Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phật giáo, ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.19 KB, 26 trang )

1 Đặt vấn đề
Phật giáo là một học thuyết Triết học – tôn giáo lớn trên thế giới, với hệ thống
giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo. Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất
sớm khoảng vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. Từ lúc ra đời cho đến nay vẫn thể
hiện sự ảnh hưởng rộng lớn của mình tất cả lĩnh vực trong đời sống của người dân
Việt Nam. Tuy vậy, Phật giáo không phải thống trị hết thế giới tư duy người Việt, mà
ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì các tơn giáo lại có sự ảnh hưởng khác nhau. Ở
Việt Nam Phật giáo phát triển cực thịnh nhất và nắm vai trò chủ đạo nhất vào khoảng
thể kỷ X – XIV. Và bên cạnh đó là sự tồn tại song song của các tôn giáo khác như
Nho giáo, Đạo giáo, và Thiên chúa giáo nhưng đặc biệt hơn là sự suất hiện của học
thuyết Mác – Lê-nin vào giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Tất cả đã cùng chi phối đến
mọi mặt của xã hội Việt Nam.
Trong công cuộc xậy dựng chủ nghĩa xã hội với việc sử dụng hệ thống lý
thuyết tư tưởng chính là chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy vậy
hệ thống kiến trúc thượng tầng là Phật giáo vẫn tồn tại và có những tác động vào đời
sống, tư duy của người dân về thế giới quan và nhân sinh quan. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu Triết học- tơn giáo Phật giáo với những tác động của nó sẽ cho một cái
nhìn chính xác, khách quan về những tiến bộ và hạn chế của hệ thống tôn giáo lớn từ
đó đánh giá đúng đắn hơn về con người trong bản thể vốn có của mình. Theo đạo để
có niềm tin là việc thiện hay sa vào mê tín dị đoan, cuồng tin.
Phật giáo hiện nay được nghiên cứu khá mở rộng, ngoài việc nghiên cứu giáo
lý, kinh điển, lịch sử của Phật giáo còn đề cập đến các lĩnh vực như Triết học, Sử học,
Văn học, Nghệ thuật…Phật giáo đã trở thành một ngành khoa học quan trọng và có
quan hệ mật thiết với đời sống xã hội con người.
Hơn nữa trong quá trình Phật giáo được truyền bá và phát triển ở Việt Nam gắn
liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy khi
nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật
giáo và những mối liên hệ tác động qua lại giữa chúng. Phật giáo - ảnh hưởng của nó


đến xã hội và con người Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng nhằm tìm


hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt
Nam trong tương lai. Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Phật giáo, ảnh hưởng
của Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt Nam” trên cơ sở kế thừa và chọn lọc
từ các bài nghiên cứu trước, để từ đó có cái nhìn tồn diện về tơn giáo của Việt Nam.
2 Lịch sử nghiên cứu
Trong quá trình hình thành và phát triển với những ảnh hưởng về mọi mặt đối
với xã hội thì đã có khơng ít các cơng trình nghiên cứu về đạo Phật và những tư
tưởng của đạo Phật ảnh hưởng đến đời sống của người dân, tuy nhiên các bài viết
mới nhìn một cách bao quát mà chưa đi sâu phân tích.
Trong “Đạo Phật và giáo dục con người tồn diện”của Nguyên Thuần có viết
như sau: “Thứ nhất, về nội dung giáo dục, khơng có gì thuộc về cái chung hay tồn
cục lại có thể xa lạ đối với cá nhân trong suốt quá trình học tập và rèn luyện. Thứ hai,
về kết quả giáo dục, sự chuyển hóa nội tâm, việc trau dồi tri thức và trang bị một cái
nhìn đúng đắn cho từng cá nhân khơng chỉ nhằm đem lại hạnh phúc và lợi lạc cho cá
nhân đó, mà phải đem lại những kết quả và ảnh hưởng cụ thể đến gia đình, cộng
đồng, xã hội trong đó cá nhân tồn tại và phát triển.”
“Trong lịch sử Phật giáo thế giới”có viết:“Phật giáo lúc đầu xuất hiện như một
"viếng sáng châu Á" nhưng dần dần đã trở thành ánh đạo vàng của Đông Tây, hiện
hữu ở mọi châu lục, đáp ứng được nhu cầu cao cấp của đời sống tâm linh của nhân
loại, không lệ thuộc vào thần quyền, tha lực, nhưng đặt nặng sự chuyển hóa tâm tư
bằng những nỗ lực tự thân như thiền định, đời sống đạo đức và nhận thức tuệ giác.”
Tuy các bài viết chưa sâu phân tích nhưng các bài viết đã là tài liệu quý giá để
tôi định hướng cho đề tài của mình.
3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo, ảnh
hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.


Phạm vi nghiên cứu: chỉ nghiên cứu những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật
giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.

4 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứa tiểu luận là phương pháp tổng hợp các phương pháp
biện chứng duy vật, phân tích , tổng hợp gắn với lý luận thực tiễn để thực hiện đề tài.
5 Bố cục của đề tài
Bài tiểu luân “Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của
người dân Việt Nam” ngoài phần Mở đầu và Kết luận và Tài liệu tham khảo thì gồm
ba chương như sau:
Chương 1: Sự ra đời và phát triển của tư tưởng triết học Phật giáo
Chương 2: Nội dung của tư tưởng triết học Phật giáo
Chương 3: Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt Nam
6 Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Bài tiểu luận “Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần
người Việt Nam” nhằm phần nào hiểu về quan niệm triết học về đạo Phật với những
tư tưởng cơ bản, quá trình hình thành, phát triển của đạo Phật ở Việt Nam. Từ đó thấy
được những tác động của tư tưởng triết học Phật giáo vào đời sống tinh thần của
người Việt Nam.


CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1

Sự ra đời của tư tưởng triết học Phật giáo

Theo truyền thuyết, Thái tử Xítđácta Gơtama (Siddhartha Gautama, 563-483
TCN), con vua Sutdơđana (Suddhodana), thuộc bộ tộc Thích ca (Shakya) của nước
Capilavaxtu - một nước nhỏ ở miền Đông - Bắc Ân Độ, nằm dưới chân dãy
Hymalaya, nay thuộc đất Nepan là người đã sáng lập ra Đạo Phật chính bởi lịng từ bi
và từ hồn cảnh sống của Ngài lúc bấy giờ.
Dân tộc Ấn Độ bấy giờ chia ra làm bốn phái rõ rệt là: Tăng ly, q tộc, bình

dân, nơ lệ. Ngài là dịng q tộc nhưng chỉ có quyền mà khơng có thế, vì bao nhiêu
học thuật, luật pháp đều ở trong tay phái Bà-la-môn cả. Ngài lại thấy cái khổ của
những kẻ nô lệ gần Ngài, hàng ngày thường nghe và thấy bao nhiêu chuyện đau khổ
của nhân loại, và dù Người được sinh vào nơi quyền quý, nơi mà người đời đã cho là
sung sướng, cũng khơng tránh “sinh, lão, bệnh, tử”. Vì vậy, Ngài bắt đầu ngờ vực
trước sự sống và đau khổ của loài người. Ngài lại càng buồn rầu khi thấy chỉ có mình
Ngài cảm biết nỗi đau khổ ấy, còn biết bao nhiêu người vẫn sống mê man trong tranh
đua, áp chế, cướp giết lẫn nhau, gây thêm cho nhau bao nhiêu là cảnh khổ thương


tâm, mà người đời vẫn triền miên sống trong vòng tội lỗi tối tăm, trong cảnh khổ
không bờ bến mà khơng hề tự biết. Từ đó Ngài mới nhóm trong tâm một lý tưởng :
“Phải tìm lấy chân lý đủ cứu vớt chúng sinh ra ngoài bể khổ”.
Trải qua bảy năm theo các bậc chân tu khổ hạnh của truyền thống tu luyện Ấn
Độ mà Ngài vẫn chưa tìm ra chân lý. Cuối cùng, Ngài lang thang đến cánh rừng
thiêng Ưravela (Gaya, thuộc tỉnh Bihar, miền Bắc Ân Độ) và ngồi thiền dưới gốc cây
bồ đề. Sau ba ngày đêm suy ngẫm, Ngài phát hiện ra bản tính vơ ngã, vô thường của
thế giới. Ngài tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm bốn mươi chín ngày nữa đế
chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi
khổ đau. Khi ấy Ngài yên lặng, hoàn toàn sống trong sự sáng suốt nhiệm màu của
chân lý mà Ngài đã chứng ngộ, rồi Ngài trở lại với loài người, đem đạo lý ra mà
thuyết pháp giáo hóa. Và cũng từ đó trở đi, người ta gọi Ngài là Phật (Buddha), ngài
là người đã giác ngộ - thấu hiếu chân lý. Sau khi thành Phật, Ngài xây dựng Giáo
đoàn Phật giáo và chu du khắp các lưu vực sơng Hằng, giáo hóa được vơ số chúng
sinh đang mê muội, trở nên giác tĩnh, đều quy y Phật pháp để tu hành diệt khổ, chứng
đạo Niết-bàn. Ngài được đệ tử tơn xưng là Thích Ca Mâu ni, nghĩa là bậc hiền triết
của dịng tộc Thích Ca.
1.2

Sự phát triển của tư tưởng triết học Phật giáo


Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ.
Để chấn chỉnh giáo lý, giáo luật và tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập
ba cuộc đại hội ở Magađa. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, đạo Phật truyền sang Xri
Lanca, rồi sau đó truyền đến Myanma, Thái Lan, Inđơnêxia... Đầu thế kỷ I, đạo Phật
triệu tập đại hội bốn ở nước Cusan để thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách gọi là
Đại thừa, còn giáo lý của đạo Phật cũ gọi là Tiểu thừa.
Kinh điến của Phật giáo có khoảng 5000 quyển, chia thành Tam tạng.Tạng
Kinh ghi lại những lời giảng của Phật Thích ca nhằm giúp chúng sinh loại trừ phiền
não và đạt đến niết bàn. Tạng Luật ghi lại những giới luật mà giáo đoàn Phật đề ra,
đòi hỏi các đệ tử phải tuân theo để cho thân - tâm thanh tịnh. Tạng Luận ghi lại


những lời luận bàn của các bậc cao tăng, trưởng lão nhằm làm sáng rõ ý nghĩa của
những lời kinh, để giúp người đời phân biệt được phải - trái, chính - tà. Tam tạng lại
chia làm hai loại là Đại thừa và Tiếu thừa.
Tiếu thừa như là một cồ xe nhỏ, con đường cứu vớt hẹp. Phái Tiểu thừa cho
rằng: Chỉ có một Phật duy nhất là Phật Thích Ca, và chỉ có Phật Thích Ca mới cứu độ
chúng sinh được; chỉ có những người xuất gia đi tu mới được Phật Thích Ca cứu vớt
đưa đến Niết Bàn - cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, khơng có phiền
não khổ đau.
Đại thừa như là cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng. Phái Đại thừa cho rằng:
Phật Thích Ca là Phật cao nhất, ngồi ra cịn có các Phật khác như Phật A Di Đà - vị
Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây, Phật Di Lặc - vị Phật tương lai sẽ
nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này, Phật Đại Dược Sư - vị Phật hiện
đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Đơng. Khơng chỉ có nhũng người tu hành mà cả
những người trần tục quy y Phật pháp cũng đều có thế được cứu vớt đưa đến niết bàn,
nghĩa là có thế thành Phật - đó là các vị Bồ tát như: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Ầm,
Địa Tạng, ..., dù đã thành Phật nhưng họ tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng
sinh. Phái đại thừa đề cao tầng lớp tăng ni - người trung gian giữa tín đồ và Bồ tát,

coi trọng nghi thức cúng bái và chủ trương thờ tượng Phật.
Sau đại hội lần thứ 4, các nhà sư được khuyến khích ra nước ngồi truyền đạo.
Từ Án Độ, Phật giáo Đại thừa lan truyền vào các nước Trung Á và Đông Á như Tây
Tạng, Trung Hoa, Mông cổ, Nhật Bản, cả Bắc Việt Nam,... Trong khi đó, Phật giáo
nguyên thủy - Phật giáo Tiếu thừa vẫn tồn tại phố biến ở các nước Đông Nam Á như
Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam,... Ngày nay, sự chia
rẽ giáo lý tiểu thừa và đại thừa đã được Phật giáo thống nhất ra sức khắc phục.

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO


1.2. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật Giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng kinh
điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan điểm về
thế giới và con người.
1.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vơ ngã, vơ thường và dun.
Vơ ngã (khơng có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết
học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng
tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người
không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2
yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận
được, nó bao gồm đất, nước, lửa và khơng khí; Danh là yếu tố tinh thần, khơng có
hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý
muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm

sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng
tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật
chỉ là tạm thời, thống qua, khơng có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó,
khơng có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không
nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến
dạng và mất đi.


Do đó, khơng có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi khơng
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại, đều là vơ thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng
thái nhất định, ln ln thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị
rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vât, hiện tượng
cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không phải là sự
vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt, mà trong sự
sống có sự chết, chết khơng phải là hết, không phải là hết khổ mà chết là điều kiện
của một sinh thành mới.
Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là
điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “NhânQuả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai
trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu khơng có nhân thì khơng thể có
quả, nếu khơng có quả thì khơng thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về khơng
khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.

Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con
người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu
tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ,
vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động , biến đồi nằm trong
các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mọc mạc chất phát nhưng
rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
1.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan


Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết
“Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi
mọi người phải nhận thức được [8]. Tứ diệu đế là:
Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc
đời là vô thường, vơ ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là :
sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán
tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được)
và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ
đau là một thực tại như thực đối với con người. khổ đế là một chân lý khách quan
hiện thực. khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ
tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái
khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người
không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi
sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ khơng cịn tồn tại nào khác. Ngay

cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của
con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
Nhân đế (hay Tập đế):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập
lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được
trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi.
Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân


duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người. 12 nhân
dun gồm:
1. Vơ minh (khơng sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng
suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, khơng tìm ra ngun nhân và con đường thốt
khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu
đế cũng được gọi là Vô minh.
2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu
hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là
sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với
lục căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động
của thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, khơng chịu xa lìa, rồi muốn chiếm
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.

10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già,
ốm đau rồi chết.


Thập nhị nhân dun có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều
cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia,
cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích là
12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa
là tham lam, ích kỷ, cịn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp
nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vơ minh, tức là si mê khơng
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô
thường và chuyển biến, khơng có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.
Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay khơng là do lịng mình. Hay nói
cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay khơng.
Nếu khơng bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối,
ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
Diệt đế:
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự
khổ cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ
diệt trừ vơ minh.
Vơ minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, khơng cịn tham dục và kéo theo những hành động tạo
nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vịng ln hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vơ
minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới
hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ,

thì những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản,
đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn.
Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí khơng bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải


mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng
sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với
mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu
lịng tham, vơ minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến
mức độ ấy.


Ðạo đế:

Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn
thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một
khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thốt khỏi vịng sinh tử. Chấm dứt
luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân
chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao
gồm:
1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vơ ngã.
2.Chính tư duy: suy nghĩ ln có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa
của bốn chân lí một cách khơng sai lầm.
3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, khơng nói dối hay nói phù phiếm.
4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc
xấu, nên làm việc thiện.
5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan
đến sát sinh.

6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7.Chính niệm: tâm niệm ln tin tưởng vững chắc vào sự giải thốt, ln tỉnh
giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.


8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô
ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vơ minh, đạt
tới sự giải thốt, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm
dứt sinh tử ln hồi.
Ngồi ra Phật giáo cịn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người
và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất
vọng ngữ (khơng nói năng thơ tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo
(không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo ngun thuỷ có tư tưởng vơ thần, có yếu tố duy vật và tư
tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và làm
việc thiện nhằm góp phần hồn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân
sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không
tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực
trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước
vọng giải thốt nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do
bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan
khơng tưởng và duy tâm về xã hội.


CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐÉN ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM
3.1Quá trình du nhập và phát triến của Phật giáo và triết học Phật giáo
vào Việt Nam

3.1.1 Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
3.1.1.1Nguồn gốc nguyên thủy từ Ân Độ của Phật giáo Việt Nam
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên thật ra
không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang trực tiếp tù' Ấn Độ.
Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu,
có uy tín về Phật
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên thật ra
khơng phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang trực tiếp tù' Ấn Độ.
Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chun sâu,
có uy tín về Phật giáo đã khắng định điều này.
Quốc gia Âu Lạc đã bị Nam Việt của Triệu Đà thơn tính vào năm 179 TCN, và
lập thành quận Giao Chỉ. Năm 110 TCN, Nam Việt trở thành nội thuộc của nhà Hán,
Giao Châu theo đó mà cũng quy về, và được chia thành hai quận là Giao Chỉ và Cửu
Chân.
Trên lãnh thố của nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại ba trung tâm Phật giáo là Luy
Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Sử liệu cô của Trung Hoa không ghi nhận được rõ
ràng sự hình thành của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành. Chỉ có Luy Lâu
thuộc Giao Chỉ là được xác định rõ ràng và sớm nhất, và còn là bàn đạp cho việc hình
thành hai trung tâm kia.Từ nửa sau thế kỷ thứ hai, Luy Lâu đã tồn tại như một trung
tâm Phật giáo quan trọng và phồn thịnh.
Vào đầu công nguyên, Ân Độ đã giao thương mạnh mẽ với Trung Đông, và
gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, do đó họ cần có một nguồn cung cấp nguyên vật
liệu, vật phẩm cho sự giao thương này. Họ giong buồm, theo gió mùa tây nam mà đi


về đơng, đến Giao Chỉ, rồi có thế từ Giao Chỉ mà lại theo tiếp đường biến hay đường
bộ vào trong nội địa Trung Hoa. Trong khi đợi gió mùa đông bắc để quay về Ân, sự
lun trú của số thương gia này đã lan truyền dần những nét văn hóa Ân Độ, trong đó
có việc thờ cúng Phật, tụng kinh... Nhũng tăng sĩ mà các thương nhân đem theo trên
thuyền buôn nhằm làm công việc cầu khấn sự phù trợ của đức PhậMột số chứng liệu,

lập luận đáng chú ý khác cũng củng cố lập luận này. Theo đó thì vào thời kỳ nhà Hán,
Khống và Lão giáo, đặt biệt là Khống giáo, đã rất mạnh, giới trí thức Khống, Lão đã
chống lại Phật giáo, một luận thuyết tỏ ra khá xa lạ với những chuân mực đạo đức, xã
hội của Khơng, Lão. Do đó mà Phật giáo rât khó đê có thê thâm nhập. Người Hán
muốn đưa Phật giáo vào, sau đó đã phải mượn thuyết “hóa Hồ” để dễ dàng hơn trong
việc thực hiện công việc này . Trong khi đó, ở Giao Châu, Phật giáo xem ra rất phù
hợp với tín ngường dân gian, nên việc thâm nhập khơng gặp trở ngại, mà lại cịn dễ
dàng và nhanh chóng.
Vào thời đó, dù từ Trung Hoa đã có con đường bộ đi đến Án gần hơn đường
biến, nhưng con đường xuyên qua Trung Á nhưng chứa đựng nhiều hiểm nguy nên
đường biến an ninh hơn. Đen cuối thế kỷ này, Pháp Hiến mới từ Trung Hoa sang Án,
và đến tận thế kỷ thứ bảy, Huyền Trang đã phải trải qua không biết bao nhiêu gian
nan mới đi trọn vẹn con đường.
Ngồi ra cịn có hai chứng liệu rất quan trọng cho nguồn gốc rất sớm của Phật
giáo Việt Nam. Thứ nhất, tập luận thuyết Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự, Lý hoặc
luận của Mâu Tử (165? 170? -?) đã được viết ở Giao Chỉ, chứ không phải ở một nơi
nào khác sâu trong nội địa Hán. Thứ hai, vào thế kỷ thứ hai, ở Giao Chỉ đã có một
tăng đồn đến 500 vị và khoảng 15 bộ kinh, trong khi đến thế kỷ thứ ba ở Hán mới có
tăng đồn.
3.1.1.2 Sự du nhập từ Phật giáo phương Bắc
Từ thế kỷ thứ ba, Phật giáo tại Giao Châu vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với
sự xuất hiện của Tăng Hội (? - 280) và tư tưởng thiền của ơng. Ơng khơng những là
sáng tố của Thiền học Việt Nam, mà còn là người đầu tiên đem thiền học phát huy ở


Trung Hoa (Tăng Hội đã ở trên đất Ngô từ năm 255 đến 280).
Thiền định Việt Nam, từ nguyên thủy vốn khơng phải được truyền từ Trung
Hoa sang. Nó đã xuất hiện, dù có thể hồn tồn là bước đầu, ở Giao Chỉ, từ trước
Tăng Hội. Trong Tứ thập nhị chương, danh từ thiền định đã một lần được nhắc đến.
Kinh này cịn nói đến “qn thiên địa, niệm vơ thường”, là một phép thiền, gọi là Vô

thường quán. Nhưng dù sao, đến thế kỷ thứ ba, có lẽ đã có một thực tế là Phật giáo từ
phương Bắc, cho dù có hình thành những trung tâm muộn hơn, cũng đã bắt đầu có
ảnh huởng trở lại Thiền định Việt Nam, tù' nguyên thủy vốn không phải được truyền
từ Trung Hoa sang. Nó đã xuất hiện, dù có thể hồn toàn là bước đầu, ở Giao Chỉ, từ
trước Tăng Hội. Trong Tứ thập nhị chương, danh từ thiền định đã một lần được nhắc
đến. Kinh này cịn nói đến “qn thiên địa, niệm vô thường”, là một phép thiền, gọi là
Vô thường quán. Nhưng dù sao, đến thế kỷ thứ ba, có lẽ đã có một thực tế là Phật
giáo từ phương Bắc, cho dù có hình thành những trung tâm muộn hơn, cũng đã bắt
đầu có ảnh huởng trở lại lên Phật giáo Giao Chỉ. Cho dù Tăng Hội có một vai trị lớn
đến đâu thì sử sách cũng ghi nhận rằng trong thế kỷ này, các kinh sách về thiền đã
được đem từ Lạc Dương xuống, và Tăng Hội cũng là một người đã học tập, lĩnh hội
được tư tưởng Phật giáo Đại thừa Trung Hoa.
Đại thừa (Mahayana) hồn tồn khơng xa rời Phật pháp, nhưng về chủ trương,
nó khác với Tiếu thừa (Hinayana) vốn xuất phát từ Phật giáo Nguyên thủy
(Thérévada). Có thế nói những quan niệm, chủ trương của Đại thừa - một trong
những tông phái lớn nhất của Phật giáo (một tông phái lớn khác là Kim Cang thừa)
có xuất phát điếm từ Trung Hoa, đã có một sự thâm nhập mạnh mẽ xuống phương
Nam kể từ thế kỷ thứ ba trở đi, để lại những dấu ấn phố biến trong sinh hoạt Phật
giáo, cũng như trong tín ngưỡng dân gian.
Sự thâm nhập của Phật giáo phương Bắc sau đó cịn được thể hiện ở việc các
thiền sư lớn, những người sáng lập ra những thiền phái có vị trí lớn trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam, đều ít nhiều có liên hệ và tiếp thu Phật giáo Trung Hoa.
Thiền sư Tỳ Ni Đa Lun Chi (?-594), người sáng lập ra thiền phái mang tên


ông, truyền đến 19 đời, đến đầu thế kỷ 13, là một người gốc nam Thiên Trúc, vân du
về phía đông bắc (562), tiếp xúc với Phật giáo Trung Hoa và hành đạo tại đây, đến
năm 580 thì vào nước ta.
Năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ nội địa Trung Hoa xuống Giao Châu và
sáng lập thiền phái này.

Sau này, vào thế kỷ XI, Thảo Đường vốn cũng là một thiền sư Trung Hoa đang
hành đạo tại Chiêm Thành, bị quân chinh phạt của vua Lý Thái Tông bắt đem về
Thăng Long. Sự uyên thâm Phật pháp của người này sau đó được nhận ra, được nhà
vua đưa về trụ trì tại chùa Khai Quốc, và lập ra một thiền phái lớn của Phật giáo Việt
Nam, thiền phái Thảo Đường.
Tuy nhiên, ở đây, khi nói về sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, ta có thể
xem việc này đã cơ bản hoàn tất trước thế kỷ thứ X, khi mà một mặt có sự du nhập
trực tiếp từ Ấn Độ cộng với sự ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa từ phương Bắc sau
đó, mặt khác là sự sản sinh, hình thành nền thiền học Việt Nam với những thiền phái
đầu tiên nhưng lại rất lớn mạnh. Từ đây đã tạo một tiền đề vững vàng cho sự phát
triến của Phật giáo Việt Nam về sau, mà đỉnh điểm là giai đoạn thế kỷ X - XIV.
3.1.2 Triết học Phật giáo ỏ Việt Nam
Theo cùng sự du nhập Phật giáo là sự du nhập triết học phật giáo Ấn Độ, Trung
Quốc nhưng cũng có những dị biệt.
Có nhiều quan điếm khác nhau về tư tưởng triết học Việt Nam. Có quan điểm
cho rằng tư tưởng triết học Việt Nam là bản sao chép rời rạc, là sự thu nhỏ của triết
học Ân Độ và Trung Quốc. Theo đó, dân tộc Việt Nam có tính thực dụng cao, chỉ biết
tiếp thu, chế biến các hệ thống tư tưởng, tơn giáo cho phù hợp với mình chứ khơng có
sự sáng tạo. Rồi ngay cả tín ngưỡng, tâm linh của người Việt cũng nhẹ nhàng mà
không sâu. Rằng, người Việt đại khái có thơng minh, nhưng khơng mấy ai có trí tuệ
lỗi lạc phi thường, có chăng thì chỉ giàu khả năng nghệ thuật hơn khoa học, giàu trực
giác hơn luận lí, óc sáng tạo ít, nhưng bắt chước, thích ứng, dung hịa thì tài,V.V..


Quan điểm này phủ nhận tư tưởng triết học bản địa.
Cũng có quan điểm cho rằng ở Việt Nam chỉ có lịch sử tư tưởng nói chung chứ
khơng có lịch sử tư tưởng triết học. Nếu có tư tưởng triết học thì chỉ là những dạng
triết lí chứ khơng gọi là tư tưởng triết học. Xu hướng này tuyệt đối hóa tính hệ thống
của triết học. Trên thực tế, nhiều nhà tư tưởng của thế giới cổ đại cũng chỉ đưa ra các
câu châm ngơn, các triết lí nhân sinh, khái quát vài nét, một số hiện tượng nào đó của

tự nhiên chứ không phải ai cũng xây dựng các hệ thống tư tưởng.
Đặc điểm tư tưởng triết học cơ bản của Việt Nam có thể kể ra là tư tưởng triết
học Việt Nam gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước (triết học phương Tây
gắn với những thành tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên). Tư tưởng chủ
đạo của triết học Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, những vấn đề về chính trị, xã hội
bao gồm hệ thống những quan điểm lý luận về dựng nước, đánh giặc giữ nước. Phạm
trù "nước" xét trên bình diện triết học, là những cộng đồng người, là dân tộc, quốc
gia. Do đó yêu nước trong tư tưởng triết học chính là ý thức trách nhiệm với giống
nòi, với cộng đồng dân tộc được nêu lên thành lý luận . Tính đặc thù của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam là tinh thần đoàn kết, tinh thần bảo vệ bờ cõi lãnh thố, bản sắc
văn hoá dân tộc.
Trong q trình giao lưu với văn hố Trung Quốc, Ân Độ, phương Tây, tư duy
triết học Việt Nam có nền tảng tư duy bản địa mạnh vẫn giữ vai trị chủ thể đế tiếp
biến văn hố ngoại lai.
Cụ thể, đối với trường hợp Phật giáo và triết học Phật giáo thì Phật giáo Ân Độ
có tính vơ vi xuất thế, còn Phật giáo Việt Nam lại hữu vi nhập thế. Nghĩa là nhà chùa
có ruộng có vườn, nhập thế cùng thế gian làm việc. Phật giáo trước khi vào Việt Nam
thì vơ ngã, nghĩa là khơng có cá nhân, khơng có cái tơi. Nhưng khi vào Việt Nam nó
biến hiện thành sức mạnh cá nhân và phải được nhập vào sức mạnh cộng đồng.


1.2

Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần ngưịi Việt Nam
3.2.1Phật Giáo với đời sống tín ngưỡng của ngưòi Việt

Phật giáo vào Việt Nam đã đem vào nước ta những sinh hoạt tín ngưỡng và
giáo lý Phật giáo.Trên đất Giao Chỉ vốn đã hình thành một nền tín ngường bản địa.
Đối với người dân nơi này, Ông Trời là một đấng ở trên cao, thấu hiểu mọi việc, biết
rõ người tốt kẻ xấu, từ đó mà phù giúp người hiền, trừng phạt kẻ ác. Quan niệm này

khiến cư dân Giao Chỉ dễ tiếp nhận thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật. Ngồi
Ơng Trời, họ cũng quan niệm có những vị thần thánh khác như Thần sấm, Thần
Mưa... như là những thủ hạ của Ông Trời. Họ cũng coi Ma Xó là linh hồn của người
chết cịn tồn tại quấn quanh trong nhà để phù trợ cho gia đình. Điều này làm cho họ
cảm thấy dễ gần gũi khi thuyết luân hồi tiếp xúc với họ. Người Giao Chỉ cũng tin vào
nguồn gốc con Rồng cháu Tiên của mình. Thêm vào đó, trong thời đại lịch sử này,
người Giao Chỉ khơng hề là những tín đồ trung kiên của Khổng, Lão giáo, nên sự
thâm nhập của Phật giáo khơng gặp phải sự cản trở có ý thức. Sự hịa hợp giữa tín
ngưỡng bản địa có sẵn với những sinh hoạt văn hóa, giáo lý cơ bản của Phật giáo đã
hình thành nên một loại tín ngưỡng Phật giáo bình dân trong thế kỷ đầu tiên của cơng
lịch.
Người Giao Chỉ xưa quan niệm Phật như là một vị Bụt (xuất phát từ
“Buddha”), có phép thần thơng, nghe và biết mọi chuyện như Ơng Trời, nhưng Bụt
khơng ở trên cao, mà thân cận với mọi người. Bụt hiện ra dưới nhiều hình thức để
cứu người, giúp đời. Bụt thương người nhưng khơng trừng phạt kẻ ác như Ơng Trời
vẫn làm. Phép Bụt là biểu hiện của quan niệm về Pháp trong thời kỳ này. Đó là phép
thần thơng của Bụt. Mà cũng là những điều người ta làm theo nếu tin vào Bụt, như
đọc tam quy, cúng đường, bố thí... Pháp cũng là niềm tin vào nghiệp báo, luân hồi,
linh hồn bất diệt. Quan niệm về Tăng khi đó chỉ dừng lại ở tăng mơn, chưa phải tăng
đồn. Đó là những tu sĩ khoác áo vàng. Đầu cạo trọc, rời bỏ gia đình, của cải, thờ
Bụt, đọc kinh Phạn. Quan niệm về nghiệp báo, luân hồi là ở sự ở lành, làm lành gặp
lành. Người ta cũng quan niệm về từ bi, về công đức. Làm công đức cho kiếp sau


được tốt đẹp là dâng thức ăn cho tăng môn, bố thí cho người nghèo khó. Quan niệm
tiết dục cũng là ở chỗ bỏ bớt những hưởng thụ cho riêng mình, để cho người khốn
khó.
Qua thế kỉ thứ hai, quan niệm về Phật thì vẫn nối tiếp tín ngưỡng bình dân về
Phật trong thế kỷ trước, nhưng đã mang màu sắc Hán hơn khi nhũng khái niệm của
Khống, Lão được đưa vào. Trong Lý hoặc luận, Phật đã được trình bày như nguyên tô

của Đạo và Đức nhưng vẫn mang màu sắc biến hóa thần thơng, về Pháp, giới Phật tử
trí thức có cách quan niệm gần với “đạo” (sau thành “đạo pháp”). Trong giới Phật tử
dân dã, pháp vẫn là phép Phật, là phép tam quy, ngũ giới, cúng dường. Tăng đồ thì
coi đạo như lời Phật dạy về vơ thường, vơ ngã, cách giữ tâm gìn ý, tu chứng Niết bàn.
Quan niệm về tăng là phải thực hiện 250 giới luật, cạo đầu, y vàng, từ bỏ tài sản, khất
thực, hóa đạo. Ni giới chưa có vào lúc này.
Vào thời kỳ này, Niết bàn đã là mục đích của người xuất gia. Luân hồi và
nghiệp báo vẫn tiếp tục tồn tại trong tín ngưỡng dân gian. Quan niệm vơ ngã đã được
nói đến trong Tứ thập nhị chương, nhưng chưa phố biến lắm trong trong dân gian, có
lẽ vì bị xem như mâu thuẫn với quan niệm linh hồn bất tử. Phật giáo thâm nhập vào
đây một cách êm thấm, khơng có sự chống đối của tín ngưỡng dân gian. Tuy Phật
giáo cũng phải có một ít nỗ lực trước giới cai trị Hán tộc, nhưng không bằng sự phản
kháng, mà bằng sự hòa đồng. Điều này xuất phát từ tinh thần cởi mở của Phật học, và
Phật tử thì sẵn sàng học hỏi, đối thoại với những tư tưởng khác. Kết quả của tinh thần
này là không những đã sử dụng được từ ngữ Nho, Lão để truyền bá Phật giáo, mà còn
làm cho những người theo Khống, Lão thấy được chiều sâu của Phật học.
3.2.2 Phật giáo ảnh hưởng đến tư tưởng dân gian từ bi cứu khổ cứu nạn
Phật giáo với lý luận nhân quả, rõ ràng là cao siêu hơn ma thuật nhưng cũng
không phải hoàn toàn xa lạ với người Việt. Ma thuật đã chứng minh nhân nào quả ấy
nhưng Từ Bi mới là tư tưởng chính của Phật giáo được đưa vào hệ tư tưởng Việt.
Tư tưởng Từ Bi của phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người bình dân
đến kẻ trí thức, thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ văn bác học.


Trong truyện kể dân gian, bao giờ Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho
con người. Lấy chuyện Tấm Cám làm ví dụ, Phật đã hiện lên giúp cho Tấm con cá
bống, sai chim tới nhặt thóc, cho áo quần, giầy dép để đi chơi hội, lấy hoàng tử. Mỗi
lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc là bụi trúc đào khi là quả thị. Chuyện kể
thấm đẫm tinh thần cứu khố, cứu nạn của Phật giáo với hình ảnh ơng bụt đại từ đại bi,
phổ độ chúng sinh.

Phật giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát Từ Bi. Chất Từ Bi
của nhà Phật thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vơ danh mà cịn đi
sâu vào lịng những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của tư tưởng Phật giáo vào
văn hoá Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng Tứ Diệu Đế của Phật giáo.
3.2.3Những ảnh hưỏng của Phật giáo đến tư duy của ngưịi Việt Nam
Phật giáo là một tơn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tơn giáo và triết học ln
hồ quyện vào nhau làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở đây, chúng ta lưu ý đến yếu tố
triết học, về mặt này Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới tư duy của người Việt Nam
trong đó có những giá trị và nhiều hạn chế nhất định.
Tiếp thu Phật giáo tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và phạm
trù nói nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của triết học. Trong thế giới quan
phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có ý nghĩa nhiều
nhất.
Hơn tất cả các học thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát
triển tự nhiên của con người, đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn chặng đó của cuộc đời đã
nói lên sự phát triển tất yếu của con người mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ
hãi trước sự thay đối của cuộc đời thậm chí sống lạc quan bình thản trước cái chết.
Nhiều nhà sư trong Lý - Trần đã có quan niệm như thế.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: “sắc, thụ, tưởng, hành, thức” là nhừng
vấn đề có ý thức luận sâu xa.Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng
trong q trình ngũ uẩn chứa đụng một quá trình nhận thức họp lý. Từ sự vật khách


quan(Sắc), con người cảm thụ được (Thụ), suy nghĩ (Tưởng), rồi đem hiện (Hành),
và cuối cùng là biết(Thức). Ở đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có nhũng hạt
nhân hợp lý.
Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện chứng với
các khái niệm “vơ thường”, “vơ ngã” cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận
động biến đối liên tục không có gì là trụ lại mãi, khơng có ai là tồn tại mãi. Tuy nhận
thức đó chỉ nhìn thấy cái biến đối mà khơng nhìn thấy cái ốn định tương đối, chỉ thấy

được cái vận động mà không thấy được hình thức vận động sẽ đi đến chiều hướng bi
quan, buông xuôi nhưng mặt khác phải thấy nhận thức được như vậy là cũng có chiều
sâu, là thấy được phương diện cơ bản của sự phát triến sự vật.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên, đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét
sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân từ kết
quả khác trong mỗi qua hệ khác.
Trên đây là những vấn đề mà phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt Nam,
góp phần làm nên nhũng yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của người Viêt
Nam.
Tuy vậy, Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến
tư duy. Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ
thấy con người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau
trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong gia cấp xã hội, do đó khơng
thấy được ngun nhân khố ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải
chống áp bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi bác ái trong một số trường hợp bất lợi
cho đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan
điểm duy tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng
vào quả báo, hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và một
khi tư duy như vậy thì khơng cần khám phá tìm tịi, sáng tạo và hành động.


KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu được thêm thêm nguồn
gốc ra đời của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội
và người dân đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta
thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng đó là vấn đề hình thành nhân cách và tư duy con
người Việt Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của
Phật giáo.
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt

Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Trong bài xã luận của
tạp chí Phật giáo Việt Nam đã viết : "Trong tâm hồn dân tộc Việt Nam thật đã sẵn có
mầm móng tinh thần Phật giáo. Hèn gì mà Đạo Phật với dân tộc Việt Nam trong gần
hai ngàn năm nay, bao giờ cũng theo nhau như bóng với hình trong cuộc sinh hoạt
toàn cầu. Đã là viên đá nền tảng cho văn hóa dân tộc, cố nhiên Phật giáo Việt Nam
vĩnh viễn phải là một yếu tố bất ly của cuộc sống tồn diện. Ngày nay những hào
nhống của một nền văn minh vật chất đã làm mờ mắt một số đơng người, nhưng cơ
bản của nền văn hóa dân tộc đang còn bền chặt, khiến cho người Việt Nam dù có bị
lơi cuốn phần nào trong một thời gian, rồi cũng hồi đầu trở lại với cội nguồn yêu dấu
ngàn xưa...".


Thật vậy, Đạo Phật đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ triết
lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp sống
nếp nghỉ... tìm hiểu và nghiên cứu về "Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống
tinh thần người Việt", chúng ta càng thấy rõ nhận định trên. Từ quan niệm nhân
sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho đến lời ăn tiếng nói của quảng đại
quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những
câu nói đầu lưỡi "ở hiền gặp lành", "tội nghiệp", "hằng hà sa số", "ta bà thế giới"...
là điều phổ biến trong quan hệ ứng xử giữa con người với con ngườivới nhau.



×