầu tư trong kinh tế
Khái niệm và nội dung vốn đầu tư phát triển hiện nay còn nhiều tranh luận. Trong đó có
hai khái niệm về vốn đầu tư phát triển đang sử dụng trong ngành thống kê như sau:
Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm
tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn); tài sản vật chất (nhà máy, thiết bị, vật tư, nguyên,
nhiên, vật liệu, hàng hoá, cầu cống, đường xá); tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (trình
độ văn hoá, trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kỹ thuật).
Vốn đầu tư phát triển gồm: vốn đầu tư XDCB và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu
động bổ sung; vốn đầu tư phát triển khác.
10

Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Về nội dung của vốn đầu tư XDCB và vốn lưu động bổ sung là thống nhất với phần đã
nêu trên.
Vốn đầu tư phát triển khác bao gồm: chi phí thăm dò, khảo sát và qui hoạch ngành, vùng
lãnh thổ; chi phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (Dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng, Chương trình 773 phủ xanh đất trống ven sông ven biển, Chương trình 135 hỗ trợ
các xã nghèo, Chương trình sắp xếp lao động và giải quyết việc làm, chương trình giáo
dục và đào tạo, chương trình y tế; Chương trình văn hoá; Chương trình phủ sóng phát
thanh; chương trình mục tiêu về truyền hình; Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia
đình; Chương trình phát triển công nghệ thông tin, chương trình hành động phòng chống
ma tuý, Chương trình phòng chống HIV/AIDS, chương trình phòng chống tệ nạn mại
dâm ); chi phí cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, đào tạo và bồi dưỡng nguồn
nhân lực không thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Vốn đầu tư phát triển là vốn được bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư nhằm sau một chu
kỳ hoạt động hoặc sau một thời gian nhất định thu về một giá trị nhất định lớn hơn giá trị
vốn đã bỏ ra ban đầu. Nội dung của vốn đầu tư phát triển gồm: vốn đầu tư xây dựng cơ
bản, vốn đầu tư mua sắm thiết bị máy móc, tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh,
vốn đầu tư cho sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn đầu tư bổ sung cho vốn lưu động và các
nguồn vốn đầu tư phát triển khác như vốn đầu tư để thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia, cho khoa học công nghệ, cho đào tạo nguồn nhân lực con người
So sánh giữa nội dung của chỉ tiêu “Vốn đầu tư trong kinh tế” và “Vốn đầu tư phát triển”
ta thấy: nội dung của chỉ tiêu “Vốn đầu tư” trong kinh tế không bao gồm những phần đầu
tư cho người lao động (hoặc nguồn lao động) như: Chi cho giáo dục, đào tạo nguồn lao
động kể cả đào tạo của các doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp; chi sự
nghiệp khoa học công nghệ và chi cho nghiên cứu không trực tiếp liên quan đến công
trình xây dựng nào; chi sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, và các khoản chi
khác không được quyết toán vào tăng tài sản của nền kinh tế.
1.3 Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trường và phát triển kinh tế
1.3.1 Tốc độ tăng đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở cả hai mặt; tổng cung và tổng cầu. Yếu tố

đầu tư là một nhân tố của hàm tổng cầu có dạng:
11
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Y = C + I + G + X - M (4)
Trong kinh tế vĩ mô cũng như trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) Y là GDP; C là
tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình; I là đầu tư; G là chi tiêu dùng của nhà nước; X là
xuất khẩu và M là nhập khẩu.
Từ quan hệ trên ta thấy khi đầu tư (I) tăng sẽ trực tiếp làm tăng GDP. Theo Keynes thì khi
đầu tư tăng một đơn vị thì sẽ làm cho GDP tăng hơn một đơn vị.
Trong thực tế thì mức độ của ảnh hưởng trên còn tuỳ thuộc vào năng lực cung của nền
kinh tế. Nếu năng lực cung hạn chế thì việc gia tăng tổng cầu, với bất kỳ lý do nào chỉ
làm tăng giá mà thôi, sản lượng thực tế không tăng là bao. Ngược lại, nếu năng lực sản
xuất (cung) dồi dào thì gia tăng tổng cầu sẽ thực sự làm tăng sản lượng, ở đây lý thuyết
của Keynes được khẳng định.
Các mô hình tăng trưởng đơn giản dạng tổng cung đều nhấn mạnh đến yếu tố vốn trong
tăng trưởng. Mô hình Harrod - Domar (Do hai nhà kinh tế Roy Harrod của Anh và Evsey
Domar của Mỹ đưa ra vào những thập niên 40 của thế kỷ 20 và được sử dụng rộng rãi cho
đến ngay nay) đưa ra mối quan hệ hàm số giữa vốn (ký hiệu K) và tăng trưởng sản lượng
(ký hiệu là Y). Mô hình này cho rằng sản lượng của bất kỳ một thực thể kinh tế nào - cho
dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế - đều phụ thuộc vào số lượng
vốn đã đầu tư đối với thực thể kinh tế đó và được biểu diễn dưới dạng hàm:
Y = K/k (5)
Với k là hằng số, được gọi là hệ số vốn - sản lượng (Capital - output ratio) (Gillis at
al,1992, trang 43), quan hệ trên chuyển sang dạng tốc độ tăng hoặc vi phân ta có:
Y(t)/Y(t
0
) = K(t)/Y(t
0
).1/k (6)
=> k = K(t)/Y(t

0
)/ Y(t)/Y(t
0
) (7)
ở đây: t là năm tính toán; t
0
là năm trước năm tính toán
Người ta coi Y(t)/Y(t
0
) chính là tốc độ tăng GDP; K(t)/Y(t
0
) là tỷ lệ đầu tư của năm tính
toán trên GDP của năm trước đó. Điều này có nghĩa để đạt được tốc độ tăng trưởng nào
đó thì nền kinh tế phải đầu tư theo một tỷ lệ nhất định nào đó từ GDP; khi chuyển sang
dạng tốc độ hệ số k gọi là hệ số ICOR (incremental capital - output ratio); hệ số này cho
biết để tăng thêm một đồng GDP thì cần tăng thêm bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Có một
thời gian rất nhiều người thích sử dụng cách tính ICOR theo công thức này và họ đơn
giản lấy Y(t)/Y(t
0
) là tốc độ tăng trưởng (công bố trong niên giám Thống kê) và họ rất băn
khoăn không biết lấy tỷ lệ và giá gì cho phần tử số. Cách tính này là không thực tế đối với
12
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Việt Nam do nguồn số liệu không khả thi, ví dụ như họ thường lấy K là vốn từ trong Niên
giám Thống kê; khái niệm vốn đầu tư trong Niên giám Thống kê thực ra không phải là
vốn theo định nghĩa của các nhà kinh tế, mà cũng không hẳn là đầu tư theo SNA, nó là cái
gì thì hiện nay còn đang tranh cãi!
Từ quan hệ (5) cũng có thể khai triển (vi phân hai vế) với công thức tính ICOR như
sau:
k = (K(t)-K(t

0
))/ ( GDP(t)-GDP(t
0
))
Đặt I = K(t) - K(t
0
)
=>k = I/( GDP(t)-GDP(t
0
)) (8)
Công thức tính ICOR này là chuẩn tắc và truyền thống (theo từ điển các thuật ngữ kinh
tế). Khi tính toán ICOR theo công thức này cần chú ý đến vấn đề giá. Hệ số ICOR cao là
không hiệu quả, thấp là hiệu quả, nhưng đối với những nền kinh tế lạc hậu, hệ số này
thường cũng không cao.
* Vận dụng chỉ tiêu ICOR xác định nhu cầu vốn và mục tiêu tăng trưởng
Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và mức tiết
kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư.
Ta có: g = Y/Y, (trong đó Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu GDP), nếu
gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là: s = S/Y
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S =
I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = K)
Từ công thức hệ số ICOR ta có:
k= K/ Y = I/ Y  
Vì g = Y/Y = (I Y)/(IY) = (I/Y):(I/ Y)  
hay g = S/K
Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:
13
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả
năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một

trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội.
Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo đặt ra,
mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu
đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra
* Nhược điểm của ICOR:
- Là một chỉ số đã được đơn giản hóa nên khó đánh giá các hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Đầu tư ở đây chỉ là đầu tư tài sản hữu hình, còn đầu tư tài sản vô hình, tài sản tài chính
không được tính đến, nên phản ánh chưa trung thực ảnh hưởng của đầu tư tới thu nhập
quốc dân.
- Chỉ số này không biểu hiện được rõ ràng trình độ kỹ thuật của phía sản xuất, vì ICOR là
tỷ lệ đầu tư/sản lượng gia tăng. Chẳng hạn một bên có kỹ thuật sản xuất kém hơn, với một
lượng đầu tư tương đối cũng có thể cải thiện chỉ số ICOR xấp xỉ với bên có trình độ kỹ
thuật cao hơn, do kỹ thuật càng cao thì càng chậm cải tiến.
Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hoá. Mối quan
hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng
trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu
tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem lại
hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Chính do đặc điểm có độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên Hệ số ICOR thường được dự
tính cho các kế hoạch phát triển dài hạn, thường là 5 năm.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR
(Incremental Capital-Output Ratio). Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng
trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng). Hệ số ICOR cho biết muốn có một đồng
tăng trưởng thì phải cần bao nhiều đồng vốn đầu tư.
Hệ số ICOR biểu hiện mối quan hệ giữa mức tăng sản lượng đầu ra (kỳ t) và mức đầu
tư của kỳ (t-1) và được tính bằng công thức:
14
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng

tỏ đầu tư càng đắt. Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước
phát triển thường cao hơn ở các nước đang phát triển.
Số liệu thống kê cho thấy hệ số ICOR thường nằm trong khoảng 3 và 4 trong thế kỷ
19, nhưng hệ số ICOR khác nhau đáng kể giữa các ngành kinh tế. Mức tăng trưởng
tiềm năng được tính bằng cách chia tỷ lệ đầu tư cho hệ số ICOR. Ví dụ một nước dùng
12% tổng thu nhập vào đầu tư mới, và cần 3 đồng đầu tư để tăng 1 đồng kết quả/năm,
khi đó tốc độ tăng trưởng sẽ là 4% (12%/3). Nếu hệ số ICOR cao hơn, giả dụ cần 4
đồng đầu tư mới để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó mức tăng trưởng sẽ là 3%
(12%/4). Cần lưu ý rằng một nền kinh tế mạnh thường “sống bằng” 80% kết quả, 20%
còn lại có thể dùng để đầu tư mới và làm tăng mức tăng trưởng. Vì vậy một trong số
nhân tố quyết định mức tăng trưởng là quy mô và sử dụng thặng dư xã hội.
Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao hơn tốc độ tăng dân số thì sản lượng bình
quân đầu người không tăng. Nếu ta muốn tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
đầu người thì phải trừ đi mức tăng dân số từ mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy theo ví
dụ trên mức tăng trưởng 4%, mức tăng dân số là 2% /năm sẽ có mức tăng trưởng trên
1 đồng đầu tư chỉ là 2%.
Tăng trưởng kinh tế hoạt động như lợi ích kết hợp. Một nền kinh tế có sản lượng bình
quân đầu người tăng ở mức 2%/năm sẽ gấp đôi sản lượng bình quân đầu người trong
vòng 36 năm. Nếu tốc độ tăng giảm xuống còn 1,5%, sẽ cần 48 năm để gấp đôi sản
lượng. Nếu tốc độ tăng trưởng tăng lên 2,5%/năm sẽ cần khoảng 29 năm. Vì vậy, việc
tăng hoặc giảm tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa khi xét tác động của nó trong vòng 3
hoặc 4 thập kỷ (nguyên tắc 72 là phương pháp nhanh nhất để tính tác động của tăng
trưởng tích luỹ. Đơn giản, lấy 72 chia cho mức tăng trưởng hàng năm ta sẽ có kết quả
là số năm cần để gấp đôi mức sản lượng bình quân đầu người).
Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế bắt đầu khi có đầu tư đủ để chuyển mức tăng
trưởng kinh tế trên mức tăng dân số và duy trì được sự tăng trưởng. Rostow, một sử
gia kinh tế đã phát triển thuyết “giai đoạn” phát triển kinh tế, ông gọi điểm bắt đầu
quan trọng là giai đoạn “cất cánh” và từ cất cánh được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên
Rostow đã cố gắng để chứng tỏ rằng phần còn lại của quá trình phát triển kinh tế chắc
chắn sẽ xảy ra (ít hoặc nhiều) khi giai đoạn “cất cánh” đã xảy ra, một gợi ý cho rằng từ

“cất cánh” không hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử. Một nhà kinh tế khác gọi
15
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
giai đoạn bắt đầu này là “sự đâm chồi”- bằng chứng của các dấu hiệu tăng trưởng đầu
tiên.
Cần xét đến một số khía cạnh ít mang tính số lượng hơn của việc tăng trưởng. Một
thời kỳ dài của tăng trưởng bền vững dẫn đến sự tăng trưởng bình thường. Các nhà lập
chính sách hy vọng sẽ có tăng trưởng liên tục và sẽ sửa đổi chính sách nếu không tăng
trưởng. Nếu thặng dư xã hội, hệ số ICOR và mức tăng trưởng kinh tế kết hợp mang lại
cho xã hội tốc độ tăng trưởng 0,5%/năm / vốn đầu tư tăng trưởng, điều chắc chắn là
không một ai muốn có tốc độ tăng trưởng này. Nếu tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức
0,5%/năm thì phải cần tới 144 năm để gấp đôi thu nhập từ 1 đồng vốn. [4].
1.3.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và tốc độ tăng trưởng
Các nhà kinh tế đều thừa nhận đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối
với tăng trưởng kinh tế, muốn có tăng trưởng phải có đầu tư. Tuy nhiên cơ cấu đầu tư
(đầu tư vào đâu) là một vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Các nhà kinh tế đều đồng ý với nhau rằng cần có một cơ cấu đầu tư hợp lý, để tạo ra cơ
cấu kinh tế hợp lý. Thuật ngữ "hợp lý" ở đây được hiểu là cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế
như thế nào để đảm bảo được tốc độ phát triển nhanh và bền vững. Mặc dù đồng ý với
nhau như vậy nhưng các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về cách thức tạo ra một
cơ cấu đầu tư "hợp lý". Có một số quan điểm chủ yếu sau đây:
+ Quan điểm của trường phái tân cổ điển
Quan điểm này cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế trong quá trình
phân bổ nguồn lực (Vốn, lao động ) mà sự vận động của thị trường sẽ thực hiện tốt hơn
vai trò này. Trường phái này khẳng định một trong những ưu điểm của kinh tế thị trường
đó là sự phân bổ nguồn lực một cách tự động dưới sự tự điều khiển của thị trường. Các
doanh nghiệp với mục đích tối đa hoá lợi nhuận sẽ tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt nhất
cho mình. Tuy nhiên giả thiết của trường phái tân cổ điển là thị trường cạnh tranh hoàn
hảo. Đó là thị trường mà người bán và người mua không ai kiểm soát và có khả năng
kiểm soát giá cả và có đầy đủ thông tin trong cả hiện tại và tương lai. Trong thực tế giả

định này là một điều phi thực tế, nhất là về thông tin.
+ Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của chính phủ
16
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Quan điểm nay cho rằng do thị trường không hoàn hảo, nhất là đối với các nước đang
phát triển, nên tự vận động của thị trường sẽ không mang lại kết quả tối ưu. Thông tin
không hoàn hảo có thể dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức.
Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, kinh tế còn lạc hậu, phụ thuộc vào nông
nghiệp, nếu để thị trường tự vận động sẽ không tạo ra sự phát triển mạnh mẽ. Nhà nước
cần tạo ra sự khởi động ban đầu để hình thành nên các ngành công nghiệp. Sự can thiệp
của Nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực cho công nghiệp là cần thiết. Sở dĩ phải phát
triển công nhiệp bởi đây là khu vực có thể tăng năng suất nhanh nhất do ứng dụng tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, ngoài ra khu vực này còn tạo ra kích thích cho toàn nền kinh tế. Vì
lý do đó mà các nước đang phát triển chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp, hay
còn gọi là quá trình công nhiệp hoá.
Tuy nhiên, ở nhiều nước sự can thiệp quá mức của nhà nước vào quá trình công nghiệp
đôi khi không hiệu quả. Rất nhiều ngành công nghiệp được hình thành theo ý chí chủ
quan của một số nhà lãnh đạo, chứ không dựa trên các phân tích kinh tế kỹ càng. Tham
nhũng, các hoạt động tìm kiếm đặc lợi càng làm cho vấn đề thêm nghiêm trọng, lúc đó
nền kinh tế chịu sự rủi ro rất cao của những quyết định sai.
+ Quan điểm về tăng trưởng cân đối
Theo Rosenstain - Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được đưa ra nhằm mô tả sự tăng
trưởng cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Ông đề nghị đầu tư nên hướng một lúc
vào nhiều ngành để tăng cung cũng như kích thích cầu cho nhiều sản phẩm. Sự phát triển
trong công nghiệp chế biến đòi hỏi một lượng đầu tư trong một thời gian dài; từ đó phát
sinh sự phát triển song song cả hàng hoá phục vụ sản xuất cũng như phục vụ tiêu dùng. Ý
tưởng về cú huých lập luận rằng gia tăng mạnh mẽ về đầu tư sẽ dẫn đến mức tiết kiệm
tăng lên do gia tăng trong thu nhập. Theo Rosenstain - Rodan, mục đích của viện trợ nước
ngoài cho các nước kém phát triển là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế tới một điểm
mà ở đó tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn có thể đạt được trên nền tảng tự duy trì,

không phụ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài.
Theo Nurske: ông ủng hộ sự phát triển cân đối, sản xuất hàng loạt nhiều loại sản
phẩm để gia tăng cầu, lúc đó sẽ khai thác được "lợi thế về qui mô", như vậy hiệu quả
đầu tư mới cao và đẩy nhanh tốc độ phát triển.
+ Tăng trưởng không cân đối
17
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Hirschman (1958) đưa ra một mô hình mang tính trái ngược. Ông cho rằng sự mất cân đối
giữa cung và cầu tạo ra động lực cho nhiều dự án mới. Theo cách tiếp cận này vốn đầu tư
cần được nhà nước phân phối cho những ngành công nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra cơ
hội ở những ngành khác trong nền kinh tế; khái niệm về "liên hệ ngược" và "liên hệ xuôi"
cũng ra đời từ ông này. Hai khái niệm này được tính toán từ mô hình I/O. Ông cho rằng
sự mất cân đối này sẽ tạo ra sự phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhiều định chế của
cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, nên các điều kiện của thị trường cạnh tranh hoàn hảo
rõ ràng là chưa đáp ứng được. Mặt khác, nền kinh tế của ta đang ở mức phát triển thấp,
chịu ảnh hưởng của một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung Tất cả những
đặc tính đó cho thấy Nhà nước cần đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, không thể để thị trường tự thân vận động.
18
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
PHẦN II. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và đầu tư tròng vòng 5 năm trở lại đây – những
kết quả đạt được
Ở góc độ toàn nền kinh tế, hệ số ICOR biểu hiện tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng
trưởng GDP. ở nước ta tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP còn thấp so với các quốc
gia trong khu vực. Vấn đề đặt ra là phải có các chính sách và biện pháp để tăng huy động
vốn (cả về số lượng và tỷ lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả quản lý và
sử dụng vốn đầu tư.

Hệ số ICOR năm 1991 của Việt Nam là 0,39, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải
đầu tư 0,39 đồng vốn. Đến năm 2001, số liệu này là 3,82. Thực tế cho thấy càng tiếp cận
sâu rộng với thị trường thế giới thì lợi thế cạnh tranh ban đầu sẽ giảm đi (tài nguyên
phong phú, lao động rẻ). Nếu không phát huy được lợi thế cạnh tranh ban đầu và không
tạo được những lợi thế cạnh tranh mới thì khó có thể đạt được mức tăng trưởng mong
muốn.
Đầu tư vốn cho khoa học công nghệ là một hướng đầu tư quan trọng và mang tính đặc
thù. Vốn đầu tư cho công nghệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong phát triển dài hạn, tuy
nhiên đây cũng là lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro. ở các nước mới thực hiện công nghiệp
hoá, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ chính trong phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay
ở nước ta quy định sử dụng 2% tổng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học và
công nghệ, nhưng trong thực tế chỉ đạt 1%, (chiếm 0,2% GDP). Đây là một tỷ lệ rất thấp
và bất hợp lý so với tỷ lệ 2,5-3% ở các nước công nghiệp phát triển .
Theo phân tích của Báo đầu tư thì nguyên nhân của đầu tư kém hiệu quả ở nước ta hiện
nay, trước hết là do việc chọn và quyết định dự án đầu tư. Nếu thời kỳ 1991-1997, hệ số
ICOR là 2,6 thì hiện nay đã tăng lên khoảng 8,0.
Cùng một đơn vị vốn có thể tạo ra những mức sản lượng rất khác nhau, phụ thuộc vào
hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất của một đơn vị vốn có thể giảm nếu việc quản lý lực
lượng làm việc không hiệu quả hoặc không bảo đảm đủ nguyên vật liệu cho sản xuất,
đồng thời cũng bị những ràng buộc về lực lượng lao động. Vì những lý do này mà mức
sản lượng thu được từ một lượng vốn sẽ rất khác nhau giữa các nước. So sánh mang tính
quốc tế về hệ số ICOR sẽ gặp khó khăn trong việc tính sự thay đổi về vốn. Ví dụ, trong
19
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
liên doanh liên kết đầu tư ở nước ta phần góp vốn đầu tư của nước chủ nhà thường tính
bằng giá trị đất đai, nhà xưởng và thực tế ở nước ta giá đất quá đắt và thay đổi rất nhanh.
Hoặc trong đầu tư xây dựng cơ bản thì chi phí cho giải phóng mặt bằng chiếm một phần
rất lớn và chi phí này tăng lên theo giá đất đai do vậy cũng gây khó khăn cho việc xác
định giá trị đầu tư. Mặc dù có những khó khăn trong việc tính vốn đầu tư cũng như các
yếu tố thuộc lĩnh vực quản lý, thì hệ số ICOR vẫn được sử dụng là một số đo hiệu quả

đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở các nước khác nhau.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế
của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị
kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để đạt được
hiệu qủa kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà hoạch định
chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ.
Đầu tư và tăng trưởng đang trở thành vấn đề kinh tế quan trọng hiện nay của đất nước.
Tăng thêm vốn đầu tư và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu. Đầu tư và tăng trưởng sẽ mang lại hiệu quả nếu có những giải pháp thích hợp
Chỉ số ICOR đo lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng thêm để đạt mức gia
tăng một đơn vị sản lượng, chính là thông số biểu hiện cụ thể nhất của thể trạng sức khỏe
nền kinh tế. Chỉ so ICOR cao đồng nghĩa với hiệu suất kinh tế thấp, nói lên tính cách
“tinh và gọn” của hệ thống.
Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Tính
trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ
lệ đầu tư/GDP lên đến 43.1%, còn theo ước tính sơ bộ đến hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này
là 43,9%. Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5%, và dự kiến,
năm 2009, mức tăng trưởng cao của Việt Nam cũng chỉ dừng ở 5,2%, do đó, hệ số ICOR
luôn ở mức cao.
ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng thấp. Chất lượng
tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
Ngay từ năm 2007, khi hệ số ICOR của Việt Nam dừng ở mức 5-6, đã có những cảnh báo
về sự lãng phí trong đầu tư và hiệu quả thấp trong sử dụng nguồn lực của Việt Nam.
20
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Ông Trần Đức Nguyên, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, đã phân tích:
chỗ yếu của nền kinh tế nước ta là tăng trưởng kém chất lượng. Hệ số ICOR của nước ta
trong các năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng
GDP, cao gấp rưỡi đến gấp hai nhiều nước xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp
hoá. Các nước làm giỏi, ICOR của họ thời kỳ đầu CNH là trên dưới 3.

Tăng trưởng GDP và ICOR một số nước Đông Á
Quốc gia Giai đoạn GDP (%) Đầu tư/GDP ICOR
Hàn quốc 1961 – 1980 7,9% 23,3 3,0
Đài Loan 1961 – 1980 9,7% 26,2 2,7
Indonesia 1981 – 1995 6,9% 25,7 3,7
Thái Lan 1981 – 1995 8,1% 33,3 4,1
Trung Quốc 2001 – 2006 9,7% 38,8 4,0
Việt Nam 2001 – 2006 7,6% 39,1 5,1
Nguồn World Bank
Năm 2007, vốn đầu tư thực hiện so với GDP là 45,6%, nếu hạ được hệ số ICOR xuống,
bước đầu ở mức 4,5 thì tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã là 10%.
Dù các chuyên gia quan ngại và lên tiếng cảnh báo từ lâu nhưng, đến 2008, chỉ số ICOR
Việt Nam lại vượt ngưỡng, lên mức 6,66. Và năm 2009, một lần nữa, chỉ số ICOR ở mốc
mới. Theo tính toán của Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm
2009 của Việt Nam đã lên tới 8, mức cao nhất từ trước tới nay.
Cho rằng chỉ số ICOR tuyệt đối chỉ mang tính tham khảo, vì có thể có sự khác nhau
trong cách tính, tuy nhiên, ông Trần Sĩ Chương, chuyên gia kinh tế độc lập, quan ngại, chỉ
so với năm 2008, hệ số ICOR năm 2009 đã tăng 17,5%. “Những nỗ lực của chúng ta
trong việc nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế đã không mang lại hiệu quả như mong
muốn, thậm chí còn khiến tình hình kém hơn".

21
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Điều này đồng nghĩa với việc trong cuộc "so găng" với các đối thủ trong khu vực, với thể
trạng kinh tế yếu như hiện nay, nếu các nước chỉ cần một lần có thể nhấc được mục tiêu,
thì Việt Nam phải tốn sức gấp đôi, thậm chí gấp ba.
ICOR của Việt Nam qua các giai đoạn
Giai đoạn ICOR
1991 – 1995 3,5
1996 – 2000 4,8

2001 – 2003 5,24
2004 – 2006 5,04
2007 – 2008 6,15
2009 (dự tính) 8
Nguồn TCTK
Đặt trong tương quan với việc Việt Nam tụt hạng về năng lực cạnh tranh theo đánh giá
của Ngân hàng Thế giới, cũng như của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, việc hệ số ICOR tăng
thể hiện rõ xu hướng đi xuống của nền kinh tế.
Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, có hai yếu tố cân nhắc: đầu tư đúng đối tượng, và môi
trường kinh doanh liên tục được cải thiện (tính cạnh tranh) để tiền rót vào được sử dụng
hiệu quả. Đáng tiếc, soi vào thực tế Việt Nam , cả hai yếu tố đó đều có vấn đề.
Cụ thể: "Danh chính, ngôn thuận thì mọi việc làm mới thuận. Việt Nam nói là kích cầu,
nhưng thực chất lại dùng kích cung để thông qua đó hy vọng đẩy cầu lên. Cầu có thật thì
cung mới có thật. Trong bối cảnh khủng hoảng, các DN co cụm, kích cung chỉ có thể
mang lại hiệu quả giới hạn. Rút cuộc, bỏ ra lượng vốn lớn, nhưng chúng ta không tăng
được sự linh hoạt của thị trường, kéo theo đó là hiệu quả đầu tư giảm đi".
Đặc biệt, đối tượng thụ hưởng chính của các chính sách kích cầu của Chính phủ là khối
các DNNN, khu vực vốn được nhiều ưu đãi và gây nhiều quan ngại cho các kinh tế gia
Việt Nam
22
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
Đặt trong tương quan với việc Việt Nam tụt hạng về năng lực cạnh tranh theo đánh giá
của Ngân hàng Thế giới, cũng như của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, việc hệ số ICOR tăng
thể hiện rõ xu hướng đi xuống của nền kinh tế.
Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, có hai yếu tố cân nhắc: đầu tư đúng đối tượng, và môi
trường kinh doanh liên tục được cải thiện (tính cạnh tranh) để tiền rót vào được sử dụng
hiệu quả. Đáng tiếc, soi vào thực tế Việt Nam , cả hai yếu tố đó đều có vấn đề.
Năm Chỉ tiêu kinh tế Đầu tư
2006 Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo
giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với cùng

kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực
dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng
trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu
vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16
điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng
góp 3,34 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm 2005,
chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông
nghiệp và thuỷ sản chậm lại vì ảnh hưởng
của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu
vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng thấp
hơn mức tăng của năm ngoái do sản xuất
công nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17
triệu tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn của
năm 2005; công nghiệp chế biến và điện,
nước, ga cũng giảm so với mức tăng trưởng
năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn
mức tăng trưởng chung của nền kinh tế,
trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy
Thực hiện vốn đầu tư năm 2006
theo giá thực tế ước tính đạt 398,9
nghìn tỷ đồng, bằng 105,9% kế
hoạch năm, trong đó vốn Nhà nước
chiếm tỷ trọng 50,1%, bằng
103,2%; vốn ngoài Nhà nước chiếm
33,6%, bằng 105,7%; vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài chiếm 16,3%,
bằng 116,1%.
Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn
ngân sách Nhà nước năm 2006 ước
tính thực hiện 64,1 nghìn tỷ đồng,
bằng 114,1% kế hoạch cả năm,
trong đó vốn đầu tư do trung ương
quản lý xấp xỉ 18 nghìn tỷ đồng,
bằng 103,3%; vốn do địa phương
quản lý 46,1 nghìn tỷ đồng, bằng
119%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài
năm 2006 tiếp tục phát triển. Tính
từ đầu năm đến 18/12/2006, cả
nước có 797 dự án đầu tư nước
ngoài được cấp giấy phép với tổng
số vốn đăng ký 7,57 tỷ USD, bình
23
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
trì được mức độ tăng cao như thương
nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thông, du
lịch; khách sạn, nhà hàng; tài chính ngân
hàng, bảo hiểm.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực
nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu
vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97%
năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu
vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu

vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ
21,02% xuống còn 20,40%.
Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2006
ước tính bằng 110,2% dự toán cả năm, trong
đó các khoản thu nội địa bằng 103%; thu từ
dầu thô bằng 126%; thu cân đối ngân sách
từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 106,3%;
thu viện trợ bằng 148%. Chi ngân sách Nhà
nước năm 2006 bằng 108,4% dự toán cả
năm, bảo đảm được các kế hoạch chi cho
đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Bội
chi ngân sách Nhà nước cả năm bằng mức
dự toán cả năm, trong đó 74,2% được bù
đắp bằng nguồn vay trong nước và 25,8% từ
nguồn vay nước ngoài
quân 1 dự án đạt 9,5 triệu USD.
Cũng đến thời điểm trên, còn có
486 lượt dự án được tăng vốn với
số vốn tăng thêm 2,36 tỷ USD; tính
chung cả cấp mới và tăng vốn đến
18/12/2006 đạt 9,9 tỷ USD và như
vậy cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ
USD, là mức cao nhất từ trước đến
nay và cũng là một trong những sự
kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm
2006. Trong tổng vốn đăng ký
thuộc các dự án ĐTNN được cấp
phép năm nay, công nghiệp và xây
dựng chiếm 68,4%; dịch vụ chiếm
30%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

chiếm 1,6%. Có 43 tỉnh, thành phố
có dự án đầu tư nước ngoài mới cấp
phép trong năm 2006, trong đó có
12 tỉnh, thành phố có số vốn đăng
ký từ 100 triệu USD trở lên. Có 39
quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp
giấy phép đầu tư vào Việt Nam
trong năm 2006
2007 Theo ước tính sơ bộ, tổng sản phẩm trong
nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh
1994 ước tính tăng 8,48% so với năm 2006,
đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%), gồm có khu
vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
3,41% (kế hoạch 3,5-3,8%); khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 10,6% đạt kế
Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội
thực hiện năm 2007 theo giá thực tế
ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng,
bằng 40,4% tổng sản phẩm trong
nước (đạt kế hoạch đề ra 40%
GDP) và tăng 15,8% so với năm
2006, trong đó vốn khu vực Nhà
24
Tiểu luận Kinh tế đầu tư Mối quan hệ giữa Đầu tư với Tăng trưởngvà phát triển kinh tế
hoạch đề ra (10,5-10,7%); khu vực dịch vụ
tăng 8,68% vượt kế hoạch đề ra (8,0-8,5%).
Tăng trưởng kinh tế năm 2007 của nước ta
đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao trong khu vực (Theo
đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á-

ADB thì năm 2007 kinh tế Trung Quốc tăng
11,2%; Việt Nam tăng 8,3%; Xin-ga-po tăng
7,5%; Phi-li-pin tăng 6,6%; In-đô-nê-xi-a
tăng 6,2%; Ma-lai-xi-a tăng 5,6%; Thái Lan
tăng 4%).
nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm
43,3% tổng vốn và tăng 8,1%; vốn
khu vực ngoài Nhà nước 187,8
nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% và tăng
24,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm
16% và tăng 17,1%.
Trong vốn nhà nước, vốn đầu tư từ
ngân sánh nhà nước (gồm vốn dự
án và chương trình mục tiêu) ước
tính thực hiện 97 nghìn tỷ đồng,
bằng 101,6% kế hoạch năm, trong
đó vốn do địa phương quản lý 64,4
nghìn tỷ đồng, bằng 107,2%, vốn
trung ương quản lý đạt thấp hơn so
với dự toán, chỉ bằng 92,2%; vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước ước tính 40,3 nghìn tỷ đồng,
đạt kế hoạch năm và vốn của các
doanh nghiệp nhà nước và các tổ
chức nhà nước khác khoảng 62,7
nghìn tỷ. Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính
năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng
69,3% so với năm 2006 và vượt

56,3% kế hoạch cả năm, trong đó
vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD
25

×