Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.36 KB, 9 trang )

16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

THƠ TỐNG BIỆT NGUYỄN QUANG BÍCH
Hán Thị Thu Hiền
Trường Đại học Hùng Vương
Tóm tắt: Nguyễn Quang Bích có 7 bài thơ tống biệt. Hình tượng nhân vật trữ tình trong
thơ tống biệt của ơng vừa mang ý thức con người phận vị nhưng vừa mang cảm xúc của
con người cá nhân với những nỗi buồn thương lưu luyến khi chia biệt. Không gian trong
thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích là khơng gian thực của núi rừng Tây Bắc buồn, hoang
vắng và ẩn chứa nhiều bất trắc. Thơ tống biệt của ơng cịn thể hiện tính kỷ sự rõ nét qua
hệ thống lời dẫn và chú. Điển cố sử dụng ít nhưng linh hoạt phản ánh được những vấn đề mang
tính thời sự. Thể thơ đa dạng, ngồi thơ bát cú có cả thơ ngũ ngơn tứ tuyệt và bài luật.
Từ khóa: Thơ tống biệt, Nguyễn Quang Bích, Ngư Phong thi tập.
Nhận bài ngày 28.1.2022; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 25.3.2022
Liên hệ tác giả: Hán Thị Thu Hiền; Email:

1. MỞ ĐẦU
Thơ tống biệt là một thể tài tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Nếu như giai đoạn
thế kỷ X – XVII phần lớn là những bài thơ tiễn tặng sứ giả thì giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX
chủ yếu là những bài thơ tống biệt bạn bè, trong đó nửa cuối thế kỷ XIX, mảng sáng tác này
mang màu sắc đặc biệt bởi gắn liền với nhiều cuộc tiễn biệt liên quan đến các phong trào
yêu nước chống Pháp như thơ tống biệt Phạm Văn Nghị [1], Đào Tấn [2], Lã Xuân Oai [3]…
trong đó thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích là một ví dụ tiêu biểu. Khảo sát 97 bài thơ của
ông trong hai cuốn Thơ văn Nguyễn Quang Bích [4] và Đình Ngun Hồng Giáp Ngư Phong
Nguyễn Quang Bích [5] chúng tơi thống kê được 7 bài thơ tống biệt. Mặc dù số lượng không
nhiều nhưng những tác phẩm mang dấu ấn riêng khá đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến hiện tại,
những nghiên cứu về thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích rất khiêm tốn, chủ yếu mới chỉ dừng
lại ở một số nhận xét lẻ tẻ. Bài viết của chúng tôi trên cơ sở thống kê khảo sát các tác phẩm
thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích sẽ tập trung chỉ ra được những đặc điểm xây dựng hình


tượng nhân vật trữ tình, khơng gian tống biệt, tính kỷ sự, ngơn ngữ và thể loại thơ tống biệt
của ơng.

2. NỢI DUNG
Nguyễn Quang Bích (1832 – 1890) là một trong những nhà thơ yêu nước tiêu biểu của
giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Ơng họ Ngơ, hiệu Ngư Phong, quê quán làng Trình Phổ, huyện
Trực Định, phủ Kiến Xương (tỉnh Nam Định cũ), nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh Tiền
Hải, Thái Bình. Ông đỗ tú tài năm 1858, đỗ Đình nguyên Hoàng giáp năm 1869. Ông giữ


TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022

17

nhiều chức vụ như tri phủ Diên Khánh, tri phủ Lâm Thao,… Trong giai đoạn cuối của thế
kỷ XIX, khi rất nhiều quan lại chủ hịa, Nguyễn Quang Bích cùng một số chiến hữu vẫn tập
hợp lực lượng đứng lên chống Pháp. Ông từng được vua Hàm Nghi giao toàn quyền tổ chức
lực lượng kháng Pháp ở miền Bắc. Ông đã xây dựng căn cứ địa tại Nghĩa Lộ. Ban đầu nghĩa
quân rất mạnh nhưng do sự càn quét của Pháp nên yếu dần và phải lui vào trú ẩn trong rừng
sâu. Nguyễn Quang Bích sức khỏe giảm sút và mất khi đang chuẩn bị một cuộc tấn công
lớn. Sáng tác của ông được sưu tầm lại trong Ngư Phong thi tập. Một số nhà nghiên cứu cho
rằng tác phẩm gờm có ba phần nhưng hai phần đầu đã thất lạc [5, 13]. Phần cịn lại hiện nay
chủ yếu được Nguyễn Quang Bích sáng tác khi ông cùng nghĩa quân trú ở Tây Bắc (khoảng
từ 1885 – 1889).
Theo PGS.TS. Vũ Thanh [6] nội dung tập thơ có thể chia làm bốn phần trong đó có một
phần là những bài thơ tặng tiễn. Trong 7 bài thơ tống biệt của Nguyễn Quang Bích mà chúng
tơi khảo sát được, đối tượng đưa tiễn đều là bạn bè. Có 2/7 bài tống biệt khơng rõ tên nhân
vật đưa tiễn là bài Tống quy nhân, Tống quy nhân cảm tác. 5/7 bài còn lại tương đối rõ về
đối tượng tiễn, lý do đưa tiễn. Bài Tiễn Chu Thiết Nhai và Họa Thiết Nhai lưu giản nguyên
vận Nguyễn Quang Bích dành tiễn một người bạn thân của mình, người tỉnh Hồ Nam, Trung

Quốc tên là Chu Thiết Nhai – người đã giúp đỡ nhiều cho phong trào Cần Vương. Bài Tiễn
Nguyễn Tốn Hồng tiễn ơng Nguyễn Tốn Hồng, tri huyện Thanh Sơn (người Hà Tĩnh) theo
ông đánh Pháp, sau đó xin về q vì có mẹ già. Bài Tiễn Ninh Bình Nguyễn tán tương hồi
Nam tiễn ơng Nguyễn Tử Ngơn, người Gia Viễn, Ninh Bình. Nguyễn Quang Bích cử ông
trở về quê để tập hợp lực lượng ở Nam Định và Ninh Bình. Bài Tiễn Nguyễn Tán Tương Khê
Ơng như Vân Nam khất sư tiễn ông Nguyễn Hội, người Sơn Tây, một trong những người
phụng mệnh theo Nguyễn Quang Bích đi sứ. Đặc điểm thơ tống biệt của Nguyễn Quang
Bích thể hiện trên một số phương diện nổi bật trong cách xây dựng hình tượng nhân vật trữ
tình, trong nghệ thuật thể hiện như khơng gian tống biệt, tính kỷ sự, cách sử dụng ngơn ngữ,
thể loại.
2.1. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích
Nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích biểu hiện trên hai khía cạnh
con người chức năng, phận vị và con người cá nhân. Là một trong những người thuộc phe
chủ chiến, quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để tiêu diệt kẻ thù. Việc ông quyết tâm tập
hợp lực lượng tham gia khởi nghĩa khi cuộc chiến đã ở giai đoạn thoái trào cũng như cả khi
sức lực suy yếu vẫn lên kế hoạch tấn công giặc là minh chứng rõ nét cho ý thức về phận vị
của nhà nho chân chính. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc đã từng nhận xét về Nguyễn Quang
Bích: “Ơng chiến đấu dường như trước hết là vì phận sự của một bề tôi đối với vua, là danh
dự của một nho sĩ trước thiên hạ. Chống giặc là để tỏ rõ khí tiết khơng sợ giặc của mình” [7,
704]. Một số bài thơ tống biệt của ông thể hiện rất rõ ý chí đó. Trong bài Tiễn Ninh Bình
Nguyễn Tán Tương hồi Nam ông viết:
Như kim ý khí tương kỳ xứ
Quỷ ác hoàn tu tận lực trừ
(Ngày nay ý khí ước hẹn nhau ở chỗ


18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI


Cần đem hết sức mình diệt lồi quỷ ác).
Ơng ý thức đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, lên trên sinh
mạng của chính mình. Ơng hay nói tới cái nợ của kẻ sĩ đối với đất nước, khẳng định và nhấn
mạnh ý thức về ơn nước, nghĩa vụ báo đền với đất nước:
Vị hữu quyên ai năng báo quốc
Khả kham bơn thốn cận tồn thân
(Ơn nước báo đền chưa được mảy may
Sao đành lẩn lút để bảo tồn riêng lấy thân mình)
(Tống quy nhân, cảm tác)
Qun ai vị bảo gia hà hữu
(Nợ nước chưa báo đền mảy may, nói gì đến nhà).
(Tống quy nhân).
Bên cạnh ý thức về phận vị của kẻ sĩ, thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích cịn cho thấy
hình ảnh nhân vật trữ tình với những xúc cảm riêng tư, cá nhân. Nguyễn Lộc cho rằng
Nguyễn Quang Bích là người thích nói về những nỗi buồn hơn là niềm vui, đặc biệt khi
“…về sau phong trào thất bại nhiều, nhà thơ đau ốm liên miên thì cái b̀n, cái bi quan lại
càng nặng nề, ảm đạm. Nhà thơ đắm say trong nỗi buồn, nỗi mộng, thiếu sự tin tưởng ở cuộc
chiến đấu, mơ ước một sự an nhàn và tin vào số mệnh” [7, 702].
Những bài thơ tống biệt của Nguyễn Quang Bích có lẽ phần lớn được sáng tác trong
những khoảng thời gian cuối của cuộc kháng chiến nên trong nhiều cuộc tống biệt, bên cạnh
nỗi b̀n tiễn biệt cịn chất chứa cả nỗi b̀n vì sự cuộc ngổn ngang. Vì thế nhân vật trữ tình
trong nhiều bài thơ tống biệt của ông luôn thể hiện tâm trạng buồn bã, chán nản. Tiễn ông
Tán Tương họ Nguyễn, nhớ những ngày cùng nhau trải qua những gian nan rau cháo cùng
nhau khiến ông không khỏi nghẹn ngào mà bày tỏ nỗi niềm độc thê như (lịng ta riêng b̀n):
Ly câu tạm xướng đợc thê như.
(Tạm xướng khúc ly ca, khiến lòng ta riêng b̀n).
(Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tương hồi Nam).
Nhiều khi nỗi buồn thẳm sâu, tăng lên gấp bội, trải rộng khắp khơng gian núi rùng Tây
Bắc ngút ngàn. Hình ảnh ơng đứng một mình trong rừng chiều cùng với tiếng chim cuốc kêu
khắc khoải gợi cảm giác con người đơn độc đến tột cùng:

Quy nhân dao tống sầu thiêm bội
Độc lập tà dương thính đỗ quyên
(Xa tiễn người về, mối sầu tăng gấp bội
Đứng một mình trong ánh chiều nghe chim cuốc kêu).
(Tống quy nhân)
Nhân vật trữ tình trong thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích cịn thể hiện những cảm xúc
chân thành, xúc động đối với những người bạn đồng tâm thân thiết. Như trên đã khảo sát,


TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022

19

phần lớn thơ tống biệt của Nguyễn Quang Bích dành tiễn những người bạn đã đồng cam cộng
khổ cùng ông trong sự nghiệp cứu quốc. Có lẽ vì thế tình cảm khi chia biệt khiến người ở lại
vơ cùng bịn rịn, lưu luyến. Ơng thể hiện trực diện cảm xúc nhớ thương với người ra đi:
Ly gia kỷ tải bội tư thân
Khiển quyển quy lai tự tống nhân
(Lìa nhà mấy năm càng thêm nhớ người thân
Khi tiễn người về, tình quyến luyến khơng nỡ rời).
(Tống quy nhân, cảm tác)
PGS.TS Vũ Thanh còn nhận ra điểm rất đặc biệt trong nhiều cuộc tiễn biệt của Nguyễn
Quang Bích đó là có những cuộc chia ly đầy thương nhớ ln biết trước sẽ khơng có ngày
gặp lại [6, 65]. Tống biệt nhưng thực ra là vĩnh biệt, là rời xa mãi mãi. Vì thế xúc cảm chia
ly mang ý vị vơ cùng đặc biệt. Nó ám ảnh và day dứt khơn ngi với người ở lại vì biết rằng
trong suốt cuộc đời cịn lại sẽ khơng cịn được gặp nhau. Cuộc chia tay với ông Nguyễn Tán
Tương là một trong những cuộc chia ly như vậy. Một thời gian sau cuộc tống tiễn, Nguyễn
Tán Tương mất. Là người trong cuộc, có lẽ Nguyễn Quang Bích hiểu hơn bao giờ hết tình
cảnh thực tế của mình và chiến hữu. Vì thế, cuộc chia ly khơng phải chỉ làm con người buồn
thương tiếc nhớ mà trở thành nỗi đau sâu thẳm tâm can:

Trường đoạn linh nhân nhật kỷ hồi.
(Khiến người ngày mấy lần ruột đau như cắt).
(Tiễn Nguyễn Tán Tương khê ông như Vân Nam khất sư).
2.2. Nghệ thuật thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích
Khơng gian tống biệt
Nhiều nhà nghiên cứu đều khẳng định Nguyễn Quang Bích là một trong những tác giả
đầu tiên sống, chiến đấu và sáng tác giữa núi rừng Tây Bắc. Không gian Tây Bắc trong thơ
ơng được thể hiện với sự “…phá vỡ tính quy phạm trong việc lựa chọn thi liệu của thơ ca
trung đại, hình thành những biểu tượng nghệ thuật mới, thể hiện sự gắn bó thật sự với cuộc
sống, rút dần khoảng cách giữa thi ca và cuộc đời” [6, 59]. Nguyễn Quang Bích cũng là người
đầu tiên mang đến cho thơ ca tống biệt trung đại Việt Nam một không gian tống biệt đậm
chất hiện thực và rất riêng. Đó khơng phải là kiểu khơng gian chia tay truyền thống trên
những bến sơng, dịng sơng hay khơng gian chia biệt ở những trường đình, đoản đình mang
dấu ấn văn hóa thời trung đại. Đó cũng khơng phải là khơng gian tưởng tượng của người đi
kẻ tiễn mà là miền không gian chân thực của núi rừng Tây Bắc. Trong bài Tống quy nhân
cảm tác Nguyễn Quang Bích bằng một vài nét chấm phá đã giúp người đọc hình dung rõ nét
khung cảnh núi rừng cũng như hoàn cảnh riêng của nhà thơ trong những tháng ngày lui về
Tây Bắc bảo tồn lực lượng và bày mưu tính kế đánh giặc. Bài thơ được ông sáng tác khi
đang rút quân về đóng tại Quế Sơn. Ở đây ơng đã dựng một gian nhà con và cùng ở với vài
người tùy tùng [4, 139]. Không gian núi rừng Tây Bắc hiện lên với âm thanh tiếng dế kêu
trong đêm mùa xuân lạnh lẽo. Bản thân nhà thơ sống lẩn lút và cô lẻ với vài người tùy tùng.


20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Con người nhỏ bé, như hòa lẫn giữa núi rừng:
Thê lương xuân dạ trùng thanh náo
Nê nính hành tung điểu đạo trần

Kết ốc cận dung tam ngũ bộc
Nhất sàng thê tức dữ sơn lân
(Đêm xuân lạnh, tiếng dế kêu rền rĩ
Dấu chân kẻ chinh phu lầy bùn mà lối chim bay mờ bặt
Dựng căn nhà, chỉ vừa ở được dăm ba người tùy tùng
Một giường nằm nghỉ, liền kề với non xanh).
Miền không gian tống biệt trong thơ ơng cịn được hiện lên với sự vắng vẻ, tịch mịch
thậm chí ẩn dấu nhiều nguy hiểm, bất trắc. Bao bọc xung quanh con người chỉ là khói sương
mù mịt và hơi độc của núi rừng. Không gian như rộng mãi thêm làm cho thời gian kéo dài lê
thê. Một ngày mà dài tựa năm. Đặc biệt trong xúc cảm tiễn biệt, người ở lại càng cảm nhận
rõ hơn sự rợn ngợp của không gian núi rừng:
Tịch mịch sơn đầu chướng hựu yên
Mưu sinh vô kế nhật như niên.
(Trên đỉnh núi vắng ngắt, chỉ có khói và hơi lam chướng
Khơng có cách mưu sinh nên ngày dài như năm).
(Tống quy nhân)
Không chỉ đem đến cảm giác vắng vẻ tịch mịch của vùng rừng thiêng nước độc, khơng
gian tống biệt trong thơ ơng cịn thật b̀n. Có âm thanh của tiếng gà rừng nhưng chỉ là “nhất
kê”. Âm thanh ấy hịa lẫn cùng tiếng mưa tí tách càng làm cho lòng người đưa tiễn thêm ủ ê,
não nùng. Xúc cảm li biệt vốn đã buồn, li biệt trong ngày mưa càng làm xúc cảm thêm chan
chứa. Cảm xúc của người ở lại dường như nhuộm buồn cả không gian chia biệt:
Nhất kê lâm dạ xướng
Phong vũ lậu thanh trì
((Thêm) một tiếng gà rừng gáy trong núi
Lại tiếng mưa gió ủ ê).
(Tiễn Nguyễn Tốn Hồng)
Tính kỷ sự
Ngư Phong thi tập được đánh giá là một cuốn Nhật ký kháng chiến [7, 716]. Và điều đặc
biệt là nó chỉ viết về những điều nhà thơ chứng kiến. Tác phẩm cũng được khẳng định “…rất
gần với lối thơ kỷ sự của các nhà nho Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX nhưng lại rất

khác với các nhà thơ khác ở sự tươi mới với thứ ngôn từ tả thực trực tiếp từ những sự kiện
và sự việc của đời sống hàng ngày” [6, 60]. Thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích cũng thể hiện
rõ nét tính kỷ sự ở hệ thống lời dẫn và nguyên chú. 5/7 bài thơ của ơng có chú, trong đó 1 bài
có 2 chú (bài Tiễn Nguyễn Tán Tương Khê Ông như Vân Nam khất sư), 1 bài có cả lời dẫn


TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022

21

và chú (bài Tiễn Chu Thiết Nhai). Số lượng chú, lời dẫn như vậy là khá lớn. Chú và nguyên
dẫn trong thơ Nguyễn Quang Bích có những ý nghĩa khác nhau. Chú có khi làm rõ cho hoàn
cảnh sáng tác bài thơ. Chú trong bài Họa Thiết Nhai lưu giản nguyên vận giúp người đọc
hiểu được tác giả sáng tác bài thơ là do người đi có thơ tặng nên người ở lại họa thơ để tống
biệt: Chuyến đi này tiên sinh lại có thơ gửi tôi. Tôi họa lại để tiễn ông [5, 188].
Cũng có một số chú giới thiệu rõ hơn về nhân vật được đưa tiễn. Bài Tiễn Chu Thiết
Nhai tác giả chú về Chu Thiết Nhai như sau: Ông họ Chu húy là Lăng Thục, tên chữ là Chu
Thiết Nhai, hiệu là Ngọa Hổ, người tỉnh Hồ Nam. Mùa đông năm ngoái, ơng đến ở cùng tơi.
T̉i ngồi 30 là người có học thức, thơ văn rất hay. Ơng chú tâm nghiên cứu môn học kỳ
môn độn giáp (quân sự học), lại có chí kinh ln. Ngài Tán Ơng (Tán Tương Nguyễn Hợi,
hiệu Khê Ơng) trong chuyến đi này muốn cùng ơng dốc sức giúp cơng. Nhưng tới Chiêu Tấn
thì tắc đường không đi được [5, 186]. Nhân vật người được tiễn (ơng Nguyễn Tán Tương)
trong bài Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tương hồi Nam cũng được chú rất cụ thể về họ, tên
húy, gia đình…: Tán Tương họ Nguyễn, húy là Tử Ngôn, vốn là con trai ông Án sát sứ Quảng
Yên. Ông Án sát sứ mất sớm nên ông Tử Ngôn thay cha phụng dưỡng bà nội. Nên chiếu chỉ
nhà vua gọi ông là bậc cháu hiền (Thuận tôn) [5, 251]. Một số nguyên chú giúp người đọc
hiểu rõ hơn về nội dung câu thơ. Hai câu cuối trong bài Tống quy nhân cảm tác tác giả có
viết: Kết ốc cận dung tam ngũ bộc/ Nhất sàng thê tức dữ sơn lân (Dựng căn nhà, chỉ vừa ở
được dăm ba người tùy tùng/ Một giường nằm nghỉ, liền kề với non xanh). Để làm rõ hơn
cho ý thơ, ông đã ghi chú: Hôm ấy tôi lui về ở Quế Sơn, không ở chung với nhà dân mà tạm

làm một căn nhà nhỏ để ở [5, 204]…
Những lời dẫn và ngun chú trong thơ Nguyễn Quang Bích cịn có thêm một ý nghĩa
rất đặc biệt đó là giúp định hướng để độc giả cảm nhận rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả.
Chú trong bài Tiễn Chu Thiết Nhai: Đội ơn Tiên sinh đã không bỏ rơi tôi khi hoạn nạn mà
lại lấy lễ tiếp đãi tôi. Nay lại cịn xót thương tơi chìm đắm mà đưa tay giúp đỡ. Chuyến đi
này, sự sống chết của bản thân cũng như sự tồn vong của quốc gia tơi hồn toàn nằm trong
tay của Tiên sinh. Tình nghĩa thắm thiết khơng thể khơng nói ra lời. Mấy câu khơng dám gọi
là thơ chỉ để tiêu khiển lúc đi đường mà thơi. Từ ngun chú này có thể hiểu bài thơ tiễn như
là sự dồn nén của cảm xúc, như cách tác giả diễn đạt là “khơng thể khơng nói ra lời” [5, 186].
Cảm xúc ấy vừa là sự xúc động, vừa là lòng biết ơn vì sự tiếp đãi, giúp đỡ của người bạn
ngoại quốc. Một đoạn chú trong bài Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tương hồi Nam cũng giúp
người đọc cảm nhận rõ hơn sự lưu luyến, bịn rịn của người tiễn bởi người đi và người tiễn đã
ở cùng nhau lâu, mối thâm tình gắn bó sâu sắc. Đặc biệt hơn, trong hồn cảnh long đong bơn
ba của thời cuộc, cảm xúc này lại càng sâu sắc: …Ở lâu mà từ biệt, từ biệt nhau thì nhớ lâu.
Tình cảm nảy sinh lẽ nào khơng nói ra. Huống hồ trong cảnh long đong bơn ba đây đó, nhìn
quang cảnh sơng núi mây trăng, lẽ nào cầm lịng khi cảnh đẹp, khơi gợi trong lịng người.
Nhân vậy tơi làm ra mấy câu q mùa trình ơng và ơng Tán lý Phạm An Hòa đại nhân [5,
251]. Như vậy những nguyên chú và lời dẫn trong thơ Nguyễn Quang Bích vừa giúp giải
thích rõ hơn về nhân vật đưa tiễn hồn cảnh sáng tác tác phẩm vừa giúp độc giả định hướng
cảm xúc chủ đạo của tác giả khi sáng tác bài thơ. Đây là những chìa khóa quan trọng giúp


22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

cho việc đọc hiểu và phân tích tác phẩm chính xác, sáng rõ. Bên cạnh đó các ngun chú và
lời dẫn cịn có giá trị lịch sử sâu sắc. Nó là minh chứng khẳng định những cuộc tống tiễn của
Nguyễn Quang Bích là có thật, gắn liền với một số sự kiện lịch sử giai đoạn bấy giờ.
Ngôn ngữ và thể loại

Về ngôn ngữ, đáng chú ý nhất là cách sử dụng điển cố. Thơ Nguyễn Quang Bích nói
chung khơng thường dùng điển cố. Thơ tống biệt của ơng về cơ bản cũng ít sử dụng điển cố.
Tuy nhiên nét đặc biệt trong cách sử dụng điển cố trong thơ tống biệt của ông đó là vận dụng
điển linh hoạt để phản ánh được những vấn đề thời sự chân thật và nóng hổi giai đoạn lúc
bấy giờ. Hai câu luận trong bài Tống quy nhân ông dùng điển chẩm qua miên. Điển này nói
về việc Ngũ Hờ đánh chiếm Trung Quốc, tướng nhà Tấn là Lưu Côn kê đầu lên ngọn giáo
suốt đêm không ngủ đợi trời sáng để ra đánh giặc. Sách chữ Hán có câu Chẩm qua đãi đán
có nghĩa là kê đầu lên ngọn giáo đợi trời sáng. Tác giả dùng điển này để thể hiện hoàn cảnh
đầy cam go của cuộc chiến đấu cũng như cách duy nhất ông có thể làm lúc này là ẩn nấp và
chờ đợi thời cơ: Thân thế dĩ cam tùy hóa chuyển, Nghĩa sư do thị chẩm qua miên (Thân thế
đã đành theo con tạo chuyển vần, Nghĩa quân gối giáo đợi đêm qua).
Về thể loại, các bài thơ tống biệt của Nguyễn Quang Bích đều được sáng tác theo thể
thơ Đường luật. Trong đó 5/7 bài thất ngơn bát cú, 1/7 bài ngũ ngôn tứ tuyệt, 1/7 bài Đường
luật trường thiên. Thơ thất ngôn bát cú vốn là loại thơ phổ biến nhất của thơ Đường. 5 bài
thơ tống biệt theo thể thất ngơn bát cú của Nguyễn Quang Bích về cơ bản theo kết cấu và
mạch nội dung cảm xúc thông thường. Đáng chú ý hơn là bài thơ sáng tác theo thể ngũ ngôn
tứ tuyệt và Đường luật trường thiên. Thơ tứ tuyệt dung lượng ngắn nên sự cô đúc câu chữ
khá chọn lọc, cảm xúc cũng theo đó mà dồn nén một cách mạnh mẽ. Cảm xúc tống biệt vốn
dạt dào lại phải cô đúc câu chữ nên tạo thành chiều sâu cảm xúc.
Bài Tiễn Nguyễn Tốn Hoàng được sáng tác theo thể thơ này:
Cửu xử nan vi biệt
Trung tình nhược hữu tư
Nhất kê lâm dạ xướng
Phong vũ lậu thanh trì
(Đã ở bên nhau lâu, lúc chia tay khó rời
Phải xa nhau, lòng đầy thương nhớ
(Thêm) một tiếng gà rừng gáy trong núi
Lại tiếng mưa gió ủ ê).
(Tiễn Nguyễn Tốn Hồng)
Ơng Nguyễn Tốn Hồng khi đang tạm cai quản Hưng Hóa đã trốn ra chiến khu theo

Nguyễn Quang Bích nhưng nửa chừng xin về q, vì có mẹ già. Nguyễn Quang Bích khơng
can ngăn một người đã theo nghĩa quân bỏ cuộc nhưng “…hẳn sau này Tốn Hoàng đọc được
bức thư này chắc không khỏi suy ngẫm” [5, 255]. Tiễn Nguyễn Tốn Hồng, với vai trị một
vị thủ lĩnh, Nguyễn Quang Bích khơng hề trách móc với sự lựa chọn của bạn hữu. Ngược
lại, ông nhấn mạnh sự gắn bó khăng khít bên nhau đã lâu để khẳng định cuộc chia tay thật


TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022

23

khó khăn cho người ở lại và nỗi lòng đầy thương nhớ khi phải chia xa. Sự dờn ép câu chữ
của thể thơ có lẽ là một phần giúp tác giả thể hiện thành công và đằm sâu những xúc cảm
dành cho người lên đường trong cảnh huống chia tay nhiều đặc biệt.
Số lượng thơ tống biệt trung đại Việt Nam sáng tác theo thể bài luật rất ít [8]. Thơ bài
luật (cịn gọi là Đường luật trường thiên, hay cũng gọi thể hành) là thể cách theo luật (không
hạn chế số câu (từ 8 câu trở lên), toàn bài thống nhất số chữ trong câu (ngũ ngơn hoặc thất
ngơn, có khi cả lục ngôn). Trừ hai câu đầu và hai câu cuối bài khơng đối, cịn lại một cặp hai
câu đối nhau, câu thơ theo luật bằng, trắc. Một bài thơ gồm các bài tứ tuyệt nối tiếp nhau về
ý, tình cũng được xem là Đường luật trường thiên. Bài Tiễn Ninh Bình Nguyễn Tán Tương
hồi Nam của Nguyễn Quang Bích là một bài thơ theo thể thức cách luật. Tác phẩm gồm 4 bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt nối tiếp nhau. Nguyễn Tán Tương (Nguyễn Tử Ngôn) là một trong
những thủ cấp rất gắn bó với Nguyễn Quang Bích trong những tháng ngày ở Tây Bắc. Đối
với Nguyễn Tử Ngơn thì Nguyễn Quang Bích vừa là thầy vừa là cấp trên nhưng cũng vừa là
những cộng sự có cùng chí hướng [9]. Nguyễn Quang Bích giao Nguyễn Tử Ngơn trọng trách
về Nam Định, Ninh Bình để mở rộng và phát triển lực lượng. Vì thế bên cạnh xúc cảm bịn
rịn, lưu luyến khi chia tay cịn là niềm hy vọng, mong ngóng những thành quả mới cho sự
phát triển lực lượng của nghĩa qn. Thể thức cách luật gị bó nhưng được kết nối bởi 4 bài
thơ tứ tuyệt liên tiếp nhau đã giúp tác giả thể hiện được trọn vẹn tình ý.
Ở bài thứ nhất ông bắt đầu bằng việc gợi lại sự gắn bó trong khoảng thời gian vừa qua

để lý giải cho xúc cảm bịn rịn, buồn (độc thê như) khi phải chia biệt. Nhưng đứng ở vai trò
của một thủ lĩnh, Nguyễn Quang Bích khơng qn dặn dị người lên đường việc thường xuyên
phải giữ được liên lạc để mọi thông tin được cung cấp kịp thời. Bài thứ hai người tiễn thể
hiện sự đồng cảm, với người lên đường khi phải gác việc riêng mà lo cho việc chung. Ông
cũng khéo léo nhắc đến truyền thống gia phong của gia đình để khơi gợi quyết tâm tiêu diệt
quân thù: Quỷ ác hoàn tu tận lực trừ (Cần đem hết sức mình diệt lồi quỷ ác). Bài thứ 3, thể
thức cách luật gị bó phần nào giúp khẳng định tính chất trang nghiêm của chỉ dụ (Nguyên
nhung tín chỉ) từ người chỉ huy. Ông cũng khẳng định khu vực Nam-Ninh là nơi có nhiều
nghĩa sĩ. Ơng nhắc tới Phạm Công (Phạm Văn Nghị, vừa là người tham gia tích cực vào cuộc
kháng chiến chống Pháp, có lui về ở ẩn tại Gia Viễn, Ninh Bình và cũng là một trong những
người có phép dùng binh cần được học hỏi. Bài thứ tư ông tiếp tục khơi gợi mối căm thù đối
với giặc bằng cách sử dụng hình ảnh “chỉ phát” được lấy ý từ thành ngữ Hán văn Nợ phát
xung quan (Tức giận làm cho tóc dựng dứng đụng mũ đội lên đầu). Từ đó ơng khích lệ tinh
thần chiến đấu bằng cách khẳng định chủ quyền dân tộc: Ngã Nam thiên định Lạc - Hồng sơ
(Cũng nên nhắc nhở nhau rằng đất nước Việt nam sách trời đã định từ thuở Hờng - Lạc). Có
thể thấy sự gị bó của thể thức cách luật đã được Nguyễn Quang Bích kết hợp với khơng khí
đầy cam go của thời cuộc để có được một bài thơ vừa có sự bịn rịn buồn thương khi phải chia
xa, vừa gửi gắm niềm hy vọng, tin tưởng mong ngóng của người ở lại, vừa có những lời dặn
dị ân cần thân thiết lại vừa có sức mạnh của mệnh lệnh từ một người chủ tướng, vừa có nghĩa
vừa có tình.

3. KẾT LUẬN


24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Mặc dù số lượng thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích khơng nhiều nhưng những dấu ấn
mà ông để lại qua những thi phẩm tống biệt thật sắc nét. Qua những cuộc tiễn biệt tác giả đã

hóa thân, đờng nhất vào hình tượng nhân vật trữ tình để thể hiện hình ảnh con người vừa
mang ý thức sâu sắc về trách nhiệm, bổn phận nhưng cũng mang những nỗi niềm tâm sự
riêng tư, nỗi buồn vì hồn cảnh riêng của cá nhân và cả nỗi b̀n ly biệt.
Nguyễn Quang Bích lần đầu tiên mang tới cho thơ tống biệt một không gian tống tiễn
rất riêng, không gian thực âm u, vắng lặng của đại ngàn Tây Bắc. Hệ thống chú và nguyên
chú giúp thơ tống biệt của ơng thể hiện tính kỷ sự sắc nét. Cách sử dụng điển cố gợi dẫn
được sự kiện tiêu biểu của hiện thực cũng như cách sử dụng đa dạng thể thơ từ thể thất ngôn
bát cú, thất ngôn tứ tuyệt đến bài luật đã mang đến cho thơ tống biệt Nguyễn Quang Bích
những dấu nét riêng nổi bật. Có thể khẳng định Nguyễn Quang Bích xứng đáng là một đại
diện tiêu biểu trong số những tác giả sáng tác thơ tống biệt giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
Ơng đã đóng góp một phần quan trọng hồn thiện thể tài tống biệt trung đại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thơ văn Phạm Văn Nghị (1979), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tổng tập văn học Việt Nam (tập 17) (1993), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Lã Xuân Oai - Côn Đảo thi tập (2005), Nxb. Lao Động.
Thơ văn Nguyễn Quang Bích (1973), Nxb. Văn học, Hà Nội.
Đình Nguyên Hồng Giáp Ngư Phong Nguyễn Quang Bích (2013) (nhiều tác giả), Nxb. Văn học,
Hà Nội.
6. Vũ Thanh (2017), “Nguyễn Quang Bích – nhà thơ lớn, người anh hùng của núi rừng Tây Bắc qua
Ngư phong thi văn tập”, Tạp chí Hán Nôm, số 5.
7. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
8. Hán Thị Thu Hiền (2021), “Thơ tống biệt trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX”, Luận án tiến sĩ
ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội.
1.
2.
3.
4.
5.

POEMS OF FAREWELL BY NGUYEN QUANG BICH

Abstract: Nguyen Quang Bich has 7 poems of farewell. The image of a lyrical character in
his farewell poems carries both a sense of human dignity and personal feelings of sadness
and sorrow in a day of leave-taking. The space in Nguyen Quang Bich's farewell poems is
the real space of the mountains and forests of the Vietnamese northwest regions contains
many dangers and sadness. His farewell poetry also shows a clear self-discipline through
the system of quotations and notes. The case is used occasionally but flexibly to reflect
urgent issues. Poetry form is diverse, including Lüshi (an eight-line poem with seven words
in each line), jueju (a four-line poem with five words in each line), and pailü (an expansion
of the forms listed above with more than eight lines).
Keywords: Farewell poetry, Nguyen Quang Bich, Ngu Phong poem collection



×