Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Nội dung chủ yếu của CNH- HĐH và điều kiện để thực hiện nó ở Việt Nam hiện nay.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.52 KB, 25 trang )

A- ĐẶT VẤN ĐỀ.
Hiện nay trên thế giới sự phát triển của công nghệ thông tin công nghệ
chi thức đồng diễn ra với tốc độ chóng mặt, cuộc cách mạng đó đã đem đến
thành tựu to lớn cho nhiều nước biết vận dụng vào hàng sản xuất, đưa họ
trở thành nhiều cường quốc phát triển trên thế giới hiện nay Việt Nam đang
ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế vẫn ở trong trình độ thấp,
chịu ảnh hưởng của nề kinh tế cửa hàng phong kiến kéo dài, nông nghiệp
vẫn chủ yếu là trồng lúa. Nền công nghiệp lạc hầu chưa có thành tựu nào
đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Muốn đưa nền kinh tế đi
lên để có thể sánh ngang với các nước trong khu vực Đông nam á Thái bình
dương …và để trở thành con Rồng Kinh tế thì công nghiệp hoá hiện đại
hoá phải được coi trọng, đánh giá đúng mức sự cần thiết của CNH- HĐH
trong giai đoạn hiện nay nước ta mới có thể trở thành một nước phát triển.
Có thu nhập cao đời sống nhân dân được nâng cao.
Chính tầm quan trọng của CNH HĐH to lớn như vậy là lý do em chọn
“ Nội dung chủ yếu của CNH- HĐH và điều kiện để thực hiện nó ở Việt
Nam hiện nay” đề tài lấy giải quyết vấn đề tính tất yếu của CNH- HĐH
Khái niệm về CNH- HĐH thực trạng CNH _ HĐH ở Việt Nam ..các
nội dung mục tiêu cơ bản của CNH – HĐH ở nước ta. Các tiền đề giải pháp
lớn tiến hành CNH- HĐH thông qua bài viết này em hy vọng có thêm hiểu
biết, kiến thức về CNH- HĐH. Bài viết của em được sự hướng dẫn cuả
Thầy: Đỗ Quốc Hùng.
* Phạm trù CNH và thực chất của CNH
Phạm trù CNH hoá
1
Chúng ta đã xem xét CNH trên khía cạnh vai trò và những quan điểm
về nó ở nước ta. Như vậy CNH là gì?Định nghĩa CNH được đưa ra với sự
việc hiện nay ở nước ta như thế nào?
Với câu hỏi thứ nhất, từ trước tới nay có rất nhiều câu trả lời được đưa
ra. Như vậy nên hiểu phạm trù này như thế nào? Trước hết xin trích ra một
vài định nghĩa đã có. Theo tác giả B. Mazlíh khi xem xét quá trình CNH ở


Anh Ông đã dưa ra “hình thù công nghiệp hoá dưới dạng tóm tắt một quá
trình” được đánh dấu bằng một sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu
là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp.
Trong quấn sách giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô (cũ) được
dịch sang tiếng Việt Nam năm 1958 đã đưa ra định nghĩa: “ Công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa là phát triển công nghiệp trước hết là công nghiệp
nặng sự phát triển ấy cần thiết cho sự tạo nền kinh tế quốc dân trên cơ sở
kỹ thuật tiên tiến”. Nhưng ở đây cần chú ý một là sự nghiệp CNH ở Liên
Xô (cũ) trong bối cảnh Lịch sử là nứơc xã hộic chủ nghiã, họphải tạo ra ccơ
sở vật chất kỹ thuật để có thể tồn tại và phát triển trong vòng vây của Chủ
nghĩa tư bản. Chính vì vậy họ đã gắn công nghiệp hoá với quá trình xây
dựng và phát triển công nghiệp trước hết là công nghiệp nặn.
Đặt công nghiệp hoá trong bối cảnh chung của Phát triển kinh tế với
nội dung cơ bản là phát triển cơ cấu kinh tế trên cơ sở công nghiệp hiện đại
nhằm đẩy mạnh nhịp độ phát triển đồng thời hướng vào việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội. Tổ chức phát triển tốt công cuộc công nghiệp hoá -
hiện đại hoá mới có khả năng thự tế để quan tâm đầy đủ tới sự phát triển tự
do và toàn diện của nhân tố con người.
Công nghiệp hoá còn tạo vật chất, kỹ thuật cho việc củng cố tăng
cường tiềm lực phát triển quốc phòng vững mạnh, có thể chúng ta mới có
thể yên tâm phát triển kinh tế và phát triển kinh tế mạnh thì có thể mới tạo
2
ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền an ninh quốc phòng phát triển. Mạt khác
CNH còn tạo ra nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt phân công và hợp tác
quốc tế khoa học công nghẹ tăng cường trọng lượng tiếng nói của ta trên
diễn đàn quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, tính quy luật của giá thành
công nghiệp hiện nay, tính quy luật của giá thành công nghiệp hoá càng đòi
hỏi bức thiết đối với nước ta vì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước
trên thế giới và trong khu vực. Theo số liệu thu nhập năm 1983 thì GNP
trên đầu người của Việt Nam là 220 USD trên đầu người, trong khi đó

Singapore là 19 092 USD/ đầu người. Đài Loan là 11900 USD/ đầu người.
Hàn Quốc là 844 USD/ đầu người, Maláyia là 3713 USD / đầu người, Thái
lan là 2130 USD / trên đầu người Philipinlà 913 USD / đầu người,
Inđônêsia là 830 USD / đầu người. Mức sống 220 USD / đầu người, các
nước Hàn Quốc, Đài Loan, philipin, Malaysia ...cũng đã đat được từ mấy
trục năm trước đây. Về mặt trình độ CNH của nước ta cũng bị tụt hậu so
với họ rất nhiều. Nguyên nhân là do năng xuất lao động của ta thấp hơn họ
nhiều lần. Nừu tính theo giá mua tương đương thì thu nhập bình quân đầu
người hàng năm của Vịêt Nam là 1023trong khi đó Inđonêsia là 2181,
philipin là 2303, Thái Lan là 3985, Malaysia là 6140. Để tránh khỏi tụt hậu
xa hơn nữa, để phát triển nhanh hơn nữa trên con đường đã chọn chúng ta
không còn cách nào khác l;à đẩy mạnh CNH- HĐH đất nứơc.
3
A- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
TÍNH TẤT YẾU CỦA KHÁCH QUAN VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ SỰ NGHIỆP CNH- HĐH
1. Tính tất yếu khách quan:
Nô dích và lịch sử đã chứng minh quá trình cải tạo xã hội nhanh nhất,
đó là CNH. Trên thế giới CNH đã biến đổi nhiều nước từ xã hội lạc hậu trở
thành nước văn minh hiện đại, đứng vị trí hàng đầu thế giới. Trong xu
hướng phát triển như vũ bão hiện nay của thế giới CNH ngày càng khẳng
định vai trò quan trọng tất yếu của nó, đặc biệt là đối với các nược hiện nay
đang trong tình trạng kém phát triển thì con đường cải tạo xã hội thông
qua CNH là con đường quy nhất mang tính tất yếu khách quan đêt tự
đưa mình tự vượt qua danh giới nghèo đói, tránh tụt hậu khá xa so với
các nước phát triển.
Thông qua CNH các nước sẽ trang bị được cho mình có sở vật chất kỹ
thuật của nền Sản xuất mới hiện nay – Trong đó cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền sản xuất mới hiện đại có thể khái quát là nền đại công nghiệp cơ khí
hoá và hiện đại dựa trên trình độ khoa học, công nghệ ngày càng phát triển

cao- Cơ sở vật chất đó phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, trình độ xã hội hoá và
lao động cao. Có được cái “ Cốt vật chất” như vậy các nứơc mới có đủ khả
năng sản xuất ra của cải vật chất rồi rào đáp ứng cho tieu dùng hiện đại mà
còn có khả năng tích luỹ lớn và chỉ có khi đó con người mới có điều kiện
để quan tâm đến các điều kiện khác thoả mãn nhu cầu toàn diện của mình.
Ở nước ta hiện nay quá trình xây dựng XHCN là quá trình cải tạo xã
hội đưa đất nước từ xã hội lạc hậu lên một xã hộ mới tốt đẹp hơn, chúng ta
tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy rất cần nền tảng đại công nghiệp cơ khí. Trên
phương tiẹn xem xét đó, nền kinh tế sản xuất của nước ta là một nền sản
xuất nhỏ kém phát triển muốn xây dựng một xã hội mới toàn diện về nhiều
4
mặt: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể, xây dựng nền sản xuất xã hộichủ
nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới XHCN trước tiên ta phải có được
cái cốt vật chất cho xã hội mới- đó là cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền sản
xuất mới hiện đại. Để làm được điều này con đường tất yếu khách quan
như đã khẳng định, đó là tiến hành CNH- HĐH đất nước bởi vì việc thực
hiện hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý nghĩa và
tác dụng to lớn về nhiều mặt:
CNH là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi căn
bản khoa học sản xuất tăng năng xuất lao động. CNH chính là thực hiện xã
hội về mặt Kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định và ngày càng nâng cao
đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Trên cơ sở thực hiện đầy đủ và đúng đắn quá trình CNH sẽ giải quyết
tốt các nhiệm vụ đặt ra của sự phát triển Kinh tế đó là nâng cao vai trò kinh
tế của nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất, phát triển
nhiều ngành mới, đáp ứng các nhu cầu việc làm của người lao động và các
mối quan hệ kinh tế giữa các ngành các vùng trong nước và giữa các nước
đặt ra.
Hơn nữa, nhân tố con người với tư cách là chủ thể của nền sản xuất xã

hội đang trở thành trung tâm của nền kinh tế. Để phát huy đầy đủ vai trò
của mình, con người tất yếu phải là con người hiện đại, có trình độ khoa
học kỹ thuật cao, trên cơ sở thực hiện công nghiệp của liên hợp quốc
(UNICO) đã đưa ra định nghĩa “công nghiệp hoá là một quá trình phát triển
kinh tế: trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng của nguồn của cải
quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế và có một bộ phận
luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có
khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm
bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế xã hội”.
5
Cũng theo hướng đó, các tác giả cuốn “Công nghiệp hoá và hiện đại
hoá ở Việt nam và các nước trong khu vực” đã đưa ra định nghĩa “công
nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển
biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả
các nguồn lực và lợi thế trong cả nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế,
xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học công nghệ ngày
càng hiện đại”.
Qua xem xét một vài định nghĩa đưa ra có thể thấy tuỳ điều kiện cụ
thể mà góc quy mô đánh giá khác nhau. Mỗi nơi, mỗi quốc gia có định
nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Tuy vậy, định nghĩa
công nghiệp hoá cũng phải chỉ ra được cái cốt lõi của quá trình này “Sự đổi
mới, chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu lên trình độ kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến có năng suất và hiệu quả kinh tế cao”.
Trước đây, khi vận dụng một cách máy móc mô hình kinh tế của Liên
Xô (cũ) nên trong quá trình công nghiệp hoá chúng ta cũng xác định nội
dung của công nghiệp hoá là phát triển đại công nghiệp trước hết là công
nghiệp nặng. Chẳng hạn như một số định nghĩa về công nghiệp hoá là:
“Quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền
kinh tế quốc dân và đặc biệt là công nghiệp nặng, dẫn tới sự tăng nhanh
trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động”

hoặc như “Kinh tế chính trị” cũ của trường Đại học Kinh tế quốc dân các
tác giả đã định nghĩa: ”Công nghiệp hoá XHCN là quá trình xây dựng cơ
sở vật chất với kỹ thuật của CNXH: Xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí
hoá cỏ khả năng cải tạo cả nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân
nhằm biến nước ta từ một nước kinh tế chậm phát triển thành một nước
XHCN có cơ cấu công nông hiẹn đại”.
Định nghĩa như thế về công nghiệp hoá đã phản ánh được cái cốt lõi
của quá trình này, tuy thế việc nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nặng là
6
không phù hợp với điều kiện của nước ta, thiếu sự phân tích khoa học.
Chính tư tưởng chỉ đạo này đã dẫn đến những hậu quả mà đặc biệt là thất
bại trong sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta từ năm 1960 (từ Đại hội
Đảng lần thứ III).
Sau khi có sự biến động mạnh mẽ trong khối XHCN. Đó là sự xụp đổ
về mô hình kinh tế của một loạt các nước trong khối XHCN, đặc biệt là sự
tan rã của liên bang cộng hoà Xô Viết (1990). Đảng và nhà nước ta nhận ra
những sai lầm trong việc chỉ đạo định hướng xây dựng nền kinh tế và đã
tiến hành công cuộc đổi mới thu được nhiều thành tựu to lớn như chúng ta
đã biết. Theo đã đổi mới tư duy kinh tế đó, sự nghiệp công nghiệp hoá ở
nước ta cũng được hiểu theo một cách khác trên nền tảng phân tích khoa
học điều kiện cụ thể của dất nước và tiếp thu kinh nghiệm của các nước
trên thế giới và nhất là các nước trong khu vực. Định nghĩa mứi về công
nghiệp hoá ở nước ta được đưa ra trong nghị quyết Đại hội Đảng 7 khoá
VII với nội dung như sau: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội tự sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học kỹ thuật
tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Đối với nước ta đó là một quá trình
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nhằm cải biến một xã hội
nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gẵn với việc hình thành

từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất
ưu việt của chế độ mới.
Chúng ta xác định rằng định nghĩa này không phải là một định nghĩa
hoàn hảo, song nó đã chỉ ra được cái cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá
với hiện đại hoá. Xác định được vai trò của công nghiệp hoá và khoa học
công nghệ trong quá trình này.
7
Khi xét đến định nghĩe công nghiệp hoá ở nướca ta thì đồng thời cũng
thấy được con đường công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá là con đường
mà Đảng ta đã chọn làm định hướng thực hiện cho sự nghiệp công nghiệp
hoá đất nước. Từ sự phân tích dưới đây ta sẽ thấy được sự lựa chọn trên là
hoàn toàn phù hợp với quy luật, với điều kiện hiện nay của đất nước ta.
Theo định nghĩa trên, từ “hiện đại hoá” là làm cho một cái gì đó mang
tính chất của thời đại ngày nay. Vậy hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân làm
cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất đạt được trình độ tiên tiến của thời đại
hiện nay.
Trong lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới có nhiều con đường công
nghiệp hoá nhưng thể hiện ở 2 con đường chính đó là công nghiệp hoá cổ
điển và công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá. Con đường công nghiệp hoá
cổ điển là quá trình công nghiệp hoá mà nhièu nước trước đây đã trải qua
như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Đức, Liên Xô(cũ),... thường đó là những nước
đã có nền khoa học công nghệ tiên tiến đương thời. Do đó, những bước tiến
của công nghiệp hoá thường gắn với những sáng chế phát minh của chính
nước đó hay thời đại đó. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá thường kéo dài
hàng 100 năm theo đã phát triển của khoa học kỹ thuật, ở thời kỳ phôi thai
chưa thành một cuộc cách mạng vũ bão như ngày nay.
Ngày nay, đối với các nước đi sau tình hình đang đổi khác, để giải
quyết một vấn đề trong công nghiệp hoá có rất nhiều giải pháp hay công
nghệ để săn sàng đem ra sử dụng. Tiến hành công nghiệp hoá theo hướng
trận dụng lợi thế như đã nói của các nước công nghiệp phát triển muộn

chính là công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Theo con đường công
nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá thì thời gian ngắn hơn rất nhiều so với con
đường công nghiệp hoá cổ điển. có thể đơn cử ra đây vài con số làm dẫn
chứng. Quá trình công nghiệp hoá ở Anh được coi là bắt đầu từ năm 1780
và phải tới 58 năm sau đó thì thu nhập bình quân đầu người mới tăng lên
8
gấp đôi. ở Mỹ công nghiệp hoá bắt đầu từ năm 1839 và để đạt được mức
tăng thu nhập gấp đôi đã cần tời 47 năm. Nước Nhật bắt đầu công nghiệp
hoá vào năm 1880 và đã rút ngắn được thời gian tăng gấp đôi thu nhập
xuống mức 34 năm. Các nước đi sau điển hình cho con đường công nghiệp
hoá găn với hiện đại hoá thì Nam Triều Tiên đạt kết quả trên trong vòng
11 năm (1966-1977). Mới đây Trung Quốc đã rút ngắn thời gian đó xuống
còn 10 năm (1977-1987).
Kinh nghiệm thế giới là bài học thực tiễn cho Việt nam học tập.
Nhưng điều chủ yếu việc tiến hàh công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ở
nước ta là phù hợp với những yêu cầu đang dặt ra cho quá trình này như:
Triệt để khai thác lợi thế của các nước phát triển muộn về công nghiệp. Xu
thế Quốc tế hoá sản xuất và đời sống nhanh chóng vượt qua được nghèo,
rút ngắn khoảng cách tụt hậu của nước ta so với các nước công nghiệp phát
triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Con đường đã chọn mở hướng
đi cho chúng ta tiến tới một cái đích cao hơn. Chúng ta tin tưởng rằng với
bước đi vững chắc đúng đắn đất nước ta sẽ tiến tới được cái đích đó.
Nhưng để có được bước đi như vậy mỗi chúng ta phải hiểu sâu hơn, cụ thể
hơn con đường chúng ta sẽ đi, tức là phải nắm được thực chất của vấn đề
công nghiệp hoá-hiện đại hoá là gì?
2.Thực chất của vấn đề công nghiệp hoá - hiện đại hoá .
Trên cơ sở các định nghĩa về công nghiệp hoá- hiện đại hoá có thể rút
ra thực chất của công nghiệp hoá-xã hội là: “Quá trình thực hiện cách mạng
kỹ thuật thực hiện sự phân công mức vì lao động xã hội, là quá trình tích
luỹ, XHCN để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng”.

Từ thực chất đó có nhiều cách giải thích khá nhanh về quá trình công
nghiệp hoá, cũng như tồn lại nhiều quan niệm khá nhanh về phạm trù công
nghiệp hoá. Thực ta những năm trước đây ở nước ta không tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau về công nghiệp hoá mà đó chỉ là những cách giải
9
thích quan niệm về công nghiệp hoá mà Đại hội VI đã xác định. Quan niệm
này thể hiện nội dung toàn diện, mục tiêu và tích lịch sử của quá trình công
nghiệp hoá, tính chất XHCN của công nghiệp hoá, vai trò của Đảng, Nhà
nước và nhân dân lao động trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta.
Sự tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về một vấn đề là một hiện
tượng bình thường trong khoa học kinh tế. nói chung người ta muốn đưa ra
một định nghĩa ngắn gọn cho quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá
nhưng việc đó vấp phải 2 mâu thuẫn:
-Không bao quát được bản chất của quá trình công nghiệp hoá.
-Muốn bao quát được thì phải đưa ra một định nghĩa dài dòng và cần
có những lí giải phức tạp kèm theo.
Nhưng dù quan niệm như thế nào chăng nữa vần không thể đồng nhất
khải niệm công nghiệp hoá với phát triển công nghiệp hoá là một quá trình
rộng lớn, phức tạp, bản chất của nó bao hàm trên các mặt sau:
-Một là, công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công
nghệ hiện đại cho mọi ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành
chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách
mạng khoa học kỹ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại công
nghệ cho các ngành phải gắn chặt với quá trình hiện đại hoá ở cả phần
cứng và phần mềm của công nghệ
-Hai là, công nghiệp hoá không chỉ liên quan đến phát triển công
nghiệp, mà là quá trình bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt
động của một nước. Đó là một lẽ tất yếu vì nền kinh tế mỗi nước là một hệ
thống nhất các ngành, các lĩnh vực luôn có quan hệ tương hỗ, ảnh hưởng
lẫn nhau.

-Ba là, quá trình công nghiệp hoá trong bất cứ giai đoạn nào cũng đều
vừa là quá trình kinh tế kỹ thuật, vừa là quá trình kỹ thuật xã hội. Quá trình
kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện các nội
10

×