Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam trong dạy học phần, "Công dân với việc hình thành thế giới quan, ph...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.27 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam trong dạy học phần,
"Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học" môn Giáo dục cơng dân lớp 10

Người thực hiện: Đồn Thị Nụ
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: GDCD

1

Năm
học 2018 - 2019
SangKienKinhNghiem.net


Mục lục
Mục

Nội dung

Trang

2.

1.Mở đầu:
1.1. Lí do chon đề tài


1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

1

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu

1

5

1.5. Những điểm mới của SKKN

2

6

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

7

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


2

1

1
1

9

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.

10

2.3.1. Xây dựng hồ sơ tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam 3

8

11

12
13

2
3

trong dạy học phần: Cơng dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học.
2.3.2. Sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam trong dạy học theo 9

định hướng phát triển năng lực cho học sinh, phần Cơng dân
với việc hình thành thể giới quan, phương pháp luận khoa
học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động 14
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1.Hiệu quả của sáng kiến
14

15

2.4.2. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động 15
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
16

16

3.1.Kết luận

16

17

3.2. Kiến nghị.

17

14

2

SangKienKinhNghiem.net


1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCH Trung ương Đảng
khóa XI về: “Đổi mới mạnh mẽ PP dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học;
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi
mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực” ; toàn ngành Giáo dục & Đào tạo đã
và đang tích cực thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nhằm tạo ra nguồn lao
động chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, gắn với hội nhập quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, địi
hỏi mỗi giáo viên phải thực sự đổi mới phương pháp, dạy học tích hợp kiến thức
liên mơn theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Ở trường THPT, nội dung môn GDCD là một hệ thống kiến thức về nhiều
lĩnh vực giúp học sinh có đủ những hiểu biết cơ bản để hình thành thế giới quan,
nhân sinh quan, những cơ sở lý luận để giải quyết những vấn đề thực tế của cuộc
sống nhưng thực sự chưa được coi trọng, nhiều học sinh chưa thích học, và quan
niện đây là môn phụ, chất lượng giảng dạy của bộ mơn cịn nhiều hạn chế. Đứng
trước những vấn đề thực tiễn trong học và dạy phần triết học cho HS hiện nay,
bản thân tôi đã thử nghiệm các phương pháp dạy học trong giảng dạy phần triết
học và nhận thấy việc "Sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam” trong dạy học phần,
"Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học" môn
Giáo dục công dân lớp 10,có nhiều ưu thế hơn trong thực hiện mục tiêu giáo dục
tồn diện con người. Vì đây là một phần dạy về những tri thức triết học có nội
dung rất trìu tượng, sâu sắc, liên quan đến những quy luật cơ bản về sự vận
động, phát triển của thế giới, đồng thời giúp học sinh hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, định hướng phát triển các năng lực cơ bản của con

người.Với suy nghĩ và kinh nghiệm hiểu biết của mình, mong rằng sẽ góp phần
nhỏ vào việc giảng dạy,hỗ trợ cùng đồng nghiệp nhằm đem lại kết quả cao. Xin
được nêu kinh nghiệm nhỏ của bản thân để các bạn đồng nghiệp tham khảo.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích để hiểu biết đầy đủ và sâu sắc hơn về
việc xây dựng hồ sơ tư liệu tục ngữ, ca dao Việt Nam trong các bài dạy phần
Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học.
- Một số biện pháp sử dụng ca dao, tục ngữ trong dạy học theo định
hướng phát triển năng lực qua dạy phần: Cơng dân với việc hình thành thế giới
quan, phương pháp luận khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sử dụng ca dao, tục ngữ trong dạy
học môn GDCD lớp 10 phần: Cơng dân với việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học ở trường THPT nơi tôi giảng dạy
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sưu tầm và xây dựng hồ sơ tư liệu dạy học
- Phương pháp tư duy lôgic
3
SangKienKinhNghiem.net


- Phương pháp đối chứng nghiên cứu
- Phương pháp so sánh
1.5. Những điểm mới của SKKN
Sáng kiến đã vận dụng những lý luận cơ bản về PPDH, sử dụng sáng tạo
sự kết hợp các PPDH tích cực, tích hợp kiến thức liên môn để thiết kế các hoạt
động dạy học phù hợp nhằm đạt được mục tiêu chuyển từ giáo dục tri thức sang
giáo dục tri thức kết hợp với rèn kỹ năng sống và định hướng phát triển năng lực
cho học sinh.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là thể loại văn học được nhiều người ưa thích.
Có thể nói, đó là thể loại được yêu thích nhất của văn học dân gian. Ca dao tục
ngữ là sản phẩm kết tinh trí tuệ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, cốt cách Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, thể hiện tâm tư tình cảm của quần
chúng nhân dân lao động. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn lao động
sản xuất, từ quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài của cha ông ta, là
tài sản vô cùng quý giá của dân tộc ta.
Ca dao, tục ngữ và triết học là hai lĩnh vực khác nhau. Ca dao, tục ngữ
Việt Nam là một thể loại văn học dân gian, thuộc lĩnh vực nghệ thuật; còn triết
học là khoa học về thế giới quan, phương pháp luận. Tri thức của ca dao, tục
ngữ là những tri thức kinh nghiệm dựa trên sự quan sát các hiện tượng tự nhiên
và xã hội, là sản phẩm văn hóa tinh thần mang bản sắc riêng của dân tộc Việt
Nam; còn tri thức triết học là hệ thống những quan điểm về thế giới, là sự tổng
hợp khái quát chung nhất những quy luật về tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy
nhiên giữa chúng lại có quan hệ gần gũi với nhau. Ca dao, tục ngữ phản ánh tư
duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ hiện thực khách quan, thể hiện nét đẹp nội
sinh của văn hóa Việt Nam với tinh thần lạc quan, yêu người, yêu đời tha thiết.
Với màu sắc dân gian, thiên nhiên, cuộc sống, truyền thống dân tộc, các quan hệ
xã hội hiện lên một cách rất sinh động trong ca dao, tục ngữ. Do đó, nhiều người
cịn gọi nó là triết lý dân gian hay triết học của nhân dân lao động Việt Nam.
Những triết lý giáo dục sâu sắc của nhân dân ta đã được khái quát và đúc
kết qua ca dao, tục ngữ sẽ có tác dụng làm cho các bài học Giáo dục công dân,
những kiến thức triết học trở nên gần gũi, thân thương sâu sắc như những lời ru
của mẹ, những câu chuyện kể của bà.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp
ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá trong điều kiện nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 8 (khố XI) thì việc vận dụng tục ngữ, ca dao những yếu tố dân gian
vào giảng dạy nhằm định hướng phát triển năng lực cho học sinh, góp phần giữ

gìn và bảo tồn những di sản văn hóa phi vật thể quý báu của dân tộc là một trong
những nội dung hết sức quan trọng được đưa vào giảng dạy trong các cấp học,
bậc học nói chung và ở trường trung học phổ thơng nói riêng.
2.2. Thực trạng:
2.2.1 Thuận lợi:
4
SangKienKinhNghiem.net


- Sử dụng ca dao, tục ngữ trong dạy học có rất nhiều thuận lợi vì ít nhiều
các em đã thuộc từ các cấp dưới, đặc biệt là những lớp khối C, khối D các em
thuộc rất nhiều cho nên thuận tiện cho việc giảng dạy.
- Chương trình GDCD lớp 10, phần "Cơng dân với việc hình thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học " có nhiều nội dung phù hợp cho việc tích
hợp kiến thức liên mơn
- Cơ sở vật chất nhà trường tốt, đảm bảo, phòng thư viện có rất nhiều sách
máy vi tính, máy chiếu, bảng phụ, tư liệu tham khảo. Cho nên GV và HS có
điều kiện thuận lợi khi tiếp cận với nhiều nguồn thông tin về cuộc sống xã hội
từ nhiều phương tiện khác nhau làm tư liệu cho quá trình học tập. ….
- Sử dung ca dao, tục ngữ trong dạy học đã khắc phục được tình trạng
nhàm chán, thụ động, ỉ nại trong học tập. Vì vậy mà đã gây hứng thú cho người
học, kích thích, phát huy tư duy tích cực của HS.
b. Khó khăn:
- Đây là kiến thức liên môn nên GV và HS không tránh khỏi lúng túng
trong một số kỹ năng. Địi hỏi người GV có nhiều kỹ năng ngoài kỹ năng sư
phạm, cũng như sự nhanh nhạy trong xử lí tình huống thực tế.
- GV khó khăn khi đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh.
- Năng lực HS không đồng đều, quan điểm, tính cách, tâm lý khác nhau,
nên khi thực hiện một số học sinh còn ngại bộc lộ ý kiến, phụ thuộc vào HS
khác. Bên cạnh đó một số HS đã quá quen thuộc với cách tiếp thu kiến thức thụ

động (thầy giảng trò ghi chép) nên khi chuyển qua phương pháp mới đòi hỏi sự
năng động, khả năng tư duy và tính sáng tạo thì một bộ phận học sinh khơng
thích ứng được.
.
- Suy nghĩ, quan niệm của HS, phụ huynh HS và nhiều người trong xã
hội về bộ mơn này cịn lệch lạc, họ cho rằng, đây chỉ là môn phụ không cần
thiết phải học vẫn trở thành người, nên khơng chú ý thậm chí cịn xem thường, học qua loa cho xong…
2.3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
2.3.1. Xây dựng hồ sơ tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong dạy học
phần: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao, tục ngữ là một trong
những nội dung đặc sắc nhất thể hiện trí tuệ con người. Ca dao, tục ngữ được
sinh ra từ thực tế cuộc sống lao động, thể hiện trong nhiều mảng đề tài của cuộc
sống và hết sức phong phú, đa dạng, tinh tế. Để sử dụng tục ngữ, ca dao trong
dạy học các tri thức triết học địi hỏi phải có sự chọn lọc cho phù hợp. Vì vậy để
thiết kế bài dạy, lựa chọn các PPDH phù hợp, trước hết cần xây dựng hồ sơ tư
liệu về ca dao, tục ngữ dùng để dạy các nội dung thuộc đơn vị kiến thức: Công
dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học.
Ở đây, tơi hạn chế sự phân tích, diễn giải. Trong q trình tìm hiểu ca dao,
tục ngữ, chúng ta thấy khơng phải đơn vị kiến thức triết học nào cũng tìm được
dẫn chứng từ ca dao, tục ngữ phù hợp để minh họa. Như vậy có nghĩa là khơng
5
SangKienKinhNghiem.net


phải ở bất kỳ nội dung nào chúng ta cũng dùng ca dao, tục ngữ làm phương tiện
giảng dạy. Chúng ta chỉ sử dụng ca dao, tục ngữ trong trường hợp mà ở đó
chúng có thể phát huy hiệu quả cao nhất, diễn đạt một cách tốt nhất những tri
thức triết học trong bài.
Triết học Mác - Lênin mang tính lý luận chung còn ca dao, tục ngữ là

những tri thức kinh nghiệm của nhân dân lao động Việt Nam, do đó việc sưu
tầm, phân loại ca dao, tục ngữ cho từng đơn vị kiến thức TGQ, PPL chỉ mang
tính tương đối.
2.3.1.1. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 1: Thế giới quan
duy vật và phương pháp luận biện chứng
- Quan niệm duy vật về thế giới: Ca dao, tục ngữ Việt Nam phản ánh
những nhận thức có tính duy vật tự phát, thừa nhận sự tồn tại, vận động khách
quan của thế giới vật chất:
- "Trăng đến rằm thì trăng trịn
Sao đến tối thì sao mọc"
- "Cịn da lơng mọc, cịn chồi nảy cây”
- "Nước non là nước non trời
Ai phân được nắng, ai dời được non"
Thế giới vật chất dưới con mắt của nhân dân lao động được thể hiện trong
ca dao tục ngữ chính là trời đất, núi sơng, cây cỏ... Đó là những sự vật, hiện
tượng rất gần gũi với con người, quyết định đời sống con người. Tư tưởng duy
vật còn mang tính trực quan, tự phát nhưng nó đã cho thấy cách nhìn tích cực
của con người về thế giới khách quan.
- Quan điểm duy tâm về thế giới:
"Sống chết có mệnh, giàu sang do trời"
"Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên"
- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau. Vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức, tuy
nhiên ý thức có tính độc lập tương đối và có thể tác động trở lại vật chất.
Ý thức là hình ảnh thuần túy tinh thần, là sự phản ánh của vật chất vào
trong bộ óc người, do đó, ý thức là cái khơng thể cân, đo, đong, đếm được.
-"Lịng sơng lịng biển dễ dò
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người"
Vật chất quyết định ý thức:

-"Có thực mới vực được đạo"
-"Phú quý sinh lễ nghĩa"
-"Thực túc, binh cường"
Đây là những triết lý xuất phát từ chính hiện thực đời sống. "Thực", "phú
quý" được xem là thuộc lĩnh vực vật chất, nằm trong tồn tại xã hội; "đạo", "lễ
nghĩa" được xem là thuộc lĩnh vực tinh thần, nằm trong ý thức xã hội. Suy ra
"thực" vực "đạo", "phú quý" sinh "lễ nghĩa" chính là "vật chất quyết định ý
thức", "tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội".
Ý thức có tính độc lập tương đối và có thể tác động trở lại vật chất:
- "Yêu nhau củ ấu cũng tròn,
6
SangKienKinhNghiem.net


Ghét nhau thì quả bồ hịn cũng vng"
- "Thương nhau nước đục cũng trong,
Ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ"
- "Yêu nhau vạn sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng"
- "Yêu nên tốt, ghét nên xấu"
2.3.1.2. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 2: Sự vận động và
phát triển của thế giới vật chất.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động, phát triển.
Tính khách quan: Sự phát triển mang tính khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn, nguyện vọng của con người. Dù con người có muốn hay khơng thì
sự vật vẫn vận động, phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.
- "Trăng đến rằm thì trăng trịn,
Sao đến tối thì sao mọc"
- "Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng"
Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực: cả tự nhiên, xã

hội và tư duy.
+ Trong tự nhiên:
-"Tre già măng mọc"
- "Rút dây động rừng"
- "Cịn da lơng mọc, cịn chồi nảy cây”
+ Trong xã hội:
-"Người có lúc vinh, lúc nhục,
Nước có lúc đục, lúc trong”
-"Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
- "Hết cơn bĩ cực đến kì thái lai”
+ Trong tư duy:
-"Dốt đến đâu học lâu cũng biết”
- "Học một biết mười”
- "Đi một ngày đàng học một sàng khơn”
Tính đa dạng, phong phú: Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau lại có sự phát triển
khơng giống nhau. Đồng thời, cùng một sự vật, hiện tượng nhưng ở mỗi hoàn
cảnh khác nhau lại có q trình phát triển khơng giống nhau.
- "Mía có đốt sâu đốt lành”
- "Người có lúc hay lúc dở,
Sơng có bên lở bên bồi”
- "Người đời khác nữa là hoa,
Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn”
- "Trời còn khi nắng khi mưa,
Ngày còn khi sớm, khi trưa, nữa người”
- "Bàn tay có ngón ngắn ngón dài,
Một cây có cành bổng cành la,
Một nhà có anh giàu anh khó”
7
SangKienKinhNghiem.net



2.3.1.3. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 3: Nguồn gốc vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Mặt đối lập: Là những khuynh hướng, tính chất, đặc điểm mà trong quá
trình vận động, phát triển chúng đi theo chiều hướng trái ngược nhau. Chúng
vừa thống nhất, lại vừa đấu tranh với nhau, cùng nằm trong một chỉnh thể, có sự
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Quy luật mâu thuẫn thể hiện trong ca dao, tục ngữ là sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập cùng nằm trong một sự vật, hiện tượng.
"Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối"
"Được mùa mua, thua mùa bán"
Ở đây " sáng" và " tối", "mua" và "bán", là hai mặt đối lập có xu hướng
biến đổi trái ngược nhau: "đươc mùa mua" thì lại "thua mùa bán" nhưng chúng
lại có mối quan hệ thống nhất với nhau trong quan hệ cung cầu của nền sản xuất
hàng hóa.
2.3.1.4. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 4: Cách thức vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về "lượng" và "chất" được ca
dao, tục ngữ thể hiện khá phong phú, sinh động, mang tính đặc thù.
* Sự thống nhất giữa chất và lượng
- "Già néo đứt dây"
* Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất: Khi sự vật
tích lũy đủ về lượng, đến điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
- "Tích tiểu thành đại"
- "Góp gió thành bão"
- "Năng nhặt chặt bị"
- "Kiến tha lâu đầy tổ"
- "Nhổ một sợi tóc thành hói đầu"

- "Cả đống lấy đi một hạt"
- "Chín q hóa nẫu"
- "Nước chảy đá mịn"
- "Có cơng mài sắt có ngày nên kim"
- "Năng mưa thì giếng năng đầy
Anh năng đi lại mẹ thầy năng thương"
* Những thay đổi về chất dẫn đến thay đổi về lượng: Chất mới ra đời sẽ
tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm
thay đổi kết cấu, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự
vật.
"Yêu nhau chả lấy được nhau,
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Bao giờ sum họp một nhà,
Con lợn lại béo, cau già lại non"
Từ việc "không lấy được nhau" đến chỗ "lấy được nhau" - "sum họp một
nhà" đã làm cho: lợn "gầy" thành "béo" cau " già" thành "non".
8
SangKienKinhNghiem.net


2.3.1.5. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 5: Khuynh hướng
phát triển của sự vật hiện tượng.
Khái niệm phủ định: Là xóa bỏ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
- "Có mới nới cũ"
- "Sơng lở cát bồi"
- "Tre già măng mọc"
Đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng:
Tính khách quan: Nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân
của sự vật. Đó chính là kết quả của việc đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho
mâu thuẫn được giải quyết trong bản thân sự vật, hiện tượng.

-"Người có lúc vinh, lúc nhục,
Nước có lúc đục, lúc trong"
Sự phủ định nằm ngay chính trong bản thân sự vật: Trong cuộc đời của
một con người thì có cả "lúc vinh" "lúc nhục"; trên một dịng nước thì cũng có
"lúc đục", "lúc trong". Sự biến đổi của đời người là kết quả của việc tự thân giải
quyết những mâu thuẫn trong chính bản thân con người. Sự biến đổi của dòng
nước là do sự vận động, biến đổi theo quy luật tự nhiên nội tại trong bản thân
dịng nước.
Tính kế thừa: Sự phát triển mang tính thừa kế. Cái mới chỉ có thể ra đời
trên nền tảng của cái cũ, là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ
những mặt tiêu cực, lỗi thời của cái cũ và chọn lọc giữ lại những mặt thích hợp
và hiện thực.
"Tre già măng mọc"
"Cịn da lơng mọc, cịn chồi nảy cây"
Sự vật mới ra đời, dần thay thế cho sự vật cũ: "tre già" thì "măng mọc".
Tuy nhiên sự vật mới ra đời không phải trên mảnh đất trống không mà phải trên
cơ sở kế thừa nền tảng, yếu tố tích cực của sự vật cũ. "Măng" ra đời trên nền
tảng, từ gốc rễ của khóm tre già có từ trước đó, "lơng" mọc trên "da", "cây" nảy
từ "chồi", nó khơng thế xuất hiện từ hư vô, không thể đứng độc lập một mình
mà chỉ có thể phát triển trong sự bao bọc, chở che của đồng loại, cùng tồn tại với
đồng loại.
2.3.1.6. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 6: Thực tiễn và
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Quá trình nhận thức con người gắn liền với q trình sống và lao động.
Do đó ca dao tục ngữ được đúc rút từ kinh nghiệm thực tiễn đã thể hiện triết lý
về vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức.
-"Đi một ngày đàng học một sàng khôn"
-"Đi một bữa chợ học một mớ khôn"
-"Trăm nghe không bằng một thấy”
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:

- "Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa"
- "Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm".
- "Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống"
- "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống"
9
SangKienKinhNghiem.net


- "Thức khuya mới biết đêm dài
Sống lâu mới biết lịng người có nhân”
-“Lên non mới biết non cao
Lội sơng mới biết lạch nào cạn sâu”
-"Có gió rung, mới biết tùng bách cứng
Có ngọn lửa hừng, mới rõ thức vàng cao"
Trong nhận thức và hành động, thực tiễn là động lực của nhận thức, con
người cần quán triệt quan điểm thực tiễn, phải tính đến đặc điểm của đối tượng,
của hồn cảnh cụ thể :
-"Liệu bị đo chuồng "
"Liệu người thổi cơm"
"Liệu gió phất cờ"
"Dịm giỏ bỏ thóc"
Trong thực tiễn con người phải biết thích ứng thay đổi với hồn cảnh:
- "Gặp cảnh nào chào cảnh ấy"
-" Mềm nắn, rắn bng"
- "Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài"
Có thể nói, quan điểm về nhận thức, vai trị của thực tiễn đối với nhận
thức được truyền tải qua ca dao tục ngữ chứa đựng những nội dung hết sức sâu
sắc, thể hiện cách nhìn biện chứng của ơng cha ta dựa trên sự đúc kết những
kinh nghiệm thực tiễn.

2.3.1.7. Tư liệu ca dao, tục ngữ Việt Nam trong chủ đề 7: Con người là
chủ thể của lịch sử, là mục tiêu phát triển của xã hội.
Khi bàn về nguồn gốc con người ca dao, tục ngữ đứng trên lập trường duy
vật khẳng định con người có nguồn gốc tự nhiên, là bộ phận của giới tự nhiên :
-"Người ta là hoa của đất"
Con người không phải do thần thánh sinh ra, cha ơng có câu :
-"Con người có tổ có tơng
Như cây có cội, như sơng có nguồn"
- "Chim có tổ, người có tơng"
Con người là chủ thể của lịch sử: Con người sáng tạo ra mọi của cải vật
chất cho xã hội. Trong ca dao, tục ngữ, con người thường được so sánh với của
cải và bao giờ ông cha ta cũng đặt con người lên trên hết:
-"Người làm ra của, của không làm ra người"
-"Một mặt người bằng mười mặt của"
-"Người sống hơn đống vàng"
Ca dao, tục ngữ đặc biệt coi trọng những giá trị tốt đẹp của con người :
-"Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Người khôn ai nói nặng lời làm chi"
-"Người khơn ai nỡ roi địn
Một lời nhẹ nhẹ, hãy cịn đắng cay"
Thơng qua những tư liệu trên đây, tôi đã vận dụng phối hợp các PPDH
tích cực để định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Tuy nhiên trong quá
trình vận dụng cần lựa chọn những câu ca dao, tục ngữ cho phù hợp, tránh lạm
dụng có thể sẽ làm mất đi tính khái quát, tính trừu tượng của tri thức triết học.
10
SangKienKinhNghiem.net


2.3.2. Sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam trong dạy học theo định hướng
phát triển năng lực cho học sinh, phần Cơng dân với việc hình thành thể giới

quan, phương pháp luận khoa học.
Một số vấn đề chung về đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng
lực. Như chúng ta đã biết, dạy học theo định hướng phát triển năng lực là dạy
học theo chuẩn và định hướng kết quả sản phẩm đầu ra - kết quả đầu ra cuối
cùng của quá trình dạy học là HS vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học vào
giải quyết tình huống trong cuộc sống, nghề nghiệp. Định hướng chung về việc
đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng và định hướng phát triển năng lực cho
học sinh hiện nay là:
- Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối mơn học, khóa học
(đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại
hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề nhằm mục
đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình).
- Chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức sang đánh
giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn.
- Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy
học sang việc tích hợp đánh giá vào q trình dạy học.
- Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá.
Năng lực người học: Là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến
thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu
quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Với bất kỳ
môn học nào cũng cần hướng tới phát triển các năng lực cho học sinh.
Về các năng lực chung:
- Năng lực tự học
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực sáng tạo
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ
Những năng lực chuyên biệt được hình thành qua dạy học mơn GDCD.

Mơn GDCD ở trường THPT có vai trị quan trọng trực tiếp trong q trình
hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho học sinh.
Với đặc điểm của bộ môn là gần gũi, gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống xã
hội đã tạo cho giáo viên GDCD có thể sử dụng nhiều PPDH tích cực nhằm phát
triển năng lực cho học sinh. Bên cạnh những năng lực chung, môn GDCD còn
hướng tới phát triển các năng lực chuyên biệt sau:
- Tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực
đạo đức xã hội.
- Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng,
đất nước.
- Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội.

11
SangKienKinhNghiem.net


Nói chung tất cả các PP/KTDH tích cực mà giáo viên GDCD đã được tập
huấn từ khi bắt đầu thực hiện chương trình hiện hành đến nay, đều là các
PP/KTDH có thể hình thành, phát triển NL ở người học.
Trong phạm vi sáng kiến này, tôi sử dụng phối hợp các PPDH được áp
dụng trong thực nghiệm đề tài nên xin phép không đề cập tới phần lý luận dạy
học và các PPDH chung, chỉ nêu một số biện pháp đã thực hiện nhằm định
hướng phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực hợp tác và năng lực sáng
tạo cho học sinh cụ thể như sau:
2.3.2.1. Sử dụng ca dao, tục ngữ hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới.
Để học sinh hiểu sâu sắc hơn nội dung bài học và giờ học đạt kết quả tốt
thì cơng tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh là rất cần thiết. Vì vậy, sau mỗi
bài học tơi thường yêu cầu học về nhà sưu tầm thêm một số câu ca dao, tục ngữ
nói về nội dung bài học và chuẩn bị cho chủ đề tiếp theo mà học sinh sẽ tìm hiểu
ở tiết sau.

Đối với mơn Giáo dục Công dân, mục tiêu cuối cùng là phải chuyển
những nội dung tri thức đã học thành năng lực tư duy, năng lực hành động và ý
thức, thái độ công dân. Do đó ngồi việc hướng dẫn cho học sinh nắm vững kiến
thức cơ bản thì quan trọng hơn là giúp những các em vận dụng những kiến thức
đó vào cuộc sống thực tại. Do đó sưu tầm ca dao, tục ngữ chính là một cách để
các em vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống một cách gần gũi và chân thực
nhất. Đồng thời qua đó cịn giúp các em phát triển nhiều năng lực khác. Vì vậy
giáo viên cũng cần phải có phương pháp để hướng dẫn các em.
Về nguồn tư liệu, tôi hướng dẫn các em sưu tầm ca dao, tục ngữ qua sách
báo, trên mạng Internet với những yêu cầu không cao để học sinh thấy khơng
q khó. Đồng thời tơi cũng tiến hành kiểm tra, đánh giá chấm điểm cho việc
sưu tầm nhằm động viên khuyến khích những em có ý thức và phê bình các học
sinh chưa tích cực. Với cách làm này tơi nhận thấy khả năng vận dụng bài học
của học sinh vào cuộc sống tốt hơn. Học sinh có ý thức, yêu thích và học hiệu
quả hơn.
2.3.2.2. Sử dụng ca dao, tục ngữ để nêu vấn đề giới thiệu đơn vị kiến thức.
Việc đặt vấn đề khi giảng dạy một tri thức mới có vai trị rất quan trọng,
có tác động lớn tới quá trình nhận thức tiếp theo của người học. Nếu người dạy
đặt vấn đề một cách nhẹ nhàng, đơn giản, vừa gợi mở được sự tìm tịi và hứng
thú của người đọc, vừa phát huy được vốn kiến thức sẵn sẽ làm cho người học
có sự hứng khởi khi lĩnh hội kiến thức. Triết học là khoa học trừu tượng nên nếu
dùng ca dao, tục ngữ để đặt vấn đề sẽ làm cho người học có tâm thế nhẹ nhàng
để tham gia tích cực vào sự tổ chức, điều khiển của người dạy, làm cho kiến
thức môn học trở nên gần gũi với đời sống, huy động được vốn hiểu biết và tạo
điều kiện thuận lợi cho người học tiếp cận một vấn đề mới, góp phần nâng cao
hứng thú học tập và kích thích tính tích cực nhận thức của người học trong quá
trình lĩnh hội tri thức mới, phát huy năng lực sáng tạo.
VD1: Khi dạy đơn vị kiến thức: “Thế giới vật chất luôn luôn phát triển”
giáo viên khéo léo đề xuất nhiệm vụ học tập bằng cách đặt vấn đề như sau:
Trong cuộc sống, để thể hiện niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào một tương lai

tốt đẹp hơn, ông cha ta thường có câu:
12
SangKienKinhNghiem.net


- "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"
- "Hết cơn bĩ cực đến kì thái lai"
- "Sơng có khúc, người có lúc"
Đây chính là cách nhìn sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển
khơng ngừng. Có thể nói, vận động là thuộc tính khách quan của mọi sự vật hiện
tượng. Trong vận động và thông qua vận động mà mọi sự vật, hiện tượng biểu
hiện sự tồn tại của mình.
VD2: Khi dạy bài 5: “Cách thức vận động, phát triển của sự vật hiện
tượng” Giáo viên dẫn dắt: Trong cuộc sống, khi nói về con đường đi tới sự
thành công, cha ông ta chỉ ra rằng, muốn có sự thay đổi về chất thì phải có sự
tích lũy dần về lượng.
- "Tích tiểu thành đại"
- "Năng nhặt chặt bị"
- "Có cơng mài sắt có ngày nên kim"
Đó chính là cách thức của sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện
tượng. Trong tiết học ngày hơm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu “Cách thức vận
động, phát triển của sự vật hiện tượng”
Khi chọn ca dao, tục ngữ để đặt vấn đề cần chú ý lựa chọn những câu có
nội dung sát với bài học, có liên quan chặt chẽ với hiểu biết của học sinh, từ đó
kích thích q trình nhận thức của người học trong việc tiếp nhận tri thức mới.
Đồng thời, khi sử dụng ca dao, tục ngữ, chúng ta không nên phân tích q sâu
cũng như khơng q lạm dụng nó. Chúng ta chỉ sử dụng trong một số trường
hợp mà ở đó ca dao, tục ngữ có thể phát huy hiệu quả cao nhất, có sức gợi mở
cho việc giới thiệu một tri thức mới.
2.3.2.3. Sử dụng ca dao, tục ngữ tổ chức, điều khiển người học lĩnh hội tri

thức.
Trong việc giảng dạy một tri thức nói chung có nhiều phương pháp,
phương tiện tiếp cận khác nhau. Vận dụng ca dao, tục ngữ trong giảng dạy một
đơn vị tri thức ở bộ môn GDCD cũng vậy. Ở đây, chúng ta chỉ xem ca dao, tục
ngữ như là một trong những phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không
coi việc sử dụng ca dao, tục ngữ như một phương pháp. Như vậy, để giảng dạy
một đơn vị kiến thức mới, chúng ta phải kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp,
phương tiện khác nhau sao cho phù hợp với từng đối tượng tác động cũng như
điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình giảng dạy.
VD1: Khi dạy bài 4: “Nguồn gốc vận động, phát triển của sự vật hiện
tượng” giáo viên có thể đề xuất người học phân tích câu tục ngữ sau bằng cách
chỉ ra các cặp từ đối lập.
“Được mùa mua thua mùa bán”
Rõ ràng: “Được” - “thua”, “mua” - “bán” là hai cặp từ đối lập với nhau.
Đó là những mặt đối lập có xu hướng biến đổi trái ngược nhau: “được mùa
mua” thì lại “thua mùa bán” nhưng chúng lại cùng tồn tại trong quan hệ cung
cầu của nền sản xuất hàng hóa. Ví dụ trên cho thấy tính thống nhất mâu thuẫn
của những mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng.

13
SangKienKinhNghiem.net


VD2: Khi dạy bài 5: "Cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng". Để
hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về
chất, tác giả đã hướng dẫn học sinh phân tích câu ca dao:
"Hoa nở vội, hoa tàn khơng nhị
Trái chín non, khơng chát thì chua"
và câu tục ngữ:
"Có cơng mài sắt, có ngày nên kim"

Trên cơ sở đó, giáo viên kết hợp linh hoạt các phương pháp, phương tiện
khác nhau nhằm tổ chức, hướng dẫn người học làm rõ kiến thức của bài một
cách hiệu quả, đồng thời giúp học sinh phát huy được năng lực tư duy sáng tạo.
Tri thức triết học Mác – Lênin là một khoa học bao gồm một hệ thống
những nguyên lý, quy luật, phạm trù còn ca dao, tục ngữ là những tri thức kinh
nghiệm, phản ánh nét đặc trưng của tư tưởng triết học Việt Nam. Trong quá
trình vận dụng ca dao, tục ngữ vào dạy và học phần “Công dân với việc hình
thành thế giới quan phương pháp luận” cho thấy, việc gắn kết ca dao, tục ngữ
với các tri thức triết học là một việc rất khó khăn, nhưng hấp dẫn; khó ở chỗ
kiến thức khoa học của bộ mơn triết học Mác – Lênin rất trừu tượng, mang tính
chất lý luận chung nhất; còn ca dao, tục ngữ Việt Nam thì lại phong phú về cả
nội dung lẫn hình thức, mang bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, cho nên việc
đưa ca dao, tục ngữ gắn kết với các tri thức khoa học triết học chỉ nên đưa mức
độ và mang tính chất tương đối.
2.3.2.4. Sử dụng ca dao, tục ngữ tổ chức, điều khiển người học củng cố
bài học.
Để người học lưu giữ tri thức một cách đầy đủ, chính xác, bền vững và
khi cần có thể tái hiện được nhanh chóng, người dạy phải hướng dẫn cho người
học những biện pháp ơn tập tích cực, thường xuyên vận dụng tri thức để giải
quyết nhiệm vụ thực tiễn đặt ra.
Để việc ôn tập, tái hiện kiến thức diễn ra hiệu quả, học sinh có thể sử
dụng nhiều hình thức ơn tập khác nhau, trong đó, sử dụng ca dao, tục ngữ sẽ làm
cho việc ôn tập, tái hiện kiến thức được dễ dàng bởi vì ca dao, tục ngữ Việt Nam
chứa đựng những yếu tố triết học, mà lại cơ đọng, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ rất
gần gũi trong việc định hình, củng cố TGQ – PPL khoa học, đồng thời giúp học
sinh phát huy được năng lực sử dụng ngơn ngữ.
Ví dụ: Khi ơn tập, người học có thể nhớ nội dung của bài thơng qua việc
nhớ nội dung của các câu ca dao, tục ngữ tương ứng. Ca dao, tục ngữ luôn sử
dụng những hình ảnh cụ thể mà độc đáo, sáng tạo, cách gieo vần phong phú sẽ
giúp người đọc nhớ rất lâu, từ đó, người đọc có thể tái hiện vấn đề, tái hiện kiến

thức một cách tự nhiên. Chẳng hạn, từ việc nhớ câu: “Người có lúc vinh lúc
nhục, nước có lúc đục lúc trong”, người học sẽ dễ dàng nhớ đến nội dung tính
đa dạng phong phú của sự phát triển; Con người là chủ thể lịch sử: -"Người làm
ra của, của không làm ra người"; "Một mặt người bằng mười mặt của"; "Người
sống hơn đống vàng".
Ví dụ 1: Khi củng cố kiến thức bài 3: Sự vận động và phát triển của thế
giới vật chất. Học sinh rất thích những ca dao:
"Một người đâu phải nhân gian
Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi
14
SangKienKinhNghiem.net


Núi cao bởi có đất bồi
Núi chê đất thấp, núi ngồi ở đâu
Trăm dịng sơng đổ biển sâu
Biển chê sơng bé, biển đâu nước bồi";
Ví dụ 2: Bài 5 Cách thức phát triển của sự vật và hiện tượng:
"Dù bay lên sao hỏa, sao kim cũng phải bay từ mặt đất.
Dù lớn tựa thiên thần cũng từ dòng sữa ngọt mẹ nuôi
Phải cần mẫn như con ong kéo mật
Phải cần cù như con nhện chăng tơ
Quả chín trên cây là quả chín dần dà".
Như vậy, bằng việc nhớ những câu ca dao, tục ngữ không những học sinh
dễ nhớ, nhớ lâu kiến thức mà cịn giúp học sinh hình thành TGQ, PPL khoa học
trong chính cuộc sống của mình.
Chúng ta dễ thấy rằng, khả năng ghi nhớ của con người về hình ảnh, âm
thanh, mùi vị, những bài hát, những bài thơ có vần điệu dễ dàng hơn rất nhiều
việc ghi nhớ những lập luận, những đoạn văn, những chuỗi số, những công
thức… Hoặc, một bài hát mặc dù khá dài nhưng chỉ cần nghe vài lượt là chúng

ta đã có thể thuộc và hát tương đối đúng cả lời và nhạc. Có những bài hát từ thủa
học lớp mẫu giáo chúng ta vẫn cịn nhớ, thế nhưng có những bài học thầy cơ nói
nhiều lần, chúng ta được học trong một thời gian dài nhưng ta vẫn quên.
Như vậy, chúng ta thấy rõ được vai trò, ý nghĩa của ca dao, tục ngữ trong
việc lĩnh hội những tri thức mang tính lý luận như triết học. Để củng cố tri thức,
người học không chỉ tiến hành ôn tập mà còn vận dụng tri thức nhằm giải quyết
những vấn đề học tập. Trong quá trình học tập, người học phải chuyển hóa tri
thức thành kĩ năng, kĩ xảo mới có thể vận dụng những điều đã học vào thực tiễn.
Biện pháp rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo có những mức độ khác nhau. Trong q
trình đó, chủ thể chủ động uốn nắn những sai lệch, sự thiếu chính xác trong việc
hiểu tri thức lí thuyết.
Trên đây là một số biện pháp cơ bản phối hợp các PPDH để sử dụng ca
dao, tục ngữ vào dạy học phần Công dân với việc hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học. Qua q trình nghiên cứu và thực nghiệm tơi thấy
đã thực đem lại những hiệu quả thiết thực trong việc đổi mới phương pháp, nâng
cao chất lượng dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh hiện
nay.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1.Hiệu quả của sáng kiến
Qua thực tế giảng dạy phần Công dân với việc hình thành thế giới quan và
phương pháp luận bằng một số phương pháp sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh, tôi thấy: Nếu như trước kia
giảng dạy theo phương pháp truyền thống, giáo viên là trung tâm, mọi kiến thức
truyền đạt cho học sinh hoàn toàn tùy thuộc vào sự hiểu biết của thầy, học sinh
tiếp thu một cách thụ động và bị hạn chế, do vậy nói đến học những tri thức triết
học học sinh thường có quan niệm là mang tính lý luận, trừu tượng, khơ khan và
khó hiểu. Nhưng khi kết hợp các phương pháp có sử dụng ca dao, tục ngữ các
15
SangKienKinhNghiem.net



em đã rất hứng thú, tích cực, chủ động vào tham gia xây dựng bài. Thơng qua đó
các kỹ năng sống cơ bản, các năng lực như: năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo,
năng lực sử dụng ngôn ngữ được phát triển một cách tự nhiên. Khơng khí lớp
học thoải mái, khơng bị gị ép, giờ học sinh động đã cuốn hút được học sinh.
Các em đã thực sự hiểu rằng: Những khái niệm triết học tưởng như trừu tượng,
khơ cứng, khó hiểu nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa triết lý sâu sắc, là những
cơ sở để hình thành nhân cách, lý tưởng sống của con người; là cơ sở để đảm
bảo giá trị con người, đảm bảo tự do cho mỗi cá nhân và sự phát triển của xã
hội, từ đó thấy u thích mơn học hơn, học sinh tự tin, xử lý đúng các tình
huống thực tiễn, quan hệ giữa thầy và trò ngày càng gần gũi thân thiết.
Trong các giờ thao giảng tôi đã sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam, kết
hợp các phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh và
thấy rằng học sinh hiểu bài sâu sắc hơn, thể hiện các kỹ năng sống cơ bản tốt
hơn. Tất cả các đồng chí trong tổ, nhóm chun mơn đều cho rằng đây là
phương pháp rất có hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất
lượng dạy học, tích hợp giáo dục kỹ năng sống và định hướng phát triển năng
lực cho học sinh trong môn GDCD nói chung, trong phần Cơng dân với việc
hình thành thế giới quan và phương pháp luận nói riêng. Các giờ thao giảng của
tôi đều được xếp loại giỏi.
Qua kiểm tra khảo sát học sinh:
Năm học 2018 - 2019, tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát học sinh sau khi
dạy xong bài 7: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Hai lớp thực nghiệm là: Lớp 10A và 10H dạy bằng phương pháp sử dụng
ca dao, tục ngữ.
Hai lớp đối chứng là: Lớp 10M và 10K dạy bằng các phương pháp truyền
thống, không sử dụng ca dao, tục ngữ.
Nội dung khảo sát với các mục tiêu: mục tiêu về nhận thức, kỹ năng, thái
độ, kỹ năng sống và định hướng phát triển năng lực.

Câu hỏi kiểm tra:
Thực tiễn là gì ? Hãy lấy ví dụ để chứng minh rằng thực tiễn không những
là cơ sở, động lực của nhận thức mà cịn là mục đích của nhận thức, là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý?
Kết quả kiểm tra như sau:
Loại yếu
Loại TB
Loại khá
Loại giỏi
Lớp

Số
HS

(< 5)
(5<= <6,5)
SL Tỷ lệ% SL Tỷ lệ%

(6,5<= < 8) ( 8,0 trở lên)
SL Tỷ lệ% SL Tỷ lệ%

10A
(lớp thực
nghiệm

39

0

0


02

5,1

17

43,6

20

51,3

40

0

0

10

25

21

52,5

09

22,5


10M
(lớp đối
chứng

16
SangKienKinhNghiem.net


10H
(lớp thực
nghiệm

40

0

0

05

12,5

20

50

15

37,5


40

0

0

12

30

22

55

06

15

10K
(lớp đối
chứng)

- Kết quả khảo sát trên cho thấy, ở các lớp thực nghiệm sử dụng ca dao,
tục ngữ phối hợp các PPDH tích cực theo định hướng năng lực đã thực sự cuốn
hút được học sinh. Học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, chủ
động lĩnh hội kiến thức và tham gia xây dựng nội dung bài học, được phát huy
trí lực để liên hệ thực tiễn so sánh, đánh giá, nhận xét các tình huống thực tiễn,
rèn các kỹ năng sống cần thiết đã làm cho bài dạy GDCD nói chung, dạy các
kiến thức triết học nói riêng đạt được hiệu quả thiết thực, đem lại kết quả giờ

dạy cao hơn.
- Ở các lớp đối chứng dạy học cơ bản theo phương pháp truyền thống, chủ
yếu sử dụng sách giáo khoa và một số tư liệu thực tiễn do giáo viên thuyết
giảng. Trong giờ học giáo viên đã cố gắng truyền thụ hết nội dung kiến thức,
hướng dẫn học sinh nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, liên hệ thực tiễn để tiếp
thu bài học. Khơng khí lớp học trầm và đơn điệu. Đa số học sinh chỉ chăm chú
ghi bài, thỉnh thoảng phát biểu, các kỹ năng sống và năng lực cơ bản không
được thể hiện. Do vậy kết quả học tập còn nhiều hạn chế.
Kết quả thực nghiệm trên tuy mới là những kết quả bước đầu nhưng cũng
chứng tỏ việc vận dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam và kết hợp sử dụng phối hợp
các PPDH tích cực theo định hướng năng lực, rèn kỹ năng sống cho học sinh
trong dạy học mơn GDCD nói chung, dạy học phần Cơng dân với việc hình
thành TGQ, PPL khoa học nói riêng đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng
dạy học.
2.4.2. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua sử dụng một số biện pháp vận dụng ca dao, tục ngữ trong phối hợp
các PPDH tích cực theo định hướng phát triển năng lực, phần Cơng dân với việc
hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học ở môn GDCD lớp 10 tôi
thấy để sáng kiến được nhân rộng và đạt hiệu quả cao cần chú ý một số điểm
sau:
2.4.3.1. Đối với giáo viên:
- Nắm vững chương trình, nội dung mơn GDCD; có trình độ sư phạm đạt
chuẩn. Áp dụng sáng kiến để thiết kế bài dạy chi tiết.
- Khi sử dụng ca dao, tục ngữ trong dạy học cần chú tác động, khơi dậy
hứng thú học tập, tạo điều kiện để học sinh được tham gia thông qua tổ chức học
tập. Từ đó mỗi em có thể chủ động tham gia vào hoạt động học tập, tham gia
giải quyết các tình huống gắn với nội dung bài học.
17
SangKienKinhNghiem.net



- Khi thiết kế bài dạy có nội dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống, cần
chú ý làm tốt một số việc như sau:
+ Nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định nội dung kiến thức cơ bản theo chuẩn,
xác định trọng tâm bài dạy, phân bố thời gian hợp lý cho phần bài học có nội
dung sử dụng ca dao, tục ngữ để định hướng năng lực.
+ Lựa chọn phối hợp các phương pháp, cách thức tổ chức dạy học, xây
dựng hệ thống câu hỏi, bài tập phù hợp với nội dung bài học.
+ Giao nhiệm vụ cụ thể cho HS chuẩn bị trước.
- Kiểm nghiệm qua kết quả giảng dạy và học tập của HS. Đối chiếu, so
sánh kết quả làm bài của HS với các năng lực cần định hướng.
- GV khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, tích lũy kinh
nghiệm trong cuộc sống, lựa chọn tư liệu ca dao, tục ngữ phù hợp, tránh lạm
dụng khi sử dụng làm mất đi tính chất khái quát hóa, trừu tượng hóa của các tri
thức triết học.
2.4.3.2. Đối với học sinh
- Có đủ vở viết, sách giáo khoa, bút mực, giấy nháp...Có ý thức học tập
- Tài liệu về ca dao tục ngữ Việt Nam
2.3.3.3. Đối với nhà trường
- Nhà trường cần trang bị cơ sở vật chất đủ điều kiện về phịng học, máy
tính, máy chiếu và thư viện đạt chuẩn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1.Kết luận
Qua nghiên cứu và thực nghiệm sáng kiến có thể khẳng định rằng: ca dao,
tục ngữ Việt Nam thấm đượm yếu tố triết học. Đó chính là triết học của nhân
dân lao động Việt Nam. Yếu tố triết học trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thể hiện
đặc điểm tư duy của người Việt Nam, mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Đó là
một lối tư duy lưỡng hợp, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình
tượng hơn khái niệm, uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi. Yếu tố

triết học trong ca dao, tục ngữ Việt Nam được thể hiện ở một số nội dung cơ bản
đó là: quan niệm về thế giới, quan niệm về con người, quan niệm về thực tiễn
sản xuất, quan niệm về nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là kết tinh trí tuệ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và được lưu truyền rộng rãi trong nhân
dân. Nó được sử dụng phổ biến trong lời ăn tiếng nói hằng ngày bởi trong đó
chứa đựng những bài học quý báu, những chân lý phổ biến, những tri thức thực
tiễn về TGQ, PPL khoa học đã được kiểm nghiệm qua nhiều thế hệ. Với cách
nói giản dị dễ đi vào lịng người cùng sự trau chuốt về nội dung và hình thức, ca
dao, tục ngữ cịn có sức cảm hóa sức lay động lịng người rất lớn. Có thể nói,
sức cảm hóa của nó cịn lớn hơn bất kỳ một ngun lý, lý thuyết triết học của
khoa học nào.
Tư tưởng TGQ, PPL trong ca dao, tục ngữ không biểu hiện dưới dạng hệ
thống những quan điểm lý luận nhưng ở đó, người ta đã thấy được cả một “triết
lý dân tộc” giản dị mà sâu sắc. Mặc dù cịn mang tính chất phác, thô sơ nhưng tư
tưởng trong ca dao, tục ngữ về cơ bản là đúng, thể hiện tư duy khoa học của
18
SangKienKinhNghiem.net


nhân dân lao động Việt Nam. Những tri thức trong ca dao, tục ngữ phản ánh
thực tiễn đời sống lao động sản xuất của con người trên cơ sở một nền nơng
nghiệp lúa nước nằm trong mơ hình cơng xã nơng thơn, do đó nội dung được
phản ánh trong ca dao, tục ngữ vừa giản dị, gần gũi, vừa mang đậm hơi thở của
nông thôn Việt Nam, thể hiện nét đặc sắc riêng có của tư tưởng triết học Việt
Nam.
Vận dụng ca dao, tục ngữ trong dạy và học môn GDCD thiết nghĩ là việc
làm thiết thực, mở ra một hướng đi khả quan trong việc học tập và giảng dạy
những mơn học mang tính chất lý luận khó như triết học, góp phần nâng cao
hiệu quả, chất lượng giáo dục.

Có thể nói, ca dao, tục ngữ Việt Nam là một kho tàng tri thức chứa đựng
muôn vàn giá trị tinh thần quý báu. Nghiên cứu yếu tố triết học trong ca dao, tục
ngữ chỉ là sự khai thác một giá trị trong những giá trị đó, nhằm giúp thế hệ trẻ
Việt Nam có cơ hội hiểu rõ hơn cội nguồn văn hóa dân tộc, từ đó có thái độ và
hành động đúng đắn trong bối cảnh đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển
như hiện nay.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1 Đối với giáo viên
Thứ nhất: Ca dao, tục ngữ có ý nghĩa rất sâu sắc. Đó đều là những văn
bản lời ít, ý nhiều, một câu có thể là dẫn chứng cho nội dung của nhiều bài.
Chính sự cơ đọng hàm nghĩa đó khiến cho giáo viên phải lựa chọn chu đáo, cẩn
trọng và đưa vào nội dung từng bài cho phù hợp với yêu cầu của từng bài học và
trình độ nhận thức của học sinh. Việc vận dụng ca dao, tục ngữ không được làm
nặng thêm kiến thức của bài giảng.
Thứ hai: Lời dẫn của giáo viên phải gây ấn tượng. Khi đó học sinh mới
thu nhận những giá trị nhân văn từ ca dao, tục ngữ một cách sinh động. Đồng
thời giáo viên phải thường xuyên động viên, khuyến khích sự tìm tịi, nghiên
cứu của các em.
Thứ ba: Giáo viên cần chú ý tới bước dặn dò để học sinh làm việc ở nhà,
chuẩn bị kiến thức bài sau và sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ cần thiết.
Muốn nâng cao hứng thú học tập của học sinh thì ngồi năng lực chun mơn
nghiệp vụ, giáo viên phải tâm huyết với nghề bởi phương pháp dù có hay đến
mấy nhưng người thầy khơng có trách nhiệm cao thì cũng khơng mang lại hiệu
quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo được thế hệ trẻ
trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước.
3.2.2. Đối với học sinh
Sự hiểu biết về ca dao, tục ngữ nói chung, ca dao, tục ngữ phục vụ cho bài
học nói riêng cịn rất hạn chế. Cùng với khó khăn đó, học sinh cịn chưa hiểu
được ý nghĩa của các câu ca dao, tục ngữ . Vì vậy, địi hỏi học sinh phải:
Một là: Nghiên cứu trước sách giáo khoa ở nhà.

Hai là: Tích cực sưu tầm ca dao, tục ngữ có liên quan đến bài học.
Trên đây là quá trình nghiên cứu và thực nghiệm sáng kiến này, bước đầu
đã đạt được những hiệu quả nhất định, xin được chia sẻ với các bạn đồng
nghiệp, hi vọng nó sẽ giúp ích cho các đồng nghiệp trong cơng tác giảng dạy.
Trong q trình nghiên cứu, thực nghiệm và viết sáng kiến tôi đã nhận được
19
SangKienKinhNghiem.net


những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, đồng nghiệp
ở đơn vị. Tuy nhiên khi trình bày sẽ khơng tránh khỏi cịn có những thiếu sót, rất
mong các bạn đọc góp ý chân thành để đề tài của tơi hồn chỉnh và hiệu quả cao
hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
khơng sao chép nội dung của người khác
Thanh hố ngày 24/05/2019
Người viết
Đồn Thị Nụ

20
SangKienKinhNghiem.net



×