A Lời mở đầu. Lời mở đầu.
Xà hội loài ngời luôn biến đổi không ngừng : từ khi xà hội loài ngời còn là
một xà hội sơ khai, nguyên thuỷ bây giờ đà trở thành một xà hội văn minh. Có
nh vậy là vì trong quá trình phát triển xà hội loài ngời đà trải qua nhiều phơng
thức sản xuất khác nhau, các phơng thức sản xuất đó ngày càng hoàn thiện.
Phơng thức sản xuất đợc hợp thành bởi hai nhân tố là lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất ; lực lợng sản xuất luôn phát triển không ngừng và đến một
trình độ nào đấy sẽ làm thay đổi quan hệ sản xuất ; quan hệ sản xuất là yếu tố
quy định hình thái xà hội. Nh vậy để xà hội phát triển thì phải phát triển đợc
quan hệ sản xuất mà yếu tố này lại đợc quy định bởi tính chất và trình độ của
lực lợng sản xuất. Lực lợng sản xuất phát triển đợc là nhờ tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nh vậy, một trong những con đờng cải tạo xà hội
nhanh nhất là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một đề tài đa dạng, chủ đề rộng rÃi và nội
dung phong phú. Nó có tính hấp dẫn bởi vì nó là con đờng đúng đắn nhất để
con ngời phát triển xà hội ngày càng hiện đại. Chính vì tầm quan trọng thiết
thực của nó nên em đà chọn đề tài Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá,Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nớc ta từ nay đến năm 2020
B Lời mở đầu. nội dung.
Trong phạm vi bài viÕt em ®Ị cËp tíi mét sè vÊn ®Ị sau :
I. tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá,
Hiện đạI hoá.
1. Các giai đoạn, các bớc của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1
Công nghiệp hoá của nhân loại mở đầu bằng cuộc cách mạng công nghiệp
ở nớc Anh ; 30 năm cuối thế kỷ XVIII và 25 năm đầu thế kỷ XIX, sau đó lan
sang các nớc t bản trong suốt thế kỷ XIX.
Công nghiệp hoá đợc bắt đầu bằng việc đổi mới công nghệ se sợi và dệt
làm cho năng suất của công việc ngày càng tăng lên rất nhiều. Trong thời gian
từ năm 1760 đến năm 1827 sản lợng bông tăng 100 lần, hàng dệt len đà trở
thành sản phẩm dẫn đầu trong công nghiệp nhẹ. Trong khoảng thời gian từ
năm 1776 tới 1781 Jame Watt đà hoàn thiện máy hơi nớc của Newcomen và
mở ra kỷ nguyên của công nghiệp máy móc nổi bật là giai đoạn 1820
1870, đây là giai đoạn thực hiện cách mạng trong giao thông vận tải, với việc
vận dụng đầu máy hơI nớc của Jame Watt ngành đờng sắt và tàu thuỷ chạy
bằng hơi nớc ra đời. Sức mạnh cơ bắp của con ngời đợc tăng lên gấp bội nhờ
máy móc, đi lại thuận tiện đễ dàng khiến cho nhu cầu giao lu giữa các nớc
tăng lên ; đặc biệt là vì đờng sắt phát triển đà dặt ra nhu cầu về thép và sự liên
kết các thị trờng trong nớc và quốc tế.
Tiếp đến là giai đoạn 1870 1913, đây là giai đoạn mà khoa học công
nghệ có những bớc phát triển lớn. Những đổi mới về điện, hoá hữu cơ, động
cơ đốt trong, vô tuyến đ đợc xem là cửa sổ của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ hai. Cho đến năm 1914 1950, do xảy ra hai cuộc thế chiến làm cho
thế giới trở lên hỗn loạn, chủ nghĩa tự do và thị trờng toàn cầu sụp đổ.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, công cuộc xây dựng lại sau chiến
tranh về cơ bản đà hoµn thµnh nỊn kinh tÕ thÕ giíi bíc vµo mét thời kỳ phát
triển về sản xuất và thơng mại cha từng có. Công nghiệp chế tạo tăng trởng
mạnh, công nghệ viễn thông có một bớc tiến nhảy vọt đ và đặc biệt tin học
giúp ích cho con ngời trên nhiều lĩnh vực khác nhau và ngày càng đợc ssử
dụng phổ biến. Vì thế, thế giới ngày nay có thể coi là thế giới của điện tử, tin
học và truyền hình toàn cầu.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ; các loại công nghiệp hoá.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ
hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, biến một nớc có nền kinh tế kém phát triển
thành một nớc có nền kinh tế phát triển, thành một nớc công nghiệp hiện đại.
Điều này cũng thật dễ hiểu và tất yếu xảy ra bởi vì bất cứ một cuộc thay
đổi nào, một cuộc cách mạng nào ( cách mạng về chính trị, cũng nh cách
mạng về kinh tế ) đều mang đến những kết quả tiến bộ hơn, hiện đại hơn đáp
ứng đợc nhu cầu của con ngời.
2
Trong quá trình phát triển của xà hội loài ngời đà diễn ra hai quá trình
công nghiệp hoá. Đó là công nghiệp hoá t bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá ở
các nớc định hớng đi lên chủ nghĩa xà hội.
Công nghiệp hoá t bản chủ nghĩa là quá trình chuyển nền sản xuất nhỏ lạc
hậu, phong kiến, kỹ thuật thủ công sang nền sản xuất lớn t bản chủ nghĩa tiến
bộ lấy đại công nghiệp cơ khí làm nền tảng.
Công nghiệp hoá ở các nớc định hớng đi lên chủ nghĩa xà hội : ở các nớc
này do bị sức ép từ nền công nghiệp của các nớc t bản chủ nghĩa nên cũng
phát triển mạnh công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí. Nhng sau khi vấp phải
nhiều sai lầm và bị thất bại.
3. Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta.
ở nớc ta xây dựng chủ nghĩa xà hội là quá trình xây dựng chế độ làm chủ
tập thể xà hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xà hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới
và con ngời mới xà hội chủ nghĩa, trong đó nền sản xuất lớn xà hội chủ nghĩa
là Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá, Cái cốt vật chÊt ” cđa x· héi míi. Tõ mét níc mµ nền sản xuất nhỏ là chủ
yếu tiến thẳng lên chủ nghĩa xà hội bỏ qua giai đoạn t bản chủ nghĩa muốn
xây dựng đợc cơ sở vật chất của chủ nghĩa xà hội thì con đờng duy nhất mang
tính quy luật là tiến hành công nghiệp hoá xà hội chủ nghĩa.
Nh ta đà biết, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện
đại là một quy luật chung phổ biến đối với tất cả các nớc. Tuy nhiên tuỳ từng
thời kỳ, tuỳ từng nớc khác nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại cũng không giống nhau. Đối với
những nớc có nền kinh tế kém phát triển nh nớc ta, nền sản xuất nhỏ kỹ thuật
thủ công là chủ yếu thì công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật để tạo
ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công nghiệp hoá có ý nghĩa cực kỳ đặc
biệt to lớn và có tác dụng về nhiều mặt. Công nghiệp hoá là một cuộc cách
mạng về lực lợng sản xuất làm thay đổi cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ làm
tăng năng suất lao động. Công nghiệp hoá thậm chí là thực hiện xà hội hoá về
mặt kinh tế kỹ thuật, tăng trởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao góp phần
ổn định và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho mọi thành
viên trong cộng đồng xà hội.
Trong những điều kiện mới của sự phát triển kinh tế, mối quan hệ giữa các
ngành, các vùng trong phạm vi một nớc và giữa các quốc gia với nhau ngày
càng đa dạng, phức tạp đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò kinh tế của
nhà nớc. Nâng cao khả năng tích mở rộng sản xuất làm xuất hiện thêm nhiều
3
ngành mới để từng bớc giải quyết nhu cầu về việc làm cho ngời lao động. Tất
cả các nhiệm vụ này chỉ có thực hiện tốt trên cơ sở thực hiện đầy đủ và đúng
đắn quá trình công nghiệp hoá.
Trong xà hội ngày nay, nhân tố con ngời đang trở thành vấn đề trung tâm.
Điều đó hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con ngời trong
nền sản xuất, đặc biệt trong nền sản xuất lớn, hiện đại, kĩ thuật cao. Để phát
huy đầy đủ vai trò của mình, con ngời tất yếu phải là con ngời hiện đại, có kĩ
thuật cao, công nghệ tiên tiến. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá
mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn
diện của nhân tố con ngời.
Hơn nữa, chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá để tạo điều kiện vật
chất kĩ thuật cho việc củng cố và tăng cờng tiềm lực quốc phòng vững mạnh
thì chúng ta mới yên tâm phát triển kinh tế và phát triển kinh tế mạnh mới tạo
ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền quốc phòng phát triển. Ngoài ra, công
nghiệp hoá còn tạo ra nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự phân công và
hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học và công nghệ đ
Nh vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ mang tính tất yếu mà còn
mang tính cấp bách tránh cho đất nớc không bị tụt hậu về kinh tÕ so víi c¸c níc l¸ng giỊng trong khu vùc cũng nh so với các nớc trên thế giới.
4. Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xà hội ở níc ta.
Chóng ta thÊy r»ng tõ mét níc nghÌo nµn lạc hậu, muốn xây dựng chủ
nghĩa xà hội thành công tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Ngay nh Liên
Xô - cái nôi của cách mạng đi nên chủ nghĩa xà hội cũng phải tiến hành công
nghiệp hoá. Tiến hành công nghiệp hoá là để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho
nền kinh tế phát triển mạnh, tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế. Bởi
vậy, chúng ta coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ đi lên
chủ nghĩa xà hội.
II. nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ
nay đến năm 2020.
Công nghiệp hoá là bớc đi tất yếu mà các quốc gia sớm muộn cũng phải vợt qua. Trong thời đại ngày nay, dới tác động của cách mạng khoa học
công nghệ, công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá. Nội
dung chủ yếu của công nghiệp hoá là trang bị kỹ thuật mới hiện đại, là xây
dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với việc tổ chức phân công lại lao
4
động và đôỉ mới chính sách đầu t đa nớc nhà từ kém phát triển thành quốc gia
có nền kinh tế phát triển.
1. Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
Lịch sử và kinh nghiệm công nghiệp hoá trên thế giới cho thấy việc trang
bị công nghệ cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân diễn ra qua 2 con đờng : Công nghiệp hoá cổ điển ( tự trang bị, tự xây dựng ) và công nghiệp hoá
gắn liền với hiện đại hoá và mở cửa thông qua chuyển giao công nghệ. Lịch sử
cũng cho thấy rằng công nghiệp hoá theo kiểu cổ điển chỉ thích ứng với thời
kỳ đầu của các nớc đầu tiên làm công nghiệp hoá ( nớc Anh ) gắn liền với
kinh tế đóng kín về mặt hàng và công nghệ.
Tiến trình cách mạng công nghệ và công nghiệp hoá diễn ra theo trật tự từ
thủ công đến nửa cơ khí, từ công nghiệp nhẹ lần lợt từng bớc sang công
nghiệp nặng. Việc sản xuất máy móc lúc đầu do những ngời thợ có tay nghề
cao, chế tạo bằng phơng pháp thủ công và kéo dài cho tới khi xuất hiện công
xởng với những máy công cụ và ngành chế tạo công cụ ra đời. Từ kinh nghiệm
của nớc Anh, các nớc t bản đi sau đà rút ngắn đợc thời gian phát triển nhờ
giảm bớt đợc thời kỳ mò mẫm, nhng họ cha có điều kiện rút ngắn đáng kể thời
gian và trình độ do quy luật phát triển tuần tự đang còn ngự trị.
Các nớc chọn con đờng xà hội chủ nghĩa nói chung tiến hành công nghiệp
hoá theo mô hình cuả Liên Xô, nớc xà hội chủ nghĩa đầu tiên. Thực chất đây
là công nghiệp hoá theo kiểu cổ đIển nhng theo hớng khác và có sự cải biến
nhất định đó là không đi từ công nghiệp nhẹ mà lại đi từ công nghiệp nặng.
Điều này có nguyên nhân khách quan : là nớc xà hội chủ nghĩa đầu tiên nên
Liên Xô không có cách nào khác là phải nhanh chóng tạo ra cho mình cơ sở
vật chất kỹ thuật đủ mạnh để có thể tồn tại và phát triển trong vòng vây của
chủ nghĩa t bản. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, dới tác động của quy luật
phát triển không đều và cuộc cách mạng và công nghệ mô hình công nghiệp
hoá của các nớc đi theo con đờng chủ nghĩa xà hội bắt đầu có sự thay đổi. Các
nớc đó không thể không tính đến bối cảnh lịch sử mới và tính đến cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại. Song do nhiều nguyên nhân, nhất là do
mô hình kinh tế chỉ huy, do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp.
Do những khó khăn về vốn và đổi mới công nghệ, các nớc đó đà không đổi
mới đợc bao nhiêu mô hình công nghiệp hoá của mình và kết quả đều lâm vào
tình trạng khủng hoảng đổ vỡ.
Mô hình công nghiệp hoá của nớc ta chịu ảnh hởng không nhỏ của mô
hình công nghiệp hoá của Liên Xô nên cũng không tránh khỏi tình trạng trên,
5
đặc biệt là giai đoạn 1960 1986 nền kinh tế nớc ta trì trệ và hầu nh không
phát triển. Thực tế cho thấy con đờng công nghiệp hoá cổ điển nói chung và
mô hình công nghiệp hoá ở các nóc ®i theo con ®êng x· héi chñ nghÜa ( trong
®ã có nớc ta ) nói riêng có những hạn chế nhất định. Với mô hình đó sẽ không
tránh khỏi tình trạng :
- Lạc hậu về thế hệ công nghệ, do đó khó đuổi kịp các nớc cá trình độ cao về
phát triển kinh tế và văn minh xà hội.
- Không tận dụng đợc các nguồn lực, các lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh,
các sản phâm làm ra không có khả năng cạnh tranh, do đó khó hội nhập
với thị trờng thế giới.
Vì vậy, nếu cứ giữ mô hình đó sẽ không tránh khỏi lạc hậu, lạc điệu và lạc
lõng trớc bớc tiến nh vũ bÃo của thế giới.
Ngày nay, nền kinh tế trên thế giới là nền kinh tế mở, khả năng tận dụng,
tranh thủ công nghệ tiên tiến của các nớc phát triển là dễ dàng do đó có thể rút
ngắn thời gian cần thiết để từ một nứoc chậm phát triển thành một nớc có nền
kinh tế phát triển, điều mà nếu áp dụng mô hình công nghiệp hoá cổ điển
không thể đạt đợc. Do đó con đờng sẽ đợc chọn đối với các nớc tiến hành
công nghiệp hoá muộn sẽ là con đờng Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá, Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá
và quốc tế hoá qua chuyển giao công nghệ và đó là con đờng mà chúng ta
đÃ, đang và sẽ thực hiện để trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho nền
kinh tế.
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý.
Nói đến cơ cấu kinh tế là muốn nói trong nền kinh tế có bao nhiêu ngành
( bộ phận ) hợp thành và mối liên quan giữa các ngành đó nh thế nào. Cơ cấu
kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế cho phép ta khai thác đợc mọi tiềm năng bên
trong và các lợi thế so sánh bên ngoài của đất nớc. Sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trờng sinh thái, phát huy đợc thế mạnh về lao
động, đất đai truyền thống ngành nghề, tạo một thế đứng cho nớc ta trong tơng lai trên thị trờng thế giới, tham gia có hiệu quả vào việc phân công lao
động và hợp tác quốc tế, bảo đảm sự phát triển có hiệu quả với năng suất cao
cho toàn bộ nền kinh tế.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình công
nghiệp hoá, cơ cấu kinh tế đó phải đảm bảo các yêu cầu sau :
6
- Phản ánh đúng đắn các yêu cầu của các quy luật khách quan, đặc biệt là
các quy luật kinh tế.
- Phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại trên thế giới hiện nay.
- Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển.
- Tính hợp lý của cơ cấu còn phải đảm bảo cho phép tối u hoá việc sử dụng
lợi thế so sánh về tài nguyên lao động của nớc phát triển muộn về công
nghiệp. Chỉ có nh vậy mới cho phép khai thác tối đa và có hiệu quả những
tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phơng, và các đơn vị kinh tế cơ
sở.
Từ những yêu cầu đó, Đảng ta đề ra mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu sang nền kinh tế
có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hợp lý theo hớng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Từ một nền kinh tế tự nhiªn ( tù cung, tù cÊp ) sang nỊn kinh tế
hàng hoá tơng đối phát triển với thị trờng nội địa thống nhất toàn quốc và mở
rộng giao lu trên thị trờng thế giới. Kết hợp cơ cấu hớng ngoại và hớng nội để
giảm nhẹ các chấn động có hại của thị trờng thế giới.
Phải tăng nhanh khu vực công nghiệp chế biến và dịch vụ, thực hiện công
nghiệp hoá theo nghĩa xây dựng một cơ cấu kinh tế đa ngành đảm bảo nhịp độ
tăng trởng kinh tế cao.
Để cơ cấu kinh tế có thể chuyển dịch một cách linh hoạt, theo kịp với đà
tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ cần hạn chế các công trình có quy mô lớn,
hết sức coi trọng các công trình có quy mô vừa và nhỏ vốn đầu t ban đầu đòi
hỏi còn ít, thời gian xây dựng ngắn và hệ số hoàn vốn cao.
Chủ trơng công nghiệp hoá nớc ta mấy thập kỷ trớc đây ( cụ thể từ năm
1986 trở về trớc ) thực hiện cha đợc thành công là do :
- Cha hiĨu ®óng néi dung, bíc ®i cđa công nghiệp hoá phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh của níc ta céng thªm víi t tëng chđ quan, nãng vội.
- Xuất phát điểm của nớc ta từ một nền kinh tế kém phát triển : sản xuất
không đủ tiêu dùng, xuất không đủ nhập, thu không đủ chi đ nên không
có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
- Có thiếu sót trong việc chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu t
nên mang lại hiệu quả thấp.
7
- Cơ chế quản lý kinh tế theo kiểu bao cấp làm triệt tiêu động lực phát triển
sản xuất. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đạt thấp, nhất là khu vực
kinh tế quốc doanh.
- Sự phân công lao động và hợp tác quốc tế của khối SEV cũ mang nặng tính
hình thức.
Việc phân công hợp tác liên doanh cha đáng kể. Thời gian từ nay đến cuối
thế kỷ, trớc mắt nhân dân ta cũng gặp những thách thức lớn. Đồng thời cũng
có những thuận lợi rất cơ bản nh :
- Từ những thành tựu của công cuộc đổi mới trong mấy năm qua ( đặc biệt là
từ năm 1991 đến nay ) đà chứng minh đợc đờng lối đúng dắn của Đảng,
tạo ra thế lực mới cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi dào và có tri thức văn hoá
chuyên môn khá. Công suất máy móc sử dụng cha đợc 90%. Đó là những
tiềm năng quan trọng mà ta có khả năng khai thác đợc trong thời gian tới.
- Xu thế mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển trên thế giới và trong khu vực
đ tạo ®IỊu kiƯn thn lỵi cho ta tiÕp nhËn vèn, kü thuật và công nghệ,
kinh nghiệm quản lý của các nớc.
- Ta có lợi thế so sánh với các nớc trong khu vực về vị trí địa lý, bờ biển để
xây dựng các sân bay, bến cảng lớn, lập các khu chế suất dọc bờ biển, lập
các trạm, kho trung chuyển, hàng hoá cho các nớc trong khu vực.
Với các thuận lợi cơ bản nói trên, trong một thời gian không lâu chúng ta
nhất định thực hiện đợc nhiệm vụ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hơng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Những quan điểm cơ bản của Đảng và nhà n ớc ta về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc (1993) CNH là một quá trình phát
triển kinh tế trong quá trình này nguồn của cải quốc dân đợc động viên để
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nớc với kỹ thuật hiện đại. Đặc
điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất
ra những t liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ
nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ kinh tế xÃ
hội.
8
Còn hiện đại hoá ( theo định nghĩa của trờng đại học Harward 1994 ) là
sự đầu t một cách hệ thống, lâu dài và có định hớng để thực hiện mục đích của
con ngời.
Nh vậy, CNH và HĐH luôn là điều kiện tiền đề của nhau, nhịp điệu nhanh
chóng của quá trình phát triển kinh tế xà hội là cơ sở để gia tăng đầu t một
cách có hệ thống. Ngợc lại, đầu t gia tăng sẽ thúc đẩy cơ cấu nhiều ngành với
kỹ thuật ngày càng hiện đại.
Chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hoá một cách nóng vội, chủ
quan mà phải tiến hành trong một quá trình phấn đấu liên tục và lâu dài, từng
giai doạn phải có bớc đi thích hợp. Trong đại hội đảng, thực hiên nghị quyết
hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ơng khoá 7 đà chỉ rõ :
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo đúng định hớng XHCN, muốn vậy trong khi phát triển kinh tế nhiều thành phần phải luôn
luôn đảm bảo thành phần kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh
là nền tảng của kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Gắn tăng trởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xà hội, phát triển văn hoá và
bảo vệ môI trờng sinh thái để từ đó tạo ra đội ngũ cán bộ không chỉ có trình
độ, có sức khoẻ mà còn có phẩm chất tốt. Tiến hành công nghiệp hoá phải giữ
vững độc lập chủ quyền, đi đôi với việc mở rộng hợp tác quốc tế, tận dụng
mọi nguồn vốn trong đó vốn trong nớc là quyết định, vốn bên ngoài là quan
trọng. Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, chúng ta kiên trì chiến lợc
hớng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng các sản phẩm
trong nớc.
Cần lấy hiệu quả kinh tế, xà hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phơng
hớng phát triển, lựa chọn dự án đầu t về công nghệ, trừ những tổ chức có
nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ quốc phòng, an ninh và phúc lợi xà hội, tiêu
chuẩn hiệu quả quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp là kinh doanh có lÃi
một cách hợp pháp. ở tầm vĩ mô, nhà nớc xem xét hiệu quả toàn diện về kinh
tế, văn hoá, xà hội, quốc phòng an ninh và môi trờng sinh thái cả trớc mắt và
lâu dài.
Trong giai đoạn hiện nay, việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
công việc của toàn xà hội, toàn Đảng, toàn dân phải đồng tâm nhất trí, đoàn
kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực tự cờng, ra sức làm ăn có hiệu quả, đặc
biệt cần phải đề cao ý thức cần kiệm để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc.
9
4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và kinh tế nông thôn là một
phơng pháp cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính sách công nghiệp hoá nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hớng tới hình thành một số ngành chăn nuôi trọng yếu đối với sự phát triển
kinh tế xà hội, quốc phòng an ninh, trong đó trọng tâm là công nghệ chế
biến tạo, công nghiệp cơ khí đIện tử có vị trí hàng đầu. Song trong những năm
trớc mắt, khả năng vốn của chúng ta còn có hạn, nhu cầu công ăn việc làm
còn bức bách, đời sống của nhhân dân còn cha ổn định vững chắc. Vì vậy, cần
tập trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nh chúng ta đà biết, nớc ta là một nớc nông nghiệp với 80% dâb c đang
sinh sống tại các vùng nông thôn. Đây là địa bàn tập trung đại bộ phận ngời
nghèo trong xà hội. Vì vậy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đÃ
đang và sẽ là mối quan tâm lớn của nớc ta. Song nông nghiệp không thể tự
mình đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ, không có khả năng tăng trởng đủ nhanh, mạnh để tạo thêm công ăn việc làm cho ngời lao động mà phải
có tác động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ, phát huy vai trò hạt nhân của
các đo thị ở từng vùng, từng địa bàn. Chỉ có nh vậy mới phá vỡ đợc tình trạng
trì trệ, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, tăng nhanh sản phẩm
xà hội và thu nhập quốc dân, thực hiện xoá đói giảm nghèo làm cho nông thôn
ngày càng khá giả do đó trong giai đoạn này chúng ta phải chú trọng đến.
Việc phát triển nông nghiệp là vì bản thân nền kinh tế nớc ta trong giai
đoạn đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn gặp nhiều khó khăn nên
cha đạt đợc kết quả nh chúng ta mong muốn. Vì vậy, trong giai đoạn tiến hành
công nghiệp hoá và hiện đại hoá này khi chuyển từ sản xuất nông nghiệp là
chính sang sản xuất công nghiệp thì công nghiệp hoá nông thôn là một bớc đi
tuần tự, có thể thực hiện đơn giản, đễ dàng, phổ biến và phù hợp với điều kiện
của đất nớc. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá ở nớc ta đang gặp những
khó khăn to lớn về vốn, về thị trờng, về cơ sở hạ tầng. Phát triển công nghiệp
hoá nông thôn là một giải pháp cho phép tháo gỡ những vớng mắc đó một
cách nhanh chóng, rộng rÃi.
Tuy nhìn chung trình độ phát triển kinh tế của đất nớc còn thấp song đà có
sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn về cơ sở hạ tầng, về lực lợng sản
xuất. Vì vậy, một bộ phận lớn năng lực sản xuất không đợc khai thác và tận
dụng đúng mức gây ra lÃng phí về nhiều mặt.
Chính điều này đà làm giẩm hiệu quả kinh tế xà hội của kinh tế đô thị nói
chung, công nghiệp đô thị nói riêng, làm giảm tốc độ ph¸t triĨn chÝnh cđa c¸c
10
đô thị đó. Hơn nữa, nông thôn Việt Nam đang đứng trớc hàng loạt những vấn
đề kinh tế xà hội cần phải giải quyết. Đó là sự hạn chế về đất đai, sự d thừa về
lao động tơng đối và tuyệt đối, mức sống vật chất và tinh thần còn thấp kém.
Những vấn đề này chỉ có thể giải quyết đợc bằng chơng trình và biện pháp
đồng bộ trong đó công nghiệp hoá nông thôn đóng vai trò rất quan trọng bởi
vì phát triển công nghiệp nông thôn một mặt làm nhiều thêm các cơ sở sản
xuất công nghiệp ở nông thôn tức là làm tăng số các doanh nghiệp tiềm tàng,
tạo thêm công ăn việc làm, tận dụng đợc năng lực sản xuất ở thành thị và lao
động d thừa ở nông thôn, mặt khác, quá trình tích tụ và tập trung làm quy mô
của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lớn
lên thông qua việc tự tích luỹ vốn hoặc sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ.
Từ đây quá trình phân công lao động đợc thực hiện với tốc độ lớn hơn trớc rất
nhiều và kết quả là công nghệ và kỹ thuật đợc cải tiến và hoàn thiện ở những
mức độ khác nhau.
Không những thế, quá trình phát triển công nghiệp nông thôn cũng hỗ trợ
và thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp đô thị, liên kết với công nghiệp đô
thị thành một khối thống nhất. Nó làm thay đổi tính chất của mối quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp làm thay đổi tính chất và trình độ của sản xuất
nông nghiệp từ đó công nghiệp nông thôn góp phần tích cực vào việc thay đổi
tổ chức bộ máy quản lý và cơ chế sản xuất kinh doanh của cả công nghiệp lẫn
nông nghiệp do bản chất hàng hoá của nó.
Sự phát triển công nghiệp ở nông thôn còn góp phần thúc đẩy công nghiệp
hoá thông qua hàng loạt các tác động nh góp phần vào việc tích luỹ đầu t phát
triển công nghiệp, từng bớc khai thác và mở rộng thị trờng cho công nghiệp,
chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho sự phát triển của công ngiệp, từng bớc tạo nguồn
lao động, chuẩn bị tập quán, thói quen, kỹ năng sản xuất và kinh nghiệm quản
lý cho các nhà kinh doanh công nghiệp sau này.
Nh chúng ta đà biết, bất cứ một chính sách, một phơng án nào đều chịu
những tác động tích cực và tiêu cực, ở đây chúng ta nghiên cứu những tác
động này.
Về mặt tích cực : Trong công cuộc công nghiệp hoá ở nông thôn nớc ta,
chúng ta có những yếu tố thuận lợi, góp phần tích cực trong quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nớc. Trớc hết, ta thấy phát triển công nghiệp
hoá ở nông thôn là lợi ích chung của cả dân tộc, kể cả các nhà kinh doanh lẫn
ngời dân lao động. Vì lợi ích thiết thực này, khi không còn rằng buộc khắt khe
công nghiệp hoá nông thôn có thể phát triển với tốc ®é nhanh chãng vµ réng
11
rÃi, biến đổi linh hoạt theo nhu cầu và cạnh tranh trên thị trờng. Chúng ta thấy
rằng công nghiệp nông thôn có một thị trờng tiềm tàng to lớn. Thị trờng tại
chỗ của công nghiệp nông thôn là hơn 50 triệu dân đợc tổ chức thành hơn 10
triệu gia đình trong các làng xà có quy mô rất khác nhau do đó yêu cầu về sản
phẩm và dịch vụ tiêu dùng công cộng là rất đáng kể.
Công nghiệp nông thôn có thuận lợi về mặt nguyên liệu, đặc biệt các ngành
chế biến nông sản, dịch vụ cho nông nghiệp và các ngành sử dụng nguyên liệu
tận dụng từ nông nghiệp. Mặt khác ở nớc ta có nhiều loại nguyên liệu phân
tán ở nhiêu vùng lÃnh thổ ( dặc biệt là khoáng sản ). Trữ lợng và chất lợng của
chúng ta cha đủ để tổ chức khai thác và chế biến trên quy mô lớn. Tuy nhiên
nếu chỉ sản xuất quy mô nhỏ, chất lợng đòi hỏi không quá cao ( công nghiệp
sơ chế chẳng hạn ) lại là nguồn nguyên liệu tại chỗ rất tiện lợi, cho phép tiết
kiệm chi phí vận chuyển và hạ giá thành sản phẩm. Hơn nữa, khai thác các
loại tài nguyên này cũng phù hợp với trình độ thấp trong các khâu chế biến
trong công nghiệp nông thôn phù hợp với xu hớng thời kỳ đầu công nghiệp
hoá là tận dụng nguồn lao động rẻ, tài nguyên có sẵn để tích luỹ, phát triển
công nghiệp. Hiện nay, trình độ lao động nông thôn có trình độ tốt nghiệp phổ
thông cơ sở và phổ thông trung học là khá cao, do vậy tuy cha tiếp xúc trực
tiếp với công nghệ hiện đại, cha có kỹ năng, kỹ sảo trong hoạt động công
nghiệp, song khả năng học nghề của họ khá nhanh. Ngoài những thuận lợi
trên cũng phải thấy rằng công nghiệp nông thôn nớc ta không phải bắt đầu từ
con số không mà đà tồn tại, đà có sự phát triển về mặt tổ chức kinh doanh, tổ
chức quản lý kinh doanh và quản lý của nhà nớc đối với công nghiệp hoá nông
thôn.
Về mặt tiêu cực : quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn cũng
vấp phải một số khó khăn, khó khăn lớn nhất cần kể tới là tình hình kinh tế
kém phát triển ở vùng nông thôn, tình trạng phát triển trong nông nghiệp với
trồng trọt là chính trong đó chiếm tỉ trọng lớn là cây lúa. Nạn thiếu ăn kéo dài
đè nặng nên tâm lý của ngời nông thôn, làm cho ngay cả một số vùng tiểu thủ
công nghiệp phát triển cao cũng không dám bỏ nông nghiệp, cách ly hoàn
toàn khỏi nông nghiệp. Đồng thời tình trạng kém phát triển của nông thôn còn
làm cơ cấu tiêu dùng bất lợi cho các sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp. Đi đôi với nó là cơ sở hạ tầng và môi trờng kinh doanh cha đáp ứng đợc các yêu cầu của việc phát triển nhanh chóng, rộng rÃi công nghiệp nông
thôn. Hệ thống đờng xá, bến bÃi, kho tàng cũng nh hệ thống điện, hệ thống
thông tin liên lạc ở nông thôn rất kém. Những khó khăn này không những
12
ngăn cản sự thâm nhập vào những thị trờng mới của công nghiệp nông thôn
mà còn gây trở ngại ngay cả cho sản xuất của công nghiệp nông thôn. Thêm
nữa, sự yếu kém của cơ sở hạ tầng đà hạn chế sự phát triển của công nghiệp
nông thôn trên cả hai mặt.
- Nó hạn chế khả năng mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp do
khó khăn trong việc đảm bảo đầu ra, đầu vào.
- Làm triệt tiêu lợi thế do chi phí lao động thấp bởi vì chi phí cho vận
chuyển nguyên liệu cao, giá điện cũng nh giá điện thoại cao và nh vậy giá
thành sản phẩm cũng phải lên cao. Đây là điều hoàn toàn bất lợi, đó là cha
kể đến sự lỡ thời cơ kinh doanh do chậm nắm thông tin của thị trờng.
Qua những phân tích trên đây chúng ta thấy rằng công nghiệp hoá nông
thôn là một hình thức cụ thể thích hợp để công nghiệp gắn với nông nghiệp,
phục vụ nông nghiệp, là một bớc cần thiết để thực hiện công nghiệp hoá - hiện
đại hoá. Nó đồng thời cũng là bộ phận quản trọng trong nền kinh tế, ở giao
điểm của những chính sách then chốt để phát triển nền kinh tế ( nh chính sách
công nghiệp hoá, chính sách phân bố lực lợng sản xuất, chính sách phát triển
kinh tế, lÃnh thổ đ )
Việc phát triển công ngiệp cũng đồng thời đòi hỏi phải có một chính sách
nhất quán với t cách là một bộ phận quan trọng trong chiến lợc kinh tế nói
chung.
Vì vậy trong những năm trớc mắt,đảng và nhà nớc ta cần phải hỗ trợ và
khuyến khích,huy động vốn để phát triển công ngiệp nông thôn,hỗ trợ và đầu
t trực tiếp vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Khuyến
khích đổi mới kĩ thuật chuyển giao công nghệ thực hiên chế độ u đÃi về thuế
và bảo hộ sản xuất một cách chọn lọc đối vơí môt số sản phẩm và một số địa
phơng. Có nh vậy thì chúng ta mới có thể tạo điều kiện cho việc phát
triểncông nghiệp ở nông thôn và cũng từ đấy mới có thể tác động nhanh nhất
đến mạng lới giao thông, bến bÃi, kho tàng ( Tức cơ sở hạ tầng của nỊn kinh tÕ
)vµ nh vËy thn tiƯn cho sù giao lu nguyên vật liệu cũng nh sản phẩm giữa
các vùng, từ những miền hẻo lánh nhiều nhiều tài nguyên đến các nhà máy,
kho tàng,bến bÃi.
Khuyến khích đối với kỹ thuật, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất
lợng sản phẩm, tận dụng cũng nh tiết kiệm đợc tàI nguyên, nhờ đó chúng ta có
thể làm hạn chế lÃng phí của xà hội, ngăn chặn làm hàng giả. Sự u đÃI về thuế
và bảo hộ sản xuất nhằm giúp các sản phẩm và địa phơng nhất định có đợc lợi
13
thế nhất định trong việc cạnh tranh trên thị trờng. Nhng sự u đÃI cũng nh bảo
hộ này chỉ có tính chất tạm thời.
III. điều kiện để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá
ở nớc ta từ nay đến 2020.
1. Vấn đề nhân lực.
Đây là một yếu tố quan trọng hàng đầu, là nhân tố cơ bản của sự phát triển
kinh tế xà hội. Không phải ngẫu nhiên mà châu âu chỉ có thể đi vào công
nghiệp hoá sau thời kỳ phục hng. Các con rồng châu á đều coi giáo dục là
nhân tố có ý nghĩa hàng đầu đối với sự phát triển nói chung và công nghiệp
hoá nói riêng. Ngân hàng thế giới tính rằng tỷ lệ thu hồi vốn cho giáo dục tiểu
học là 26%, cho cấp hai là 17% và cho cao đẳng, đại học là 14% trong khi đó
thu hồi vốn cho đầu t vật chất là 13%. Do các ý nghĩa đó mà các nớc thực hiện
công nghiệp hoá đều chi phí lớn cho giáo dục, coi giáo dục là một đảm bảo
cho thành công của công nghiệp hoá. Theo hớng đó các nớc công nghiệp phát
triển và công nghiệp hoá thờng dành 15 19% chi ngân sách cho giáo dục.
Ví dụ nh ở nớc Cộng hoà Triều Tiên năm 1975 có 5% đại học, 42% trung học,
36% biết đọc và biết viết và 15% không đợc đi học. ở nớc ta năm 1989 tỷ lệ tơng ứng là 0,7% ; 82,4% ; 3% và 13,6%. Nh vậy, tỷ lệ đại học của nớc ta cha
phải là cao. Nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống giáo dục gần đây nhà nớc
ta cũng từng bớc đầu t cho lĩnh vực này, đa lên tới 10 12% cho ngân sách.
Đó là mét cè g¾ng lín cđa chóng ta nhng dï sao vẫn còn hạn hẹp.
Mặt khác Đảng và nhà nớc ta coi trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh. Đối
với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá là sự nghiệp của toàn thể nhân
dân lao động, trong đó lực lợng cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý sản xuất
kinh doanh và công nhân lành nghề đóng vai trò quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá vai trò của con ngời với t cách là chủ thể của
lực lợng sản xuất xà hội, đặc biệt con ngời có trình độ khoa học kỹ thuật cao
càng có tầm quan trọng vợt bậc.
Tốc độ tăng trởng và phát triển kinh tế của một quốc gia chỉ có thể đạt
đựơc tốc độ cao khi chúng ta giả quyết tốt và thực hiện đồng bộ cả hai nhân tố
của quá trình sản xuất đó là t liệu sản xuất hiện đại và con ngời hiện đại
chủ thể của quá trình sản xuất đó. Với thành tựu của khoa học kỹ thuật và
công nghệ ngày nay đà khẳng định rằng mặt kỹ thuật của các yếu tố tự nhiên
của sản xuất ngày càng phức tạp và hiện đạ, hơn nữa con ngời Việt Nam chịu
ảnh hởng lâu ngày của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đIều đó tất yếu đòi
14
hỏi phải không ngừng đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ, kỹ năng, kỹ
sảo nhằm nắm bắt và sử dụng các thành tựu đó áp dụng vào quá trình sản xuất,
thông qua đó phục vụ cho chính cuộc sống của mình.
Đảng ta đà đặt con ngời vào vị trí trung tâm trong sự nghiệp phát triển kinh
tế : Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ,
coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con ngời - động lực trực tiếp
của sự phát triển.
Việc xây dựng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật,
công nhân lành nghề ở nớc ta phải tuân theo các quá trình có tính quy luật.
Chỉ trên cơ sở đáp ứng cá yêu cầu đó, chúng ta mới có thể có đợc đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề với t cách là chủ thể của quá trình
sản xuất. Từng bớc đáp ứng đầy đủ kịp thời các yêu cầu mới của cách mạng
khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới đang phát triển nh vũ
bÃo.
2. Vấn đề vốn.
Nh chúng ta đà biết, nớc ta là một nớc có nền kinh tế kém phát triển, cho
nên để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi
phải có nhiều vốn, vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá gồm nhiều loại vËt
t kü tht, ®Êt ®ai, tiỊn tƯ, lùc lao ®éng cã tri thøc khoa häc cao vµ tay nghỊ
giái. Trong điều kiện hiện nay, để phát huy hết những khả năng tiềm tàng về
vật t, lao động tất yếu phải thực hiện chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá
sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển sản xuất nâng cao năng suất lao
động, đa dạng hoá sản phẩm để thoả mÃn nhu cầu của nhân dân.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá kéo theo sự thay đổi to lớn về chất
lợng và số lợng, về cơ cấu ngành sản xuất. Nhiều ngành nghề sản xuất mới
xuất hiện do đó tất yếu đòi hỏi phải có những nguồn vốn đầu t mới có thể đáp
ứng nhu cầu đó, trong đó tích luỹ vốn là một khâu quan träng.
HiƯn nay møc ®é tÝch l vèn cđa níc ta là thấp ( chỉ trên dới 10% GDP ).
Vì vậy, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng đà đặt nhiệm vụ :
gia tăng tích luỹ vốn là phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nớc ta và kinh nghiệm phổ biến của thế giới. Hội nghị đặt vấn đề : Nguồn vốn
trong nớc là quyết định, vốn từ bên ngoài là quan trọng.
Đi đôi với việc gia tăng tiết kiệm, mức độ đầu t có tầm quan trọng đặc biệt
đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh nghiệm của các nớc đi
vào công nghiệp hoá cho thấy : ở các nớc có thu nhập đầu ngời khoảng
200USD mức đàu t phải trên dới 20% GDP. Điều này ảnh hëng trùc tiÕp tíi
15
tốc độ tăng trởng. Nhiều nhà kinh tế học khẳng định muốn tăng GDP lên 1 thì
phải tăng đầu t lên 3. Tiếc rằng mức đầu t ở nớc ta so với GDP còn khá thấp,
năm 1993 chỉ khoảng trên 10%.
Nguồn gốc cơ bản của nguồn vốn tích luỹ là lao động thặng d. Nớc ta tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhng cũng không từ bỏ định hớng đi lên
chủ nghĩa xà hội do đó để tăng tích luỹ thì con đờng duy nhất là tăng năng
suất lao động ( chứ không phải là tăng thời gian lao động nh ở các nớc t bản
đà làm ). Nguồn vốn để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm
nguồn vốn tích luỹ từ trong nớc cần phải thực hiện mạnh mẽ các biện pháp sau
:
- Nhà nớc phải có chính sách bảo đảm lợi ích thoả đáng cho ngời có vốn đầu
t, đặc biệt là chính sách thuế và lợi nhuận để từ đó có thể thu hút vốn đầu t
tối đa các nguồn tichs luỹ từ bên trong nền kinh tế. Theo tính toán của các
nhà kinh tế, nguồn vốn hiện đọng trong dân dới dạng vàng, đôla, tiền Việt
Nam ớc khoảng 20000 tỷ đồng, các nguồn vốn này hiện nay cha đợc
chuyển và Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá, kênh sản xuất kinh doanh là do nhiều nguyên nhân : tâm lý lo
ngạI về hiệu quả, an toàn vốn đầu t, mặt bừng để xây dựng và mở rộng sản
xuất kinh doanh cha đủ, nhà nớc cha quan tâm hỗ trợ, đặc biệt là cha có
chính sách hấp dẫn, thủ tục đăng ký kinh doanh còn nhiều phiền hà đ nếu
chúng ta khắc phục đợc những trở ngại trên thì chắc chắn nền kinh tế sẽ có
thêm vốn đầu t đáng kể cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Tổ chức các hình thức liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế, cổ
phần hoá một số lớn doanh nghiệp của nhà nớc để thay thế vốn nhà nớc
bằng vốn liên doanh và vốn cổ phần. Đây là biện pháp có nhiều khả năng
thực thi để nhà nớc có đIều kiện tập trung vốn đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Huy ®éng tèt ngn vèn “Néi dung chđ u cđa công nghiệp hoá, Bảo hiểm xà hội tạm thời các công ty bảo hiểm
cha sử dụng để phát triển thêm các ngành, các nghề sản xuất, dịch vụ mới,
vừa đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, vừa
tăng thêm của cải vật chất cho xà hội.
Ngoài nguồn vốn trong nớc, nguồn vốn từ bên ngoài cũng có vai trò quan
trọng, thậm trí giữ vai trò quyết định. Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hoá
ở những nớc kinh tế kém phát triển, để nâng cao nguồn vốn tích luỹ từ bên
ngoài một mặt phải đẩy mạnh, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, mặt
khác phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế thông qua việc mở
rộng, đa dạng hoá, đa phơng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại dùa trªn nguyªn
16
tắc giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, bình đẳng, cùng có lợi. Thu hút các
nguồn lực bên trong đồng thời cần thúc đẩy quá trình hợp tác quốc tế về lao
động, đẩy mạnh hoạt động ngoại thơng coi đó là những biện pháp thiết thực
để tăng vốn cho công nghiệp hoá. Tiến đến phải tạo môi trờng đầu t thuận lợi,
điều đó đòi hỏi phải cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới đờng xá, kho bÃi thuộc
kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thu hút tối đa các nhà t bản đầu t, liên doanh
hợp tác với ta. Bên cạnh đó nhà nớc cần sớm hoàn chỉnh hệ thống luật, đổi
mới hệ thống hành chính để giảm bớt phiền hà. Ngoài các biện pháp trên,
thông qua chính sách đối ngoại chúng ta có thể vay vốn nớc ngoài để đáp nhu
cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nguồn vốn sử dụng nhng phải
hoàn trả trong tơng lai và phải trả lÃi do đó phải sử dụng sao cho có hiệu quả.
3. Vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng.
Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đợc thực hiện thuận lợi, chúng ta phải
xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại và hợp lý. Sở dĩ nh vậy là vì kết cấu hạ từng
chi phối mọi sự phát triển của nền kinh tế, do đó muốn nền kinh tế cất cánh,
mỗi quốc gia đều phải có một kết cấu hạ từng phù hợp, nếu không sẽ gây ra bế
tắc cho sự phát triển. Kinh nghiệm thành công của nền kinh tế châu á Thái
Bình Dơng trong những năm gần đây cho thấy vai trò và sự thúc bách của nhu
cầu mở rộng, củng cố kết cấu hạ từng. Đối với nớc ta, một nớc bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, nay bớc sang quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế thì vấn đề kết cấu hạ từng lại càng trở lên cấp bách.
Cơ sở vật chất của ngành Giao thông Vận tải là một khâu quan trọng
nhất của kết cấu hạ tầng, là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành t liệu lao
động của toàn bộ xà hội. Giao thông Vận tải là cửa mở, là đầu kéo của toàn
bộ nền kinh tế xà hội, thúc đẩy quá trình giao lu kinh tế, văn hoá, phát triển và
phân bố lực lợng sản xuất trên quy mô toàn lÃnh thổ, là cầu nối kinh tế của
các nớc láng giềng và trong khu vực. Vì vậy, phát triển Giao thông – VËn t¶i
tõ tríc tíi nay víi mäi qc gia đều là một nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc
xây dùng c¬ së vËt chÊt kü tht cho nỊn kinh tế quốc dân. Trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế việc xây dựng và mở rộng kết cấu
hạ từng về giao thông vừa là điều kiện vừa là nội dung cơ bản để tạo cơ sở
quan träng cho sù ®ỉi míi nỊn kinh tÕ. Sù u kém của kết cấu hạ tầng là
nguyên nhân chủ yếu hạn chế sự phát triển của kinh tế xà hội và là hậu quả
của một nền công nghiệp cha phát triÓn.
17
4. Vấn đề thị trờng.
Việc mở rộng thị trờng cũng là một vấn đề đáng để cho chúng ta quan tâm.
Việc mở rộng thị trờng bao gồm việc mở rộng thị trờng bên trong và thị trờng
bên ngoài. Trớc đay, thị trờng chủ yếu của nớc ta là các nớc Đông Âu và Liên
Xô cũ. Nhng khi khối các nớc XHCN ở Đông Âu và Liên Xô tan rÃ, chúng ta
đà mất đi thị trờng lớn, đIều đó quả là một thiệt thòi lớn cho chúng ta khi mà
chúng ta đang trên con đờng chuyển đổi nền kinh tế. Vì vậy việc tăng cờng
kinh tế đối ngoại có tác dụng mở rộng thị trờng, làm động lực cho quá trình
công nghiệp hoá, gia tăng tích luỹ, tận dụng lợi thế của mình ( là nớc đi sau,
tiếp thu kinh nghiệm của các nớc đi trớc ). Xây dựng một thị trờng hớng ngoại
và dùng để kích thích sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại. Nền kinh tế nớc ta đang ở trong giai đoạn tiền cất cánh, nó sẽ không thể
cất cánh đợc nếu không có sự tích luỹ từ trong và ngoài nớc. Thông thờng thời
kỳ đầu cơ cấu kinh tế phải đợc xây dùng theo híng më cưa vµ cïng víi nã lµ
chiÕm đợc thị trờng hớng ngoại.
Giải pháp trên đây đòi hỏi nhà nớc có chính sách u tiên cho xuất khẩu. Cụ
thể là đầu t cho khoa học kỹ thuật và công nghệ để có sản phẩm chất lợng cao,
sử dụng hàng rào thuế quan bảo hộ suất khẩu, có chế ®é u ®·i cho c¸c tỉ chøc
kinh tÕ thc c¸c hình thức sở hữu làm hàng xuất khẩu.
5. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải động viên các thành phần
kinh tế tích cực tham gia đầu t phát triển.
Trong điều kiện một nền kinh tế chậm phát triển, nhất là trong hoàn cảnh
nớc ta để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhà nớc phaỉ động
viên mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Dân ta còn
nghèo, khả năng đầu t còn thấp nên nhiều việc nhà nớc phải đảm đơng vì lợi
ích chung của xà hội. Vì vậy cần chấn chỉnh, đổi mới và phát triển có hiệu quả
khu vực doanh nghiệp nhà nớc, làm tốt vai trò chủ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy các
thành phần khác cùng phát triển. Tập trung cố gắng của các doanh nghiệp nhà
nớc vào những khâu then chốt nh : kết cấu hạ tầng, những công trình đòi hỏi
kỹ thuật cao, vốn đầu t lớn khả năng thu hồi vốn chậm và kéo dài, đồng thời
đáp ứng nhu cầu về vật t, dịch vụ khoa học kỹ thuật, thơng mại, tài chính cần
thiết tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và toàn
xà hội.
Xác định rõ và có hình thức thích hợp để đảm bảo thực hiện có hiệu quả
quyền sở hữu của nhà nớc đối với những tài sản công giao cho doanh nghiệp
18
sử dụng. Mặt khác cần trao quyền tự chủ đầy đủ, rõ ràng tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh theo đúng luật pháp và quy định
của nhà nớc nh các thành phần kinh tế khác.
Kinh tế hợp tác có nhu cầu và triển vọng phát triển rộng lớn đối với ngời
sản xuất nhỏ và các cá thể do tác động khách quan của quá trình xà hội hoá
sản xuất. Hình thức kinh tế hợp tác rất đa dạng theo cả nghĩa dọc và chiều
ngang kết hợp đan xen nhiều loại hình sở hữu, áp dụng các biện pháp tổ chức
quản lý khác nhau, những phơng pháp phân phối khác nhau, đáp ứng nhu cầu
phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả và lợi ích của các thành viên trên
nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện và cùng có lợi.
Kinh tế t nhân cần đợc khuyến khích, hỗ trợ hớng mạnh vào phát triển sản
xuất, giảm bớt buôn bán phải làm ăn đúng pháp luật. Nhà nớc bảo đảm lợi ích
chính đáng của ngời lao động, đồng thời bảo hộ sử hữu và quyền lợi hợp pháp
khác của giới chủ. Xây dựng quan hệ lao động, quan hệ chủ thợ lành mạnh
trong các doang nghiệp, chủ và thợ đoàn kết phối hợp với nhau, sử lý các mâu
thuẫn, các khó khăn nảy sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh để doanh
nghiệp làm ăn phát đạt, chđ doanh nghiƯp cã l·i ®êi sèng cđa ngêi lao động đợc cải thiện, cùng nhau làm tròn nghĩa vụ với nhà nớc.
Chính sách kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức, quy mô trên đây
sẽ còn tiếp tục đợc nghiên cứu, bổ xung hoàn chỉnh. Đó là sự vận dụng sáng
tạo t tởng của Lênin về chính sách kinh tÕ míi mµ mét néi dung quan träng
cđa nã là chủ nghĩa t bản nhà nớc, phù hợp với hoàn cảnh nớc ta trong điều
kiện hiện nay.
6. Công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá, với việc nâng cao trình độ
khoa học kỹ thuật công nghệ.
Khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát
triển của các quốc gia. Phần thắng trong cc chiÕn “Néi dung chđ u cđa c«ng nghiƯp hoá, ai thắng ai trên thị trờng quy đến cùng là do trí tuệ và năng lực sáng tạo của dân tộc biết học hỏi
một cách khôn ngoan các thành tựu và trí thức của nhân loại, tận dụng đợc lợi
thế của nớc đi sau, đề ra đợc những chủ trơng biện pháp thích hợp với đất nớc
trong hoàn cảnh mới, giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề kinh tế xÃ
hội, công nghệ, kỹ thuật và môi trờng. Muốn vậy phải chú trọng đến việc bồi
dỡng và sử dụng tốt nguồn nhân lực có trình độ văn hoá và kỹ năng nghề
nghiệp ngày càng cao.
Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ với thực tiễn nhu cÇu x·
héi, thiÕt lËp quan hƯ trùc tiÕp gii· doanh nghiệp với cơ quan, làm công tác
19
phát minh sáng chế, trả tiền công thoả đáng với hiệu quả kinh tế xà hội của
việc áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tế nhằm khuyến khích các nhà
khoa học và công nghệ hăng hái miệt mài sáng tạo để có cuộc sống đầy đủ
hơn cho chính bản thân mình. Thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh của nhà nớc
về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hoá sản xuất và sáng chế. Đây là một phơng hớng quan trọng nhằm
thúc đẩy cho sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
7. Vấn đề môi trờng.
Bên cạnh những u điểm đáng khích lệ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thì sự phát triển công nghiệp hoá không đúng hớng sẽ gây ra những hậu quả
nghiêm trọng đến môi trờng sinh thái, làm cho cuộc sống của con ngời bị đe
doạ, nh vậy việc phát triển kinh tế xà hội không còn có ý nghĩa. Sự phát triển
công nghiệp ồ ạt trên phạm vi toàn thế giới một mặt làm cho của cải thế giới
nhiều lên gấp bội, mặt khác nó cũng là nguyên nhân dẫn tới sự xuống cấp
nghiêm trọng của môi trờng sống. Ngày nay chúng ta thực sự phải chịu những
tác động của môi trờng sinh thái ô nhiễm ( ma axit, sự rò rỉ phóng xạ của các
nhà máy điện nguyên tử cũng nh chất thải của nó ; tầng ôzôn bị phá thủng
nhiều chỗ làm tia cực tím xâm nhập gây ra nhiều bệnh nghiêm trọng nh ung
th da đ trái đất bị nung nóng do hiệu ứng nồng kinh gây tan băng ở hai cực
trái đất gây ra một số vùng trên trái đất bị ngập mặn. Công nghiệp khai thác
gỗ phát triển đẫn đến phá rừng nhiều gây ra mất cân bằng về sinh thái, ma bÃo
ngập lụt cũng nh hạn hán xảy ra nhiều trên toàn thế giới ).
Do đó đà đến lúc con ngời phải thay đổi cơ bản phơng thức tác động vào
thiên nhiên, phơng thức công ngiệp hoá thay cho phơng thức sản xuất công
nghiệp ồ ạt phục vụ hàng loạt. Phải nghĩ tới một nền sản xuất ít ô nhiễm môi
trờng cũng nh làm môi trờng tốt hơn. Thực chất đó là cuộc cách mạng công
nghiệp sinh thái.
c. kết luận.
Nh vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá về lôgíc cũng nh về lịch sử là một
quá trình tất yếu của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Muốn công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị những vấn đề kinh tế vật chất
mà thiếu nó thì không thể nào bớc vào thời kỳ đẩy mạnh và hoàn thành công
nghiệp hoá.
Nớc ta cũng nh nhiều nớc khác đà coi hiện đại hoá là trung tâm của sự phát
triển. Việc Đảng ta lựu chọn và dẫn dắt chúng ta tiến hành công nghiệp hoá
hiện đại hoá là chủ trơng hoàn toàn sáng suốt, anh minh và đúng đắn. Nhờ sự
dẫn dắt này mà cuộc sống của ngời dân Việt Nam từ thành thị đến nông thôn
20