Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG CƠ CẤU SINH VIÊN ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ KINH TẾ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.19 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG CƠ CẤU SINH VIÊN ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC CỦA
VIỆT NAM VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ KINH TẾ HIỆN NAY
Sự phát triển nhanh của các nước Châu Á và hệ thống giáo dục của các
nước này đã được thế giới chứng kiến từ 3 thập kỷ gần đây. Số lượng trẻ em đến
trường hàng năm và số lượng người theo học ở các cấp học hàng năm tăng lên,
chất lượng giáo dục đào tạo cũng không ngừng được nâng cao. Sự phát triển đó
làm cho nhận thức của học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, sinh viên các
trường Đại học - Cao đẳng ở một số nước Châu Á, đặc biệt ở khu vực Đông
Nam Á có thể ngang hàng hoặc thậm chí cao hơn sơ với trình độ của các nước
phát triển (Điều kỳ diệu ở Đông Nam Á - Ngân hàng thế giới 1993).
Thế giới đang trong thời gian thực hiện bước chuyển giao quan trọng từ
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin trí tuệ. Hàm lượng trí tuệ
trong các loại hình hàng hoá và dịch vụ ngày càng tăng lên, điều đó đòi hỏi các
nước phải thực sự quan tâm tới nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, quản lý và
chuyên môn cao trong các lĩnh vực. Đối với các nước Châu Á( đặc biệt là các
nước Nam Á), việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ và nghiệp vụ
luôn được quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi .
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á nên chịu ảnh hưởng tác động
mạnh mẽ của sự phát triển này trong quá trình hội nhập với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Bối cảnh đó đặt ra cho chúng ta những thách thức và cơ hội
mới trong sự nghiệp giáo dục để phát triển nguồn nhân lực có trình độ. Do đó,
trong thời gian qua hoạt động giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
sâu sắc, đúng như quan điểm của Đảng trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành
khoá VIII có nêu "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Điều đó đã nâng dần vị thế
của nước ta trong quá trình phát triển . Xét theo chỉ số HDT (chỉ số phát triển
nguồn nhân lực) thì năm 1997, vị trí của chúng ta là 121 trong tổng số 178 nước
trong khi chúng ta chỉ đứng ở vị trí 156 trong thứ hạng về thu nhập bình quân
đầu người hàng năm. Hiện nay, chúng ta có khoảng 88% dân số là biết chữ, số
1
NGUYỄN QUANG HỌC KTPT 37A–
người trong độ tuổi từ 15 trở lên là biết chữ chiếm 91%,và trong lực lượng lao


động con số biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 34 là 94%. Bên cạnh đó, chúng ta có
khoảng 3 - 4 triệu người tốt nghiệp các trường trung học, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề, Đại học và Cao đẳng hàng năm. Con số đó đã góp phần làm
tăng đội ngũ lao động đã qua đào tạo của chúng ta trong lực lượng lao động từ
6,3% trong giai đoạn 1990 - 1996 lên đến 8,41% trong giai đoạn 1996 - 1998.
Tốc độ tăng trưởng đó gấp 3 lần trong cùng thời kỳ của lực lượng lao động. Số
lượng nhân lực qua đào tạo đó là nguồn lực quan trọng trong việc tạo động lực
thúc đẩy cho sự phát triển và tiếp thu những thành tựu của các nước đi trước để
đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và khu
vực.
Số lượng đào tạo trong hệ thống giáo dục đào tạo bậc Đại học của chúng
ta đã đạt được một số kết quả khả quan trong thời gian qua. Theo số liệu thống
kê của Bộ giáo dục đào tạo thì trong giai đoạn từ 1991 - 1992 đến 1995 - 1997
số lượng sinh viên chính quy bậc Đại học tăng 2,7 lần . Năm học 1997 - 1998
con số đào tạo bậc Đại học của chúng ta đạt ở mức 194.499 người, với mức
25,35 sinh viên bậc Đại học lượng chính quy tên 1 vạn dân, và 74 sinh viên (cả
chính quy và không chính quy bậc Đại học - Cao đẳng) trên 1 vạn dân trong
năm 1996. Trong khi đó, số lượng này chỉ đạt 11,5 người và 29 người trong năm
1992.
Bên cạnh những thành tựu đã làm được, trong hệ thống giáo dục bậc Đại
học còn một số hạn chế.
* Sự mất cân đối trong cơ cấu sinh viên đào tạo bậc Đại học đang xảy ra.
Nhận định về vấn đề này, văn kiện Hội nghị lần thứ hai - Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII có nêu : "Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội, cơ
cấu vùng của đội ngũ sinh viên, học sinh các trường Đại học có sự chưa hợp lý".
Cụ thể, lượng sinh viên trong các khối trường kinh tế - luạt, ngoại ngữ tăng
nhanh ồ ạt, trong khi đó lượng sinh viên theo học các khối trường Sư phạm,
khoa học cơ bản, nông lân ngũ nghiệp hàng năm tăng chậm gây ra hiện tượng
2
NGUYỄN QUANG HỌC KTPT 37A–

cơ cấu sinh viên của các khối trường kinh tế - luật chiếm tỷ trọng cao và các
khối trường khác thì ngược lại.
* Tỷ trọng đào tạo bậc Đại học không cần xứng với các cấp đào tạo khác.
Cơ cấu đào tạo lực lượng lao động có trình độ của ta theo cơ cấu Đại học - Cao
đẳng /Trung học chuyên nghiệp/Công nhân kỹ thuật đi theo hình tháp ngược.
Quy mô đào tạo bậc Đại học trong cơ cấu chiếm tỷ lệ cao, trong khi lực lượng
tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật là ít. Trong các năm
1995 - 1996 cơ cấu lao động có trình độ phân theo tiêu thức Đại học - Cao đẳng
/Trung học chuyên nghiệp/ Công nhân kỹ thuật của ta là 1/1,61/4,3 và trong
năm 1997 thì cơ cấu này là 1/1,33/4,17. Cơ cấu lao động của ta so với mức
chuẩn về cơ cấu lao động được đào tạo của các nước phát triển là 1/4/10 thì
chúng ta thừa một lượng lớn cán bộ bậc Đại học trong cơ cấu lao động qua đào
tạo và thiếu trầm trọng người trực tiếp làm việc. Sự mất cân đối trong cơ cấu
lao động qua đào tạo của chúng ta vẫn tồn tại mà việc giải quyết nó còn gặp
nhiều vấn đề, trong khi đó khối lượng theo học bậc Đại học của chúng ta ngày
càng tăng mạnh so với các bậc đào tạo khác : Ví dụ năm 1997 số lượng đào tạo
bậc Đại học chính quy và không chính quy là 716,8 ngàn người (xấp xỉ 195
ngàn sinh viên hệ chính quy), và lượng trung học chuyên nghiệp chỉ đạt 75,8
ngàn người.
Vậy để thực sự phát huy vai trò của hệ thống giáo dục bậc Đại học trong
sự nghiệp phát triển nền kinh tế thì việc điều chỉnh và xây dựng một cơ cấu sinh
viên đào tạo bậc Đại học hợp lý với các cấp đào tạo lao động khác, và trong
chính bản thân nó là một vấn đề quan trọng.
I - CƠ CẤU SINH VIÊN PHÂN THEO KHỐI TRƯỜNG HỌC :
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước và chiến lược phát triển đất nước theo hướng Công nghiệp hoá -
3
NGUYỄN QUANG HỌC KTPT 37A–
hiện đại hoá đã tác động mạnh mẽ đến cơ cấu ngành nghề trong các nhóm
trường đào tạo và cơ cấu sinh viên trong các nhóm trường đó. Nhiều khối

trường có lĩnh vực đào tạo mới có nhu cầu phát triển như tin học, điện tử viễn
thông, quản trị kinh doanh v.v thu hút một số lượng lớn sinh viên theo học.
Trong khi đó một số khối trường với các lĩnh vực đào tạo ngành nghề truyền
thống, những ngành có tính tương tự cao hơn trong các lĩnh vực sản xuất về
chuyên môn có thể thu hẹp dần hoặc xát nhập với các trường khác có cùng
nhóm ngành để nâng cao tính hiệu quả trong giáo dục đào tạo.
"Danh mục các ngành đào tạo" thuộc bậc Đại học nước ta ban hành theo
quyết định số 2301/QĐ 213 ngày 22/12/1990 của Bộ Giáo dục Đào tạo có tầm
quan trọng đặc biệt trong việc định hướng đào tạo ở bậc học này, quyết định cho
phép các trường mở những ngành nghề cụ thể trong phạm vi khung 127 ngành
thuộc 37 nhóm ngành. Theo tài liệu thống kê, Việt nam có 64 trường Đại học,
và hơn 70 trường Cao đẳng, và hệ thống đào tạo bậc Đại học theo 37 nhóm
ngành mà Bộ quy định được phân theo 7 nhóm trường khác nhau :
Bảng 1 : Nhóm trường Đại học của Việt nam
STT Tên nhóm trường
1
2
3
4
5
6
7
Kỹ thuật công nghệ
Khoa học cơ bản - Ngoại ngữ
Nông lâm ngư nghiệp
Kinh tế - Luật
Y tế - thể thao
Văn hoá - nghệ thuật
Sư phạm
(Nguồn - Viện chiến lược - Bộ kế hoạch đầu tư )

Ngoài 7 nhóm trường thì trong số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học
còn có số lượng sinh viên đào tạo trong khối Quân đội an ninh.
Nhận định về các phân loại này ta thấy nó mang tính tổng quát vì trong
thực tế cách phân định chưa phân loại được hoàn toàn về tính chất của các
nhóm ngành trong các trường : Ví dụ khối ngành kinh tế thì xét trong một số
trường khoa học kỹ thuật như Giao thông, Xây dựng nhóm ngành đó là có. Nếu
xếp trong khối kinh tế thì không phù hợp vì 80% nội dung học là liên quan đến
giao thông, xây dựng do đó đặt nó trong khối trường Giao thông và Xây dựng.
4
NGUYỄN QUANG HỌC KTPT 37A–
Bảng 2 : Số lượng sinh viên chính quy đào tạo bậc Đại học giai đoạn từ năm học 1993 - 1994 đến 1997 - 1998
Nguồn - Số liệu thống kê Đại học - Bộ giáo dục đào tạo
STT Khối trường
1993 - 1994 1994 - 1995 1995 - 1996 1996 - 1997 1997 - 1998
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)

Số lượng
(người)
Tỷ lệ
(%)
1 Kỹ thuật công nghiệp 29344 31,007 28834 27,577 37062 28,788 43955 28.944 57789 29,711
2 Khoa học cơ bản - Ngoại ngữ 10538 11,135 13908 13302 18265 14,188 23375 15.392 31684 16,29
3 Nông lâm - ngư nghiệp 9701 10,251 11391 10,894 10861 8,436 13744 9.05 16596 8,553
4 Kinh tế – Luật 19537 20,644 24003 22,957 33087 25,7 32641 21.494 41625 21,401
5 Y tế - Thể thao 11706 12,369 10709 10,242 11055 8,587 11376 7.491 12068 6,205
6 Văn hoá - nghệ thuật 2683 2,835 3267 3,125 2538 1,971 2881 1.897 3220 1,655
7 Sư phạm 11024 11,649 12361 11,822 15775 12,253 23795 15.669 31391 16,139
8 Quân đội - An ninh 103 1,08.10
-3
85 0,081 96 0,075 93 0,061 126 0,065
Cả nước 94636 100 104558 100 128739 100 151860 100 194499 100
5
* Qua số liệu thống kê của Bộ Giáo dục - Đào tạo về lượng sinh viên đào
tạo chính quy bậc Đại học qua các năm học 1993 - 1994 đến năm học 1997-
1998,số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học đã có sự tăng cao. Với con số tuyệt
đối, tổng sinh viên đào tạo chính quy trong 7 khối trường (chủ yếu) tăng gấp 2
lần và ở mức xấp xỉ 100 ngàn người (99863 người) trong giai đoạn từ năm học
1993 - 1994 đến năm học 1997 - 1998. Số lượng của một số khối trường tăng
cao như Sư phạm tăng 2,87 lần, Kinh tế - luật tăng 2,13 lần, Kỹ thuật công
nghiệp tăng 1,969 lần. Kết quả đào tạo đó cho thấy.
- Sự đáp ứng của hệ thống giáo dục bậc Đại học với yêu cầu về lao động
có trình độ kỹ thuật, quản lý cao của nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại. Nó thể
hiện ở sự tăng cao của sinh viên trong khối Kinh tế - luật, Kỹ thuật công nghiệp.
Nền kinh tế mở cửa, hợp tác đầu tư với nước ngoài đã thu hút một lượng lớn các
công ty và tổ chức nước ngoài liên kết và hợp tác làm ăn với chúng ta. Điều đó
làm cho nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật cao tăng lên nhằm đáp

ứng yêu câù về trình độ trong việc sử dụng các thiết bị máy móc có liên quan, do
đó nó làm cho số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học trong khối trường Kỹ
thuật công nghiệp tăng cao. Số lượng sinh viên đào tạo của khối trường này
trong năm học 1993 - 1994 chỉ là 29344 người thì đến năm 1997 - 1998 con số
đó lên đến 57789 người. Trong đó, số lượng sinh viên đào tạo trong các nhóm
ngành công nghệ mới như tin học, điện tử, bưu chính viễn thông v.v tăng cao
hàng năm trong tổng số sinh viên của khối trường. Về quản lý kinh tế, nhu cầu
về lực lượng cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao cũng đã được đáp ứng
phần nào với sự tăng lên của số lượng sinh viên đào tạo của khối trường này,
Trong năm học 1993 - 1994, số lượng sinh viên trong khối kinh tế - luật là
19537 người thi đến năm học 1997 - 1998 con số đó lên đến 41625 người. Điều
đó cho thấy sự đáp ứng nhu cầu về nhân lực qua đào tạo bậc Đại học của giáo
dục bậc Đại học thông qua sự chuyển hướng sang đào tạo mạnh nguồn nhân lực
mà thị trường lao động cần.
7
- Số lượng sinh viên đào tạo tăng lên cũng phản ánh một phần sự tăng
một cách có chiều sâu trong trình độ dân trí của người dân. Vì trong khoảng thời
gian trước trong quan niệm học của các cái nhân là để biết đọc, viết theo nghĩa
thông dụng liên quan đến cuộc sống hàng ngày chứ không nhất thiết phải học
cao. Do đó, trình độ dân trí của chúng ta vẫn ở mức thấp. Sự tăng lên của số
lượng sinh viên làm cho tỷ lệ sinh viên trên một tiêu thức dân số tăng lên, làm
cho sự nhận thức của người dân tăng lên thông qua sự tác động trực tiếp và gián
tiếp của lực lượng có trình độ Đại học này.
- Sự tăng lên của khối lượng sinh viên trong hệ thống cũng thể hiện vai
trò của các yếu tố mang tính chất chủ định của Nhà nước nhằm khắc phục các
yếu tố khách quan cản trở người học. Sự tăng trưởng cao của số lượng sinh viên
cũng phản ánh sự hiệu quả của các chương trình xã hội liên quan đến giáo dục
như xã hội hoá giáo dục, mở rộng giáo dục đào tạo bậc Đại học.
* Tỷ lệ tăng liên hoàn của số lượng sinh viên qua các năm luôn ở mức
cao. Điều đó góp phần tạo sự cân đối giữa tốc độ tăng nguồn nhân lực qua đào

tạo với tấc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bảng 3 : Tốc độ tăng tỷ lệ sinh viên chính quy
đào tạo bậc Đại học qua các năm
STT Năm học Số lượng
1000 người
Tỷ lệ tăng Liên
hoàn (%)
Tốc độ tăng GDP
(%)
1
2
3
4
5
1993
1994
1995
1996
1997
94,663
104,558
128,739
151,860
194,499
-
10,48
23,13
17,96
8,08
8,07

8,84
9,5
9,34
8,15
(Nguồn:Niên giám thống kê năm 1997
9
Số liệu thống kê Bộ Đại học )
* Cách tính tốc độ tăng liên hoàn
Pt - P(t-1)
t=
P(t-1)
Trong đó :
t : là tốc độ tăng liên hoàn (%)
Pt : là số lượng sinh viên năm t (người).
P(t-1) : là số lượng sinh viên năm t -1 (người).
Tốc độ tăng liên hoàn của số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học tăng
khá cao thúc đẩy sự tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo của chúng ta hàng năm trong
việc đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Theo FM Harbison, tốc độ tăng nhu cầu
lao động có kỹ thuật phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP). Trong một
thời gian dài tốc độ tăng việc làm của lao động qua đào tạo thường bằng 2 - 3
lần tốc độ của GDP. Trong giai đoạn 1991 - 1995 và 1996 - 2000 tới với ước tính
tốc độ tang trưởng đạt mức tăng trưởng đạt 8,2% và 7% vậy yêu cầu đặt ra tốc
độ tăng nguồn nhân lực qua đào tạo phải đạt mức tăng trưởng từ 16,5 đến
24%/năm và 14 - 21%/năm. Trong khi đó nguồn nhân lực đã qua đào tạo trong
các giai đoạn trên của chúng ta chỉ đạt mức tăng trưởng 4,45% và 8,4%/năm và
chủ yếu là số lượng bậc Đại học. Vậy số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học đã
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng nguồn nhân lực qua đào tạo của
chúng ta.
Bên cạnh, tốc độ tăng chung của lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học
nhằm thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực qua đào tạo cho phù hợp với tốc

độ tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế thì tốc độ tăng nguồn nhân lực qua đào
tạo trong một số khối trường không có sự cân đối một cách liên tục và chưa phù
hợp với tốc độ tăng của nhóm ngành mà nó liên quan. Ví dụ đối với nhóm ngành
công nghiệp trong giai đoạn 1993 đến 1997 tấc độ tăng GDP của ngành qua các
11
năm là : 13,13% ; 14,02% ; 13,3% ; 13,85% ; 13,07%. Trong khi đó tốc độ tăng
liên hoàn qua các năm của khối trường khoa học kỹ thuật tính từ năm học 1993 -
1994 dến năm học 1997 - 1998 là - 1,7% ; 28,4% ; 18,6% ; 31,7%. Tốc độ tăng
không đều qua các năm, đặc biệt trong năm học 1993 - 1994 tốc độ đó là âm.
Mặt khác cơ cấu lao động kỹ thuật qua đào tạo của chúng ta luôn có tỷ trọng cao
của đào tạo bậc Đại học nên sự tăng trưởng của nó chủ yếu dựa vào sự tăng
trưởng của số lượng đào tạo bậc Đại học. Theo FM Harbison thì tốc độ tăng
nguồn nhân lực qua đào tạo của khối ngành này phải đạt từ 26,26% đến 39,39%
trong năm 1993. Vậy cơ cấu đào tạo của khối trường Kỹ thuật công nghiệp thực
sự chưa cân đối với yêu cầu thực tế của ngành liên quan.
Cơ cấu đào tạo bậc Đại học của các khối trường đã tạo điều kiện cho việc
phát triển nguồn nhân lực qua đào tạo của đất nước, nhưng cơ cấu đó vẫn còn
tồn tại một số yếu tố hạn chế. Tỷ trọng của cơ cấu sinh viên giữa các khối truờng
chưa phù hợp với yêu cầu thực tế về cơ cấu nguồn nhân lực có trình độ cao của
các ngành.
Bảng 4 : Biểu đồ tỷ trọng cơ cấu sinh viên các khối trường qua các năm
Sự chưa phù hợp đó thể hiện qua một số nhóm trường như Nông lâm ngư
nghiệp, Khoa học cơ bản, Kinh tế - Luật. Trong điều kiện hiện tại của nước ta và
trong thời gian tới ,vai trò của nông nghiệp và các ngành lâm, ngư nghiệp vẫn
chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển nền kinh tế, vì số lượng dân số ở
vùng nông thôn chiếm 80% và lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
xấp xỉ 72% lực lượng lao động của cả nước. Nhưng cơ cấu đào tạo đội ngũ có
trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực này lại chiếm tỷ trọng không cao. Số
lượng sinh viên đào tạo trong khối trường Nônglâm ngư nghiệp trong năm học
1993 - 1994 chỉ đạt 9701 người trong tổng số 94.636 sinh viên của cả nước, đến

năm học 1997 - 1998 con số đó cũng chỉ đạt 16596 người trong tổng 194.499
người. Số lượng đào tạo đó làm cho tỷ trọng của cơ cấu sinh viên đào tạo trong
khối trường này chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn hệ thống.Trong thực tế số liệu
13
điều tra, lực lượng lao động có trình độ trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm
5,06% lực lượng lao động có trình độ của cả nước. Trong năm 1997, theo số liệu
điều tra của Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển nông thôn - Trường Đại học
kinh tế quôc dân Hà Nội tại 8 tỉnh đại diện thì mỗi tỉnh số lượng cán bộ có trình
độ đại học trong lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp mà Sở quản lý chỉ có 35
người.Mặt khác nhu cầu về nguồn lao động có trình độ bậc Đại học của mỗi Sở
nông nghiệp này là trên 50 người. Bên cạnh đó, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp ở
các tỉnh thì có sự thiếu hụt lớn đội ngũ lao động kỹ thuật ở cấp đào tạo trung học
chuyên nghiệp , trung cấp theo số liệu điều tra thì số lượng đối tượng này hầu
như không có. Điều đó gây ra tình trạng thiếu hụt đội ngũ lao động có trình độ
đại học và các cán bộ có trình độ kỹ thuật trong thực tế,ảnh hưởng đến việc xây
dụng và thực hiên các chỉ tiêu nâng cao chất lượng, sản lượng sản xuất và xuất
khẩu lương thực.
Yếu tố khách quan thị trường tác động đến việc hình thành cơ cấu sinh
viên của các khối trường, gây ra tính không hiệu quả trong công tác đào tạo sử
dụng lượng sinh viên tốt nghiệp của các khối trường. Với định hướng đi học là
kiếm một việc làm ổn định nhằm đảm bảo về điều kiện sống, thu thập, điều kiện
thăng tiến trong xã hội thì việc lựa chọn những khối trường có độ hấp dẫn cao là
điều tất yếu. Sự lựa chọn đó đã tác động đến nguồn đầu vào trong khối trường
này, làm cho cơ cấu đào tạo có sự chênh lệch khá cao so với các khối trường
khác.Những khối trường có số sinh viên theo học ngày càng cao và luôn chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu đào tạo là Kinh tế - Luật. Trong thời gian qua, khả
năng tìm kiếm việc làm và mức thu nhập đối với sinh viên tốt nghiệp thuộc khối
trường này là cao nên đã thu hút một số lớn sinh viên theo học. Trong năm học
1993 - 1994 con só đào tạo của khối trường này là 19537 người thì đến năm học
1997 - 1998 con số đó lên đến 41.625 người, và con số tốt nghiệp ở khối trường

này ở mức gần 10.000 người một năm. Số lượng sinh viên đào tạo tăng cao và
lượng tố nghiệp hàng năm lớn sẽ có thể dẫn đến hiện tượng dư thừa cao trong
khoảng thời gian tới và dư thừa mang tính cục bộ, làm trái ngành nghề chuyên
15
môn đã được đào tạo. Một số lớn sinh viên kinh tế tốt nghiệp nay làm không
đúng các ngành nghề của mình như các công việc tiếp thị, bán hàng, trực văn
phòng hay đánh máy thuê v.v. Với khối ngành luật trong thời gian qua con số tốt
nghiệp hàng năm luôn ở mức cao từ 2000 - 3000 sinh viên, nhưng con số thất
nghiệp trong mấy năm gần đây cũng luôn ở mức cao khoảng 1000 sinh viên
(con số thống kê 1997 của Viện chiến lược). Họ phải làm các công việc như gia
sư, bán hàng, tiếp thị v.v. Trong khi đó, hàng năm chúng ta phải chi lượng lớn
ngân sách Nhà nước để đào tạo lại đội ngũ các cán bộ luật cho thích ứng với
những khuôn khổ luật pháp mới trong điều kiện hội nhập nền kinh tế. Một số
lượng lớn sinh viên đào tạo trong khối trường nhưng mức độ hiểu biết luật pháp
trong dân chũng cũng chưa cao, ngay cả với các đối tượng mà các điều luật gắn
với quyền lợi của họ thì cũng chiếm một số ít. Theo số liệu điều tra của Viện
chiến lược-Bộ Kế hoạch-Đầu tư về mức độ hiểu biết luật của các cán bộ quản lý
kinh tế của chúng ta thì thấy : Chỉ có 25% chủ doanh nghiệp biết luật công ty và
luật doanh nghiệp, 44% biết các luật thuế, 25 biết luật lao động, 22% biết luật
phá sản, có 8% biết luật đầu tư và 60%không biết luật này. Điều đó gây nên tính
không hiệu quả trong cơ cấu đào tạo với việc sử dụng nó.
Bên cạnh những khối trường số lượng sinh viên đào tạo tốt nghiệp dư
thừa và phải làm những công việc trái ngành thì một số khối ngành liên quan
đến các khối trường độ ngũ kế cận thiếu hụt nghiêm trọng. Điều đó thể hiện
trong khối trường Khoa học cơ bản. Theo số liệu thống kê của Bộ Khoa học
công nghệ- môi trường về tỷ lệ cán bộ khoa học cơ bản có mặt đến ngày 1 - 7 -
1995 thì con số ra đi chiếm 12% trong khi đó nguồn đầu vào chỉ chiếm 8,5%
lượng cán bộ đang công tác. Vậy sự chênh lệch giữa nguồn đầu vào và lượng về
hưu hay chuyển ngành v.v là khá cao 3,5% trong 1 năm. Một mặt khác, con số
đào tạo đội ngũ kế cận của khối trường tăng châm qua các năm. Theo số liệu

thống kê qua các năm học 1993 - 1994 con số đào tạo là 7560 người và đến năm
học 1997-1998 con số đó là 14970 người , chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
17
được yêu cầu chỉ đạt ở mức thấp không tương xứng với yêu cầu về trình độ của
nhà khoa học cơ bản trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Cơ cấu đào tạo bậc Đại học của chúng ta so với các cấp đào tạo lao động
kỹ thuật khác như Trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật luôn chiếm tỷ
trọng cao nó đi ngược lại với xu hướng chuẩn. Nhưng so với các nước khác
trong khu vực thì cơ cấu đào tạo và số lượng đào tạo qúa nhỏ không tương ứng
với đièu kiện phát triển của đất nước.
Bảng 5 : Số lượng sinh viên đào tạo bậc Đại học của
Việt nam trên 1 vạn dân
STT
Năm
Các chỉ tiêu
1993 1994 1995 1996 1997
1 Số sinh viên đại học
(1000 người)
94,636 104,558 128,739 151,86 194,499
2 Dân số (1000 người) 71.025,6 72.509,5 73.962,4 75.355,2 76.709,6
3 Số sinh viên đạo tạo bậc Đại
học/1vạn dân (người)
13,32 14,42 17,41 20,15 25,35
4 Số sinh viên trên 1 vạn dân (*) 33 45 55 74 -
(Nguồn : Số liệu thống kê Đại học Bộ giáo dục, Niên giám thống kê năm
1997)
(*) Cả lượng chính quy và không chính quy bậc Đại học - Cao đẳng
Bảng 6 : Số lượng sinh viên trên 1 vạn dân của một số nước
STT Năm Malaysia Inđônêxia Thái Lan Phillipin Hàn Quốc
1 1993 68 100 203 281 425

2 1994 85 103 203 270 476
3 1995 88 103 210 271 493
4 1996 92 107 210 271 522
(Nguồn Statistical Yearbook 1996 - UNESCO
World Development Report 1995 - 1997)
19

×