Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

nên xây dựng nền kinh tế thị trường như thế nào.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.1 KB, 23 trang )

Lời mở đầu
Thế kỷ XX đã kết thúc, loài ngời đang bớc vào một thiên niên kỷ mới. Nhìn lại
quá khứ, thế kỷ XX với những biến đổi dữ dội: Sự xuất hiện Liên Xô và hệ thống
XHCN, rồi tan rã vào năm 1991; khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu á làm rung
chuyển hệ thống kinh tế thế giới; chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, xu
thế cạnh tranh giữa các khối ngày càng gay gắt, cách mạng khoa học công nghệ trên
thế giới đang diễn ra với tốc độ nh vũ bão, đa loài ngời có cách nhìn nhận mới, chứng
kiến nhiều thành tựu của cách mạng sinh học và cách mạng vũ trụ; sự phát triển sôi
động, phong phú của các nền kinh tế thị trờng Âu- Mĩ, Nhật Bản và các nớc NICS
Châu á. Đồng thời thế giới cũng chứng kiến sự cạnh tranh không chỉ kinh tế đơn
thuần về hàng hoá, tiền tệ tài chính, kỹ nghệ, mà còn đấu tranh quyết liệt để tìm đến
mô hình kinh tế tối u Xã hội tốt đẹp.
Nhiều học giả đã thẳng thắn chỉ ra những mâu thuẫn và khuyết tật vốn có của
xã hội t bản hiện đại và cho rằng để khắc phục và hoàn thiện nó, phải cải biến xã hội
t bản và thay vào đó là xã hội hậu t bản , xã hội siêu công nghiệp , xã hội hậu
công nghiệpTuy nhiên, KTTT t bản hiện đại thì những khuyết tật vốn có của nó:
thất nghiệp, khủng hoảng, phân hóa giàu nghèo, huỷ diệt môi trờng sinh thái, những
phẩm chất nhân bản của con ngời bị tha hoá đang diễn ra mà không điều chỉnh đ ợc
trong xã hội t bản hiện đại.Các mô hình KTTT xã hội của Tây Âu mà đại diện là
CHLB Đức, không lấy gì làm sáng sủa và có sức hấp dẫn. KTTT cộng đồng của Nhật
Bản thì không tránh khỏi khủng hoảng kinh tế- tài chính. Kinh tế thị tr ờng phân
tán kiểu Mỹ trong mấy năm gần đây tốc độ tăng trởng kinh tế khá nhng thế giới
không chấp nhận những vấn đề tiêu cực xã hội, sự tha hoá của con ngời và gia đình
Trong buổi giao thời giữa hai thiên niên kỷ của nhân loại, các đảng chính trị và các n-
ớc một lần nữa tự đặt cho mình câu hỏi nên xây dựng nền kinh tế thị trờng nh thế
nào để tránh đợc những khuyết tật vốn có của nó. Con ngời sống trong nhân ái; bản
sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đợc phát huy, con ngời không bị tha hoá, phân
hoá giàu nghèo, công bằng và tiến bộ xã hội tốt hơn, môi trờng sinh thái đợc đảm
bảo.
Bằng lý luận và thực tiễn, những ngời Macxit những ngời cộng sản đã minh
chứng có sức thuyết phục rằng CNTB hiện đại không phải là đích cuối cùng của lịch


sử loài ngời mà con đờng phát triển của loài ngời là tiếp tục vợt qua CNTB hiện đại.
Ngày nay, đi lên CNXH ở nớc ta, Đảng ta chủ trơng phát triển nền KTTT có sự quản
lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. Đó là con đờng, mô hình kinh tế mà Bác Hồ và
Đảng ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn. Hơn 10 năm cải biến cách mạng chúng ta
đã đạt đợc nhiều thành tựu đáng ghi nhận, đã vợt qua khủng hoảng kinh tế xã hội, tiếp
tục đi lên. Tuy nhiên,để vừa đảm bảo phát triển kinh tế, vừa đảm bảo định hớng
XHCN là một nhiệm vụ rất khó khăn, lâu dài, có tính chiến lợc. Chính vì vậy em chọn
đề tài này làm đề án môn học.
4
1.Kinh tế hàng hoá - Kinh tế thị tr ờng:
1.1.Tính tất yếu của nền kinh tế hàng hoá trong quá trình đi lên CNCS:
Kinh tế hàng hoá theo khái niệm chung nhất là sản xuất ra các sản phẩm để
bán, để trao đổi trên thị trờng. Anghen viết: Chúng tôi dùng sản xuất hàng hoá để chỉ
giai đoạn phát triển kinh tế, trong đó những vật phẩm sản xuất ra không phải chỉ để
thoả mãn những nhu cầu của ngời sản xuất mà còn để trao đổi, nghĩa là những hàng
hoá chứ không phải những giá trị sử dụng.
(1)
. Sản xuất hàng hoá là sự phát triển cao
hơn và đối lập với kinh tế tự cung tự cấp. Lịch sử của nó gắn liền với sự phát triển của
lực lợng sản xuất và văn minh xã hội. Nhng ở các xã hội trớc đây nó gắn liền với hiện
tợng phân hoá giai cấp, bóc lột và đối kháng xã hội. Theo Mác- Anghen chủ nghĩa
cộng sản sẽ không còn sản xuất hàng hoá vì đây là xã hội văn minh phát triển rất cao
dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất. Là ngời đầu tiên hiện thực hoá chủ nghĩa
Mác ở nớc Nga - Một nớc t bản kém phát triển. Thực tế cho thấy luận điểm của Mác
cha thể vận dụng ở các nớc sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Bởi vậy, thời kỳ đầu thế kỷ
XX Lê-nin đã sáng tạo ra chính sách kinh tế mới giúp nền kinh tế Nga từng bớc ổn
định đi lên.
Thực chất của chính sách kinh tế mới là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần có sự điều tiết của nhà nớc Xô Viết. Lê-nin chủ trơng: phát triển sản xuất
hàng hoá và phải biết sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hoá, tiền tệ vào công cuộc

xây dựng CNXH. Trong thời kỳ quá độ lên CNCS cần phải tập trung mọi nguồn lực
xây dựng xã hội mới đó cũng chính là mục đích cao nhất của nền kinh tế thị trờng
định hớng XHCN ở Việt Nam. Bởi về lý thuyết mỗi hình thái xã hội chỉ có thể phát
huy u thế khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của LLSX. Tuy nhiên, sau khi
Lê-nin qua đời những ngời lãnh đạo Liên Xô và nhiều nớc XHCN khác không nhận
thức đúng quan điểm của Ngời họ cho rằng sản xuất hàng hoá là tàn d của chế độ t
bản và thay thế nó bằng cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp gắn liền với nó là nền kinh
tế hiện vật ngự trị. Hậu quả của nền kinh tế kế hoạch là sự thụt lùi về sản xuất, khoa
học kỹ thuật, công nghệ, đời sống xã hội không đợc nâng cao, năng suất lao động
giảm vì thiếu hụt những nhân tố kích thích Đây là nguyên nhân quan trọng cản trở
những mục tiêu tốt đẹp của CNXH. Vì những cơ sở nêu trên của sản xuất hàng hoá
trong thời kỳ quá độ lên CNXH là bớc phát triển tất yếu tiếp tục quá trình sản xuất
của loài ngời từ khi ra đời. Sản xuất hàng hoá không phải là đặc trng riêng của CNTB
mà là vấn đề có tính quy luật, là nấc thang chủ yếu đi lên CNCS. Chỉ khi nào nhân
loại phát triển sản xuất đến trình độ cao đủ điều kiện phủ định kinh tế hàng hoá thì nó
mới không còn lý do để tồn tại.
1.2.Kinh tế thị trờng-Nấc thang phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá:
Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế tồn tại và phát triển trong
nhiều hình thái kinh tế- xã hội. Kinh tế hàng hoá là loại hình tiến bộ, là nấc thang cao
hơn kinh tế tự cấp tự túc trong sự phát triển của xã hội loài ngời. Còn KTTT là nấc
(1)
Mác-Anghen tuyển tập - Tập II - NXB Sự thật Hà Nội- 1962 (trang 147)
5
thang phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, khi mà các yếu tố đầu ra và đầu
vào của sản xuất đều đợc thực hiện thông qua thị trờng.
Trớc đây ngời ta thờng đánh đồng KTTT và CNTB hay nói cách khác: KTTT
chỉ có trong xã hội t bản. Nhng Các-Mác đã nêu hai điều kiện để hình thành KTTT là
sở hữu khác nhau và sự phân công lao động xã hội. Sau này để cụ thể hoá và thích
nghi trong điều kiện thị trờng cạnh tranh quyết liệt, nhiều nhà kinh tế đã đề cập rõ
hơn các điều kiện hoạt động của thị trờng là quyền chiếm hữu tài sản khác nhau và lợi

ích của ngời sản xuất kinh doanh khác nhau, tạo động lực cạnh tranh trên thị trờng.
Hiểu theo nghĩa đó thì KTTT không chỉ tồn tại trong xã hội t bản mà nó còn tồn tại
trong cả xã hội CNXH. Do đó, ta có thể phân chia KTTT thành ba loại: nền KTTT
TBCN, nền KTTT định hớng XHCNvà nền KTTT XHCN.
Vì cùng thuộc loại hình KTTT, các mô hình KTTT TBCN, KTTT định hớng
XHCN hay KTTT XHCN đều mang những tính chất chung thông thờng và chịu sự tác
động của các quy luật chung của KTTT, nó đòi hỏi phải tạo lập và vận dụng đồng bộ
các yếu tố và cơ chế thị trờng. Đó là dựa trên cơ sở đa dạng hoá về sở hữu và các
thành phần kinh tế để đảm bảo sự tự do và tự chủ kinh tế cho các chủ thể thị trờng;
các yếu tố chủ yếu và phạm trù cơ bản của KTTT nh cạnh tranh - độc quyền, cung-
cầu, hàng- tiền, giá trị- giá cả, lao động- t bản, giá trị sử dụng- giá trị- giá trị thặng d
và lợi nhuận...; các quy luật của KTTT nh quy luật giá cả, giá trị, giá trị thặng d, cung
cầu, cạnh tranh ; cơ chế vận hành kinh tế và sự điều tiết của thị tr ờng thông qua các
tín hiệu giá cả và cung- cầu, trong điều kiện hiện đại còn có sự quản lý nhất định của
nhà nớc.
1.2.1.Kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa:
Đối với mô hình KTTT TBCN có những đặc trng nh sau: đây là giai đoạn phát
triển cao của KTTT với sự vận hành đồng bộ thông suốt của hệ thống các thị trờng
riêng cũng nh dựa chủ yếu vào các quy luật giá trị thặng d, tích luỹ, TSX mở rộng
không ngừng. Chế độ sở hữu t nhân TBCN chiếm địa vị chi phối bản chất, xu hớng
phát triển cũng nh quy luật vận động của nền sản xuất; các nhà t bản lớn (chứ không
phải ngời sở hữu nói chung) ngày càng có nhiều điều kiện để tập trung TLSX và của
cải vào tay, do đó, thống trị nền kinh tế phục vụ cho lợi ích của họ. Tự do cạnh tranh
của TBCN dẫn đến cá lớn nuốt cá bé, áp đặt luật chơi của kẻ mạnh, kẻ mạnh sẽ
hốt bạc một cách sòng phẳng và lạnh ling; trên thực tế một thiểu số các nhà t bản
lớn luôn cấu kết với những thế lực chính trị cầm quyền để thực hiện sự bóc lột ,
thống trị với đa số nhân dân lao động nghèo khổ.
Trình độ xã hội hoá và toàn cầu hoá TBCN ngày càng cao dẫn tới sự cần thiết
điều chỉnh nhà nớc đối với nền kinh tế, nên chủ nghĩa t bản càng mang tính kế hoạch
trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, do bản chất cố hữu của sở hữu t nhân

và động cơ lợi nhuận mà càng đẩy tới sự phát triển cạnh tranh vô tổ chức và khủng
hoảng sâu sắc; CNTB hiện đại đã bổ xung thêm vào các cuộc khủng hoảng sản xuất
chu kỳ bằng các cuộc khủng hoảng cơ cấu và tài chính- tiền tệ. Sự cạnh tranh cũng
ngày càng quy mô và khốc liệt hơn, đó là các cuộc chiến tranh về kinh tế- thơng mại-
6
công nghệ, về tiền tệ, sắt thép, ôtô, máy bay và dầu mỏ ở vùng Vịnh hiện nay, là
chiến tranh giữa các tập đoàn xuyên quốc gia cũng nh giữacác trục, các trung tâm
và các khu vực trên thế giới. Nhìn chung, thu nhập và mức sống của dân c đợc tăng
lên rõ rệt, hay nh ngời ta nói: nớc lên thì thuyền lên; nhng đi sâu phân tích dựa trên
số liệu thống kê chính thức của các nớc t bản phát triển thì có thể nhận thấy rằng mức
tăng lên này cũng rất khác nhau, đặc biệt khoảng cách về mức sống giữa giai cấp t sản
và lao động cũng nh giữa các nớc giầu và nớc nghèo ngày càng xa nhau, tức sự phân
hoá- bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc.Chính sự phân cực và mâu thuẫn xã hội
không thể điều hoà này là nguy cơ tiềm ẩn gây nên bất ổn và cần thiết phải thủ tiêu
chế độ TBCN- một chế độ chỉ tồn tại, phát triển trên sự bóc lột của thiểu số nhà t bản
đối với đa số những ngời lao động.
1.2.2.Kinh tế thị trờng XHCN và kinh tế thị trờng định hớng XHCN:
Các mô hình KTTT XHCN (Trung Quốc) và KTTT định hớng XHCN (Việt
Nam) có một số điểm giống nhau căn bản: Đó là đều khẳng định tính chất và xu thế
phát triển tất yếu XHCN của các quá trình kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, do các nớc này
hãy còn thấp kém, cha phát triển nên CNXH còn ở trình độ thấp hay CNXH cha hoàn
chỉnh: CNXH giai đoạn đầu (theo cách nói của Trung Quốc) và thời kỳ quá độ lên
CNXH (theo cách nói của Việt Nam). Do đó, nhiệm vụ của giai đoạn xây dựng
CNXH hiện nay là phải thực hiện phát triển nhanh chóng các LLSX , tiến hành CNH
HĐH đất nớc, khắc phục mâu thuẫn chủ yếu giữa yêu cầu cải thiện, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân với nền sản xuất xă hội lạc hậu.
Việc sử dụng KTTT, các thành phần kinh tế kể cả thu hút đầu t của t bản nứơc
ngoài cũng là một tất yếu để phục vụ cho các mục tiêu XHCN. Xét về những nhiệm
vụ nặng nề và nội dung sâu sắc của các cuộc cải tạo kinh tế- xã hội thì CNXH giai
đoạn đầu cũng nh thời kỳ quá độ sẽ không thể chóng vánh mà phải rất lâu dài. Ví dụ,

Trung Quốc sự kiến tới hàng trăm năm và phấn đấu vào giữa thế kỷ XXI đạt mức phát
triển trung bình của thế giới; còn Việt Nam cũng dự kiến năm 2020 trở thành nớc
CNH trình độ tiên tiến của thế giới.
1.2.2.1.Kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa:
Đơng nhiên có sự khác nhau giữa hai mô hình CNXH, chủ yếu do những đặc
thù về điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội và lịch sử của mỗi nớc khác nhau.
Trung Quốc chủ trơng xây dựng KTTT XHCN mang màu sắc riêng và phù hợp với xã
hội Trung Quốc. Đặc trng của chế độ kinh tế của CNXH giai đoạn đầu hay KTTT
XHCN Trung Quốc có 3 điểm quan trọng: Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, lấy phân
phối theo lao động là chủ thể; lấy điều tiết vĩ mô của nhà nớc là chủ đạo. Điều này đ-
ợc biểu hiện qua các mặt sau đây:
Thứ nhất, Về sở hữu, thì kiên trì chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành
phần kinh tế cùng phát triển, đổi mới cơ cấu sở hữu xã hội. Chế độ công hữu ở đây
bao gồm quốc hữu, sở hữu tập thể, quốc hữu và sở hữu tập thể liên doanh với các hình
thức sở hữu khác hay là sở hữu hỗn hợp. Vai trò chủ thể của công hữu đợc thể hiện ở
chỗ chiếm tỷ trọng u thế, có sở hữu tập thể và nhà nớc, khống chế các mạch máu
7
kinh tế và đóng vai trò chủ đạo đối với phát triển kinh tế. Có thể thấy đây là sự bổ
sung quan trọng về lý luận. Hình thức thực hiện chế độ công hữu cũng đợc đa dạng
hoá; vừa có quốc hữulại vừa có tập thể, vừa có chế độ cổ phần lại vừa có chế độ hợp
tác cổ phần, vừa có quốc hữu và tập thể có cổ phiếu khống chế lại vừa tham gia sở
hữu hỗn hợp với các thành phần sở hữu khác.
Thứ hai, phân phối theo lao động là chủ yếu đồng thời lại thừa nhận nhiều ph-
ơng thức phân phối cùng tồn tại. Cơ cấu phân phối đợc đa dạng hoá: Phân phối theo
lao động kết hợp với phân phối theo các yếu tố sản xuất, theo góp vốn và theo trí tuệ
tài năng.
Thứ ba, thể chế kinh tế lấy xây dựng, hoàn thiện KTTT XHCN làm mục tiêu.
Điều này có ý nghĩa làm cho nền kinh tế đợc thị trờng hoá, vận hành theo các quy
luật và nguyên tắc của KTTT; làm cho thị trờng phát huy vai trò cơ sở trong bố trí
nguồn lực dới sự điều tiết vĩ mô của nhà nớc; kết hợp kế hoạch với thị trờng để giải

phóng sức sản xuất và thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển kinh tế. Theo quan điểm
của Trung Quốc kế hoạch và thị trờng không quy định sự khác biệt về bản chất giữa
CNXH và CNTB. TráI lại, CNXH cũng có thị trờng và CNTB cũng có kế hoạch. Bản
chất của CNXH là ở chỗ giải phóng sức sản xuất , phát triển sức sản xuất.
1.2.2.2.Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa:
Với t cách là cái đặc thù, KTTT định hớng xã hội chủ nghĩa đơng nhiên phải
phù hợp với cái chung, nhng phải lấy cái đặc thù chế ớc cái chung, sử dụng cái chung
KTTT nhằm đảm bảo tuân theo những nguyên tắc, mục tiêu và định hớng XHCN. Nói
sử dụng KTTT cho mục đích của CNXH chủ yếu là khai thác mặt tích cực và tiến bộ
của KTTT trong việc tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển, xã hội hoá
nền sản xuất và tăng năng suất lao động xã hội, để có điều kiện phúc lợi và nâng cao
mức sống cho nhân dân. Do đó ngoài những tính chất chung của KTTT, thì KTTT
định hớng XHCN còn có nét khác biệt:
Thứ nhất, KTTT dựa trên cơ sở chế độ công hữu làm chủ thể hay chủ đạo, bao
gồm các hình thức sở hữu nhà nớc, sở hữu tập thể và sở hữu xã hội chiếm u thế. Điều
này là phù hợp với xu thế lịch sử của xã hội hoá sản xuất. Để thị trờng hoá chỉ cần
tách quyền sử dụng khỏi quyền sở hữu, cũng giống nh đối với thị trờng quyền sử dụng
đất đai hay chế độ đại diện trong sở hữu cổ phần.
Thứ hai, KTTT phát triển có kế hoạch hay nói cách khác, sự kết hợp hữu cơ
giữa hai cơ chế kế hoạch và thị trờng; điều này có thể thực hiện đợc trong điều kiện
một nền sản xuất có tính xã hội hoá cao, dựa trên chế độ công hữu; hơn nữa, ở đây
không nên hiểu kế hoạch theo kiểu cũ mà là kế hoạch- chơng trình mang tính định h-
ớng, trên nguyên tắc thị trờng trực tiếp điều tiết, phân bổ các nguồn lực và doanh
nghiệp, còn nhà nớc quản lý thị trờng gián tiếp thông qua các công cụ - đòn bẩy kinh
tế vĩ mô cũng nh tổng thể sức mạnh nhà nớc về chính trị- hành chính và luật pháp- thể
chế.
Thứ ba, tác dụng phân hoá hai cực của KTTT sẽ bị hạn chế đáng kể nhờ các
chế độ bảo hiểm và an sinh xã hội cũng nh công cụ thuế luỹ tiến đánh vào tài sản và
8
thu nhập. Đồng thời, mặt tích cực của quy luật giá trị đợc sử dụng nhằm kích thíc

tăng năng suất lao động hạ thấp chi phí giá thành, phát triển sản xuất, tăng của cải và
phúc lợi xã hội, do đó, cho phép một số ngời giàu lên trớc cùng làm gơng và tất cả
cùng giàu lên theo.
Thứ t, KTTT trong sạch và không có tham nhũng, vì về nguyên tắc chính quyền
phải tách khỏi doanh nghiệp, chỉ là cơ quan quản lý, giám sát giúp đỡ cho thị trờng
vận hành tốt. Trái lại, KTTT TBCN luôn có sự câu kết giữa các thế lực tài phiệt và nhà
nớc, làm mục ruỗng bộ máy nhà nớc và chi phối các chính sách của quốc gia, hình
thành t bản lũng đoạn nhà nớc và chủ nghĩa đế quốc xâm lợc.
Thứ năm, KTTT với ngời lao động làm chủ. Điều này là có thể trên cơ sở nhà
nớc thực sự của dân, do dân và chế độ công hữu; trong đó, ngời lao động cũng đồng
thời là ngời sở hữu các TLSX , kể cả quyền sở hữu sức lao động của bản thân mình
với với điều kiện tách quyền sở hữu sức lao động và quyền sử dụng sức lao động.
Thứ sáu, KTTT với việc không ngừng cải thiện hoàn cảnh của hàng trăm triệu
nông dân và và nông nghiệp, gắn nông dân với thị trờng cả nớc và quốc tế , làm cho
nông dân giàu lên cùng với toàn xã hội. Đó là sự thật hiển nhiên bắt nguồn từ một
thực tế là cả Trung Quốc và Việt Nam đều còn phổ biến là nền sản xuất nhỏ của
nông dân.
Thứ bảy, KTTT với các doanh nghiệp nhà nớc đợc đổi mới và cơ câú lại, trên
cơ sở tách chính quyền khỏi doanh nghiệp và tách quyền sở hữu tài sản nhà nớc khỏi
quyền kinh doanh, làm cho doanh nghiệp nhà nớc hoạt động hiệu quả trong KTTT, có
khả năng trở thành chỗ dựa vững chắc trong cho KTTT. Mục tiêu chân chính của cải
cách thị trờng nền kinh tế là đa dạng hoá sở hữu và các thành phần kinh tế, khơi dậy
động cơ lợi ích và tinh thần kinh doanh sáng tạo, hoàn toàn không có nghĩa là t hữu
hoá tài sản công hữu mà chủ yếu phải chuyển các doanh nghiệp nhà nớc sang hoạt
dộng thích ứng trong những điều kiện thị trờng.
Nhìn chung, KTTT định hớng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội
đặc biệt của xã hội đặc biệt- nền kinh tế quá độ của xã hội quá độ. Đồng thời, nó
cũng phản ánh sự kết hợp giữa cái chung- KTTT với cái riêng là định hớng XHCN ,
dựa trên nguyên tắc tôn trọng cái chung đồng thời lấy cái đặc thù làm chủ đạo, nhằm
chế ngự và sử dụng cái chung phục vụ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

2.Đặc tr ng của nền kinh tế thị tr ờng định h ớng XHCN ở Việt Nam:
Kinh tế hàng hoá phát triển qua ba giai đoạn tơng ứng với ba giai đoạn phát
triển của lực lợng sản xuất: sản xuất hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trờng tự do, kinh
tế thị trờng hiện đại. Hiện nay kinh tế thị trờng nớc ta còn ở trình độ kém phát triển.
Tuy nhiên, nớc ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển kinh tế của các nớc đi
trớc: kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển lên kinh tế thị trờng tự do, rồi từ kinh tế thị tr-
ờng tự do chuyển lên kinh tế thị trờng hiện đại, mà nớc ta cần phải và có thể xây
dựng nền kinh tế thị trờng hiện đại, định hớng xã hội chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn.
Do vậy, nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta không phải là nền
kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp nh trớc đây, không phải
9
là kinh tế thị trờng tự do nh cách của các nớc t bản, và cũng cha hoàn toàn là kinh tế
thị trờng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chúng ta còn đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, còn có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa cha có đầy đủ
yếu tố xã hội chủ nghĩa.Với những nét đặc trng nh vậy mà nền kinh tế thị trờng nớc ta
một mặt vừa có tính chất chung của nền kinh tế thị trờng, vừa mang những nét
riêng.Ngoài những nét chung của KTTT nh:
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
- Giá cả do thị trờng quyết định, hệ thống thị trờng đợc phát triển đầy đủ và nó có tác
dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế.
- Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trờng nh: quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh Sự tác động giữa các quy luật tạo nên
cơ chế điều tiết của nền kinh tế.
- Kinh tế thị trờng hiện đại còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nớc thông qua luật pháp
kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế.
Kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta còn có những nét đặc trng:
2.1.Kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt
kinh tế xã hội ngay trong từng b ớc phát triển.
Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền

KTTT khác phải nói đến mục tiêu kinh tế- xã hội mà nhà nớc và nhân dân đã lựa chọn
làm định hớng chi phối sự vận động, phát triển của nền KTTT. Mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã quy định tính tất yếu khách quan phải
định hớng XHCN cho nền KTTT ở nớc ta. Đó chính là sự khác biệt rõ nét nhất giữa
KTTT nớc ta với KTTT các nớc khác. Sự khác biệt này đợc Đảng chỉ rõ trong Đại hội
IX: Mục đích của nền KTTT định hớng XHCN là phát triển lực lợng sản xuất, phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân
dân.
(1)

Trong nền KTTT nớc ta, các hình thức kinh tế và phơng pháp quản lý của
KTTT đợc sử dụng nh một công cụ, phơng tiện để đạt tới nền kinh tế tăng trởng cao,
bền vững, ổn định nhằm mục tiêu dân giàu, nớc mạnh góp phần phát huy mọi tiềm
năng, sức lực trong xã hội, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho
toàn xã hội. Đây cũng chính là nội dung, yêu cầu phát triển rút ngắn ở nớc ta hiện
nay.
Đồng thời với việc khai thác triệt để những mặt tích cực, những lợi thế của
KTTT, chúng ta khắc phục, ngăn ngừa, hạn chế những mặt tiêu cực phát sinh từ mặt
trái của nền kinh tế thị trờng: vừa kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, vừa
bảo vệ lợi ích của nhân dân và nâng cao địa vị làm chủ của ngời lao động; vận dụng
các quy luật của thị trờng để kiên trì thực hiện công bằng xã hội, giải quyết vấn đề
công bằng, tiến bộ xã hội cải thiện đời sống nhân dân phù hợp với từng bớc tăng trởng
kinh tế, tạo điều kiện công bằng trong phát triển con ngời.Theo đó có thể coi phát
(1)
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG 1995-1996,T8,trang 493.
10
triển trong công bằng là một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN ở nớc ta. Chúng ta không đợi khi KTTT phát triển mới giải quyết công bằng
xã hội mà có thể và cần phải giải quyết nó trong từng bớc phát triển của nền kinh tế,
sản xuất gắn liền với đời sống nhân dân, thu nhập kinh tế đi đôi với tiến bộ và công

bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liềnvới xoá đói giảm nghèo.Phát
triển trong công bằng là sự phát triển mà mọi tầng lớp nhân dân đều có điều kiện để
tham gia và đợc hởng những thành quả tơng xứng với sức lực, khả năng, trí tuệ họ bỏ
ra, bảo đảm cơ bản về cơ hội cho ngời dân tham gia các hoạt động kinh tế xã hội.
Phát triển trong công bằng đợc hiểu là cả hai mặt kinh tế và xã hội của thị trờng phải
đợc chủ động kết hợp với nhau thông qua luật pháp , chính sách kinh tế và chính sách
xã hội cả tầm vĩ mô và vi mô.
Cái khác cơ bản của thị trờng XHCN là thu hẹp dần sự phân biệt giàu nghèo.
Công bằng về phân phối thu nhập đã tạo ra và là nguồn gốc của mọi công bằng khác
nh công bằng về chăm sóc y tế, về học hành Muốn vậy phải vận dụng các quy luật
thị trờng để kiên trì thực hiện công bằng xã hội chứ không phải ra những mệnh lệnh
hành chính thay cho thị trờng hay dùng một bộ máy phân phối thay cho thị trờng,
phải dùng luật pháp để cho quy luật phân phối theo lao động dần dần đợc phát huy tác
dụng ngày càng cao hơn kiểu t bản.
Để đạt tới công bằng trong phân phối thu nhập , chúng ta thực hiện các hình
thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, hiệu
suất công tác, phân phối theo mức góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó hình thức phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đi đôi với chính sách điều tiết
thu nhập một cách hợp lý nhằm thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu- nghèo, vừa
khuyến khích lao động, vừa đảm bảo những phúc lợi xã hội cơ bản.
2.2.Nền KTTT định hớng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế thị trờng nớc ta trong thời kỳ quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế
trên cơ sở các hình thức sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất (sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu t nhân). Mỗi thành phần kinh tế có mục đích cụ thể khác nhau nhng
đều phải chịu sự chi phối và kiểm soát, định hớng của nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Nhà
nớc ta với t cách là đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, đồng thời nắm trong
tay các mạch máu quan trọng có đủ điều kiện hớng dẫn điều tiết, kiểm soát tất cả các
thành phần kinh tế phát triển theo định hớng XHCN nhằm mục đích dân giàu nớc

mạnh mọi ngời sống hạnh phúc có văn hoá, kỷ cơng. Vì vậy, các thành phần kinh tế
đều bình đẳng trớc pháp luật đợc tạo môi trờng và điều kiện cho sản xuất kinh doanh
đợc khuyến khích phát triển nhng mỗi chủ thể kinh tế đều phải chịu trách nhiệm trớc
pháp luật.
Sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa bao gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể phải trở thành nền tảng của toàn bộ nền
kinh tế đóng vai trò chủ đạo là chỗ dựa để nhà nớc quản lý điều tiết hớng dẫn sản xuất
11
hàng hoá cuả các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hớng XHCN. Kinh tế
quốc doanh cũng nh mọi thành phần kinh tế khác phải đơng đầu với thị trờng, chịu sự
chi phối của các quy luật thị trờng. Để làm tốt vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp
nhà nớc phải khắc phục hạn chế quản lý hành chính, làm chủ thị trờng bằng nghệ
thuật quản lý, nâng cao chất lợng sản phẩm, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất
hàng hoá của các thành phần kinh tế khác. Trong thời kỳ quá độ tiềm năng của những
thành phần kinh tế này còn lớn , có vai trò quan trọng trong phát triển lực lợng sản
xuất, tạo ra công việc và sản phẩm hàng hoá cho xã hội, góp phần giải quyết những
khó khăn kinh tế- xã hội. Nhng sản xuất hàng hoá của các thành phần kinh tế đó đều
có cơ sở chung là dựa trên chế độ t hữu không thể tránh khỏi việc chạy theo lợi nhuận
và khuynh hớng tự phát t bản. Bởi vậy chủ trơng và chính sách khuyến khích phát
triển kinh doanh và làm giàu chính đáng nhng nhà nứơc phải sử dụng những biện
pháp thích hợp để ngăn chặn khuynh hớng tự phát tiêu cực, hớng các thành phần này
theo con đờng xã hộ chủ nghĩa. Tóm lại, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ mặc dù mỗi thành phần kinh tế, mỗi loại sản xuất hàng hoá có
bản chất xã hội riêng song chúng đều là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân thống nhất, hình thành và chịu sự chi phối của một thị trờng xã hội thống
nhất, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lẫn nhau dới sự quản lý điều tiết của nhà nớc
xã hội chủ nghĩa.
2.3.Nhà nớc quản lý nền kinh tế thị trờng ở nớc ta là nhà nớc của dân, do dân, vì
dân đặt dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong nền KTTT hiện đại nhà nớc tham gia vào các quá trình kinh tế là xu h-

ớng khách quan. Nhng khác với bản chất của nhà nớc t sản, nhà nớc ta là nhà nớc của
dân, do dân và vì dân dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chính điều này đã làm cho
KTTT nớc ta khác KTTT TBCN về bản chất và mô hình. Nền kinh tế ấy đặt dới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản, dới sự quản lý của nhà nớc XHCN Việt Nam nhằm hạn
chế, khắc phục những thất bại của thị trờng, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo
mà bản thân thị trờng không làm đợc. Đảng cộng sản và nhà nớc XHCN Việt Nam
đã tìm ra mô hình KTTT của riêng mình. Đây là một nội dung quan trọng không thể
thiếu trong định hớng XHCN đối với nền KTTT.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố quyết định nhất đảm bảo định hớng
XHCN của nền KTTT cũng nh toàn bộ sự nghiệp phát triển đất nớc. Đảng phải khẳng
định vai trò của mình bằng cơ chế lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của nền KTTT. Đảng
định hớng KTTT theo CNXH thể hiện ở sự lãnh đạo, việc thực hiện đờng lối, chính
sách KTTT với mục tiêu vì lợi ích của nhân dân, vì một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Qua đó, Đảng uốn nắn những lệch lạc, bổ sung và hoàn chỉnh những chính
sách về KTTT, đảm bảo tính chính trị trong sự phát triển của kinh tế. Với sự lãnh đạo
chiến lợc Đảng phải luôn nghiên cứu, bám sát thực tiễn, đánh giá tình hình thực tiễn,
mạnh dạn thử nghiệm và tổng kết thực tiễn, kiểm chứng, hoàn thiện cơng lĩnh chiến l-
ợc, dự báo một cách khoa học, chính xác về sự phát triển của nền KTTT nớc ta. Đây
cũng chính là quá trình nâng cao năng lực tổ chức và phơng pháp hoạt động thực tiễn
12

×