Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

TIỂU LUẬN:Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty Cổ phần Phân lân Hàm Rồng-Thanh Hoá.Lời nói đầuSự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường và cùng với sự đa dạng hoá các t pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.22 KB, 81 trang )




TIỂU LUẬN:

Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức
bộ máy quản lý ở Công ty Cổ phần
Phân lân Hàm Rồng-Thanh Hoá









Lời nói đầu

Sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
sang cơ chế thị trường và cùng với sự đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đã ra đời
các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh
có hiệu quả, hoàn thiện một bộ máy quản lý là một đòi hỏi khách quan của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp và có vai trò đặc
biệt quan trọng, bởi lẽ đối tượng của nó là những người lao động làm việc trong lĩnh
vực quản lý, những người làm công việc chuẩn bị và điều hành sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Công ty Cổ phần Phân lân Hàm Rồng trong những năm qua trước những yêu
cầu của tình hình mới, trước sức ép của cạnh tranh trên thị trường, Công ty đã có
những bước tiến đáng kể trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý. Song đây là
một công việc được coi là rất phức tạp mà Công ty lại mới tiến hành cổ phần hoá, nên


việc tổ chức bộ máy quản lý còn chưa được hoàn thiện, nhất là chưa thử thách qua thời
gian. Vì vậy muốn hoàn thiện nó phải có sự quyết tâm lớn của tập thể cán bộ công
nhân viên trong toàn Công ty.
Xuất phát từ thực tiễn, trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Phân lân
Hàm Rồng, tôi đã đi sâu tìm hiểu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty và mạnh dạn đề
xuất “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty Cổ phần
Phân lân Hàm Rồng-Thanh Hoá” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu
và kết luận, luận văn này bao gồm 3 phần như sau:
Phần I: Một số lý luận cơ bản về tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý.
Phần II: Phân tích thực trạng bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần Phân lân
Hàm Rồng.
Phần III: Một số ý kiện nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty Cổ
phần Phân lân Hàm Rồng.

Phần I
Một số lý luận cơ bản về tổ chức và hoàn thiện bộ máy quản lý.

1.Một số khái niệm cơ bản về quản lý và lao động quản lý.
1.1 Khái niệm, thực chất, vai trò, chức năng của quản lý.
1.1.1 Khái niệm
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống
con người. ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý. Về
nội dung thuật ngữ quản lý có nhiều cách hiểu không hẳn giống nhau. Nhưng có
một quan điểm được nhiều người đồng tình nhất: Quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra
trong điều kiện biến động của môi trường.









Sơ đồ 1: Sơ đồ logic của khái niệm quản lý.
1.1.2 Thực chất của quản lý
Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật của hoạt động quản lý, quản lý chính là sư kết
hợp được mọi sự nỗ lực của con người trong hệ thống và việc sử dụng tốt các của cải
vật chất thuộc phạm vi sở hữu của hệ thống để đạt tới mục đích chung của hệ thống và
của riêng từng cá nhân một cách khôn khéo và có hệu quả nhất. ở đây có sự hiệp tác và
Chủ thể quản lý
Đối tượng bị quản

Mục tiêu
Khách thể
quản lý
phân công lao động, có sự tham gia lao động của mọi người thì qui mô lớn hay nhỏ
cũng đều cần có sự quản lý nhằm có được năng suất lao động chung cao hơn, đạt được
mục tiêu đã đề ra với xã hội phí thấp nhất. Như vậy, thực chất của quản lý là quản lý
con người và tập thể con người hoạt động trong cùng một hệ thống. Trong mọi hệ
thống sản xuất, con người luôn giữ vị trí trung tâm và có ý nghĩa quyết định.
1.1.3 Vai trò của quản lý.
Quản lý nói chung cũng như quản lý kinh tế nói riêng có những vai trò hết sức
quan trọng. Cụ thể:
- Quản lý là một trong những yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả hoạt động của một
hệ thống. Việc tổ chức công tác quản lý một cách có khoa học sẽ tạo điều kiện cho
việc giảm chi phí hoạt động và nâng cao năng suất lao động.
- Việc làm tốt công tác quản lý còn tạo điều kiện cho người lao động phát huy được
khả năng sáng tạo của mình.
Trong môi trường làm việc với một cơ cấu tổ chức quản lý phù hợp, chặt chẽ,

bảo đảm được sự cân bằng giữa quyền lợi và trách nhiệm cho người lao động, thì
người lao động sẽ ý thức được rõ hơn những quyền lợi và trách nhiệm của họ; giúp
cho người lao động yên tâm công tác và tận tâm cống hiến hết khả năng của mình cho
công việc. Qua đó tạo nên một hệ thống mạnh, phát huy được những ưu điểm của hệ
thống, đưa hệ thống đạt tới những mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất và chi phí
thấp nhất.
1.1.4 Chức năng của quản lý.
Có thể nói chức năng của quản lý là loại hoạt động riêng biệt của lao động
quản lý, thể hiện những phương hướng tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng và
khách thể quản lý.
Việc xác định đúng đắn chức năng quản lý là cần thiết, nếu không có chức
năng quản lý thì không thể hình dung được quá trình quản lý và nội dung của quá trình
ấy trong một hệ thống nhất định. Việc phân tích quá trình quản lý, xét về mặt chức
năng quản lý là cơ sở để xác định khối lượng công việc theo từng chức năng, xác định
rõ lượng cán bộ quản lý cần có để đảm nhiệm chức năng ấy, và cuối cùng để hình
thành cơ cấu bộ máy quản lý. Muốn tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng
chuyên, tinh, gọn nhẹ và có hiệu lực thì không thể không phân tích sự phù hợp giữa cơ
cấu bộ máy quản lý với những chức năng quản lý.
Căn cứ vào nội dung của quá trình quản lý, quản lý được chia ra làm 5 chức
năng:
 Dự kiến: Doanh nghiệp thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một kế
hoạch nhất định, bằng một chương trình hành động nhằm xác định rõ ba vấn đề
cơ bản của quá trình sản xuất: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế
nào?
 Tổ chức: Tổ chức một doanh nghiệp tức là trang bị tất cả những cái gì cần thiết
cho hoạt động của nó.
 Phối hợp: Làm cho đồng điệu giữa tất cả các hoạt động của doanh nghiệp nhằm
đạt hiệu quả cao.
 Chỉ huy: Khi tất cả mọi công việc đã được chuẩn bị sẫn sàng, muốn làm cho nó
hoạt động đều đặn thì đó là nhiệm vụ của chỉ huy.

 Kiểm tra: Xem xét lại tất cẩ các công việc về số lượng và chất lượng xem có
đúng, có phù hợp với kế hoạch không.
1.2 Một số vấn đề về lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người tác động vào giới tự nhiên,
biến đổi giới tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Như vậy, lao động là điều
kiện tất yếu để tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lao động chính là quá trình
sử dụng sức lao động.
Sức lao động là năng lực lao động của con người, gồm toàn bộ thể lực và trí lực
của con người. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất và cách mạng nhất
trong quá trình lao động. Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao
động. Về mặt vật chất, quá trình lao động là sự kết hợp tác động giữa ba yếu tố cơ bản
của quá trình sản xuất: lao động, đối tượng lao động và công cụ lao động. Về mặt xã
hội, quá trình lao động được thể hiện ở sự phát sinh các mối quan hệ qua lại giữa
những người lao động với nhau trong lao động, hình thành nên tính chất tập thể, tính
chất xã hội của lao động.
1.3 Lao động quản lý trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp.
Ta có thể hiểu lao động quản lý là tất cả những người lao động hoạt động
trong bộ máy quản lý và tham gia vào việc thực hiện các chức năng quản lý. Bộ máy
quản lý hoạt động có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc lao động quản
lý có thực hiện tốt chức năng quản lý hay không. Hoạt động của lao động quản lý
mang tính chất gián tiếp bởi lẽ nó phải thông qua hệ thống tổ chức, thông qua tập thể
mà tác động vào sản xuất. Nhờ có hoạt động lao động quản lý mà các chức năng quản
lý được thực hiện, làm cho nó trở thành một quá trình.
1.3.1 Phân loại lao động quản lý.
a. Theo vai trò của lao động quản lý đối với việc thực hiện các chức năng của quản
lý, lao động quản lý được chia thành:
 Cán bộ lãnh đạo: Là những lao động quản lý trực tiếp thực hiện chức năng lãnh
đạo, bao gồm: Giám đốc, Phó giám đốc, quản đốc, phó quản đốc, trưởng, phó
các phòng ban trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Nhiệm vụ của cán bộ
lãnh đạo là:

+ Xây dựng hệ thống thành một khối thống nhất, đoàn kết và có chất lượng
cao.
+ Dẫn dắt hệ thống và tập thể dưới quyền hoàn thành tốt những nhiệm vụ đặt
ra cho hệ thống.
Hoạt động lao động của cán bộ lãnh đạo là thực hiện các công việc chủ yếu
trong quá trình quản lý mà vấn đề cốt lõi là các quyết định và tổ chức thực hiện các
quyết định đó.
 Chuyên gia: Là những lao động quản lý không thực hiện những chức năng lãnh
đạo trực tiếp mà thực hiện các công việc chuyên môn như cán bộ kinh tế, kĩ
thuật viên, cán bộ làm công tác nghiên cứu
Nhiệm vụ của chuyên gia là: Nghiên cứu hoàn thiện và đưa vào áp dụng
những phương pháp sản xuất mới, những qui trình công nghệ, những định mức kinh tế
kĩ thuật cũng như các hình thức và phương pháp tổ chức sản xuất, tổ chức lao động và
tổ chức quản lý một cách khoa học.
 Nhân viên thực hành kĩ thuật: Là những lao động quản lý thực hiện những công
việc đơn giản, thường xuyên, lặp đi lặp lại, mang tính chất thông tin- kĩ thuật và
phục vụ, bao gồm:
+ Các nhân viên làm công tác hạch toán và kiểm tra: Kĩ thuật viên kiểm định
đo lường, nhân viên giao nhận viết hoá đơn, nhân viên kế toán, thanh toán, thủ kho,
thủ quĩ
+ Các nhân viên làm công tác hành chính: kĩ thuật viên đánh máy, sao chụp,
nhân viên văn thư, lưu trữ
+ Các nhân viên làm công tác phục vụ: Trực điện thoại, bảo vệ, lái xe, tạp vụ
b. Theo vai trò của lao động quản lý đối với việc quản lý toàn bộ quá trình sản
xuất, lao động quản lý được chia thành:
 Nhân viên quản lý kĩ thuật: Là những người được đào tạo ở các trường kĩ thuật,
hoặc đã được rèn luyện trong sản xuất có trình độ kĩ thuật tương đương, được
cấp trên có thẩm quyền thừa nhận bằng văn bản, đồng thời là người trực tiếp
làm công tác kĩ thuật trong doanh nghiệp, bao gồm: Phó giám đốc,các trưởng,
phó phòng phụ trách về kĩ thuật, các kĩ thuật viên, nhân viên làm việc ở các

phòng ban kĩ thuật.
 Nhân viên quản lý kinh tế: Là những người làm công tác lãnh đạo, tổ chức,
quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: Giám
đốc hay phó giám đốc phụ trách kinh doanh, kế toán trưởng, các cán bộ nhân
viên ở phòng kế toán, phòng kinh doanh
 Nhân viên quản lý hành chính: Là những người làm công tác tổ chức nhân sự,
thi đua khen thưởng, quản trị hành chính,văn thư đánh máy, bảo vệ, tạp vụ, lái
xe
Sự phân loại lao động quản lý theo các tiêu thức trên có ý nghĩa quan trọng đối
với việc nghiên cứu và đánh giá cơ cấu tỷ lệ về số lượng và chất lượng của đội ngũ lao
động quản lý so với những đặc điểm, qui mô và loại hình sản xuất của doanh nghiệp.
Như vậy với các loại lao động quản lý khác nhau lại có nội dung lao động khác nhau.
1.3.2 Nội dung của lao động quản lý.
Các loại lao động quản lý khác nhau có nhiệm vụ lao động khác nhau do đó có
nội dung lao động rất khác nhau. Sự khác nhau đó là do sự khác nhau về tính chất các
chức năng quản lý qui định. Tuy nhiên, nội dung lao động của tất cả các loại lao động
đều được hợp thành từ các yếu tố thành phần sau đây:
 Yếu tố kĩ thuật: Thể hiện ở sự thực hiện công việc mang tính chất thiết kế và
mang tính chất chuyên môn như: Thiết kế, ứng dụng sản phẩm mới, phân tích
thiết kế và áp dụng các phương án cải tiến công nghệ sản xuất, tổ chức lao động

 Yếu tố tổ chức hành chính: Thể hiện sự thực hiện các công việc nhằm tổ chức
thực hiện các phương án thiết kế, các quyết định như lập kế hoạch, hướng dẫn
công việc, điều chỉnh kiểm tra và đánh giá công việc.
 Yếu tố sáng tạo: Thể hiện ở sự thực hiện những công việc như: Suy nghĩ, tìm
tòi, phát minh ra các kiến thức mới, các quyết định, các phương pháp để hoàn
thành công việc.
 Yếu tố thực hành giản đơn: Thể hiện ở sự thực hiện những công việc đơn giản
được thực hiện theo các qui định, hướng dẫn có sẵn như công việc có liên quan
đến thu nhập và xử lý thông tin, truyền tin và các công việc phục vụ.

 Yếu tố hội họp và sự vụ: Thể hiện ở sự tham gia các cuộc họp về chuyên môn
hoặc giải quyết các công việc có tính chất thủ tục.
Năm yếu tố trên đều có mặt ở nội dung lao động của các lao động quản lý
nhưng với tỷ trọng khác nhau và làm cho nội dung lao động của họ cũng khác nhau.
1.3.3 Đặc điểm của lao động quản lý.
Hoạt động lao động quản lý là hoạt động trí óc và mang nhiều đặc tính sáng
tạo. Đây là đặc điểm cơ bản, nó quyết định những đặc điểm khác. Vì vậy, yêu cầu đối
việc tổ chức lao động của lao động quản lý là phải tập trung tư tưởng, độc lập làm
việc, yêu cầu về bố trí nơi làm việc hợp lý, yêu cầu về điều kiện làm việc như tiếng ồn,
ánh sáng
 Hoạt động lao động quản lý mang đặc tính tâm lí xã hội cao: Đặc điểm này đòi
hỏi các biện pháp lao động khoa học phải tạo ra những môi trường lao động
thoải mái, dễ chịu, tạo ra bầu không khí trong các tập thể lao động cũng như
phải chú ý đến những giới hạn về tâm lí- xã hội trong tổ chức lao động.
 Hoạt động lao động của lao động quản lý là thu nhận và biến đổi các thông tin
để phục vụ mục đích quản lý ở các cấp quản lý trong doanh nghiệp. Những
thông tin kinh tế đã được xử lý hay chưa được xử lý chính là kết quả hoạt động
của lao động quản lý. Mặt khác, thông tin là phương tiện hoàn thành nhiệm vụ
của tất cả các hoạt động quản lý bởi vì nhờ có thông tin mà lao động quản lý
nhận được những hiểu biết, tư liệu cần thiết để giải quyết nhiệm vụ. Do đó yêu
cầu phải tổ chức tốt công tác thông tin, trang bị đầy đủ những phương tiện để
thu nhận và xử lý thông tin, cất giữ và truyền tin.
 Hoạt động lao động quản lý nhìn chung có nội dung đa dạng, khó xác định và
kết quả lao động không biểu hiện dưới dạng vật chất trực tiếp. Do đặc điểm này
nên hoạt động quản lý khó theo dõi, khó đánh giá và định mức chính xác. Đòi
hỏi khi tiến hành tổ chức lao động phải có các phương pháp nghiên cứu,
phương án tổ chức phù hợp và các định mức phù hợp.
 Hoạt động lao động quản lý mang tính chất năng động và tính trách nhiệm cao.
Đặc điểm này đặt ra yêu cầu với tổ chức lao động là phải chú trọng bồi dưỡng
tuyển chọn cán bộ, xác định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn trong phân công

lao động quản lý.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp.
2.1 Khái niệm.
Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận khác nhau có
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau được chuyên môn hoá và có những trách nhiệm,
quyền hạn xác định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm đảm bảo
thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung đã xác định của doanh
nghiệp.
Tổ chức bộ máy quản lý là hình thức phân công nhiệm vụ trong lĩnh vực quản
lý, có tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động của hệ thống. Cơ cấu tổ chức quản lý,
một mặt phản ánh cơ cấu trách nhiệm của mỗi người trong hệ thống, mặt khác nó có
tác động tích cực trở lại đến việc phát triển của hệ thống.
2.2 Những yêu cầu đối với cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý.
Việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý phải đảm bảo những yêu
cầu sau:
 Tính tối ưu: giữa các khâu và các cấp quản lý (khâu quản lý phản ánh sự phân
chia chức năng quản lý theo chiều ngang, còn cấp quản lý thể hiện sự phân chia
chức năng quản lý theo chiều dọc) đều thiết lập những mối liên hệ hợp lý với số
lượng cấp quản lý ít nhất trong hệ thống cho nên cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
mang tính năng động cao, luôn luôn đi sát và phục vụ mục đích đề ra của hệ
thống.
 Tính linh hoạt: bộ máy quản lý phải có khả năng thích ứng linh hoạt với bất kỳ
tình huống nào xẩy ra trong hệ thống cũng như ngoài môi trường.
 Tính tin cậy: bộ máy quản lý phải đảm bảo tính chính xác của tất cả các thông
tin được sử dụng trong hệ thống, nhờ đó đảm bảo sự phối hợp với các hoạt
động và nhiệm vụ của tất cả các bộ phận trong hệ thống.
 Tính kinh tế: bộ máy quản lý phải sử dụng chi phí quản lý đạt hiệu quả cao
nhất. Tiêu chuẩn xem xét yêu cầu này là mối tương quan giữa chi phí dự định
bỏ ra và kết quả sẽ thu về.
 Tính bí mật: đòi hỏi giữ gìn được nội dung hoạt động của mỗi phân hệ và của

cả hệ thống, chống sự rò rỉ thông tin cho các hệ thống kình địch hoặc thường
xuyên theo dõi giám sát nhau.
2.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức bộ máy quản lý.
 Đặc điểm của cơ chế quản lý.
Bộ máy quản lý chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế quản lý. Đó là sự ảnh
hưởng tới quá trình hình thành hệ thống các mục tiêu, các phương án sản xuất, các
hình thức kinh doanh, việc bố trí các bộ phận quản lý, các phương thức tác động của
lãnh đạo tới nhân viên trong một hệ thống, điều này xuất phát từ những chính sách,
chủ trương, đường lối do cơ chế quản lý quy định bắt buộc cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý phải thích nghi, phải được bố trí, sắp xếp cho phù hợp với những ràng buộc
của cơ chế quản lý.
 Tính chất và đặc điểm của sản xuất.
Các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế khác nhau tất yếu dẫn đến đặc điểm
của sản xuất kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, giữa các doanh nghiệp trong cùng
ngành nhưng có quy mô sản xuất và trình độ công nghệ khác nhau thì bộ máy quản lý
cũng khác nhau. Điều này khẳng định tính chất và đặc điểm của sản xuất quy định
hình thức tổ chức bộ máy quản lý.
 Mức độ cơ sở vật chất kĩ thuật.
Khi có một cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, quy mô lớn, áp dụng công nghệ
tiên tiến thì bộ máy quản lý phải được bố trí theo hướng chuyên, tinh, gọn nhẹ phù hợp
với điều kiện thực tế, tránh gây lãng phí. Ngược lại, trong tình trạng cơ sở vật chất kĩ
thuật lạc hậu, thiếu thốn, quy mô nhỏ thì bộ máy quản lý cần phải được tổ chức sao
cho thích hợp với điều kiện thực tế mà vẫn đảm bảo có hiệu quả.
 Mối quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị quản lý và khả năng kiểm
tra của người lãnh đạo.
Yếu tố này sẽ quy định quy mô của bộ máy quản lý, ảnh hưởng tới việc hình
thành các bộ phận của nó với số phòng ban, số lượng nhân viên và bao nhiêu cấp lãnh
đạo phụ trách.
Tóm lại, khi tiến hành xây dựng một cơ cấu cần phải xem xét, cân nhắc tính
toán hài hoà giữa các yếu tố trên sẽ giúp cho hoạt động quản lý có hiệu quả.

2.4 Các nguyên tắc tổ chức quản lý.
 Nguyên tắc tổ chức bộ máy quản lý gắn với phương hướng, mục đích của hệ
thống.
Phương hướng và mục đích của một hệ thống sẽ chi phối cơ cấu của hệ thống.
Nếu một hệ thống mục tiêu, phương hướng của nó có quy mô có lớn thì cơ cấu tổ chức
của nó cũng phải có quy mô tương ứng.
 Nguyên tắc chuyên môn hoá và cân đối.
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức quản lý phải được phân công, phân
nhiệm các phân hệ trong hệ thống theo các nhóm chuyên ngành, với những con người
được đào luyện tương ứng và có đủ quyền hạn. Để thực hiện nguyên tắc này cần phải
tuân thủ các yêu cầu cụ thể sau:
+ Phải công bố rõ ràng nhiệm vụ, mục đích, mục tiêu của cả hệ thống để mọi
thành viên của hệ thống nắm và hiểu phần việc của mình trong guồng máy chung của
hệ thống.
+ Cơ cấu tổ chức được phân phối dựa theo nhiệm vụ được giao chứ không
phải theo phạm vi công việc phải thực hiện.Rõ ràng, chỉ có giao nhiệm vụ một cách
cụ thể với sự cân xứng giữa nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lực, lợi ích của từng phân
hệ để phân biệt rõ ai làm tốt, ai làm kém thì hệ thống mới có thể tồn tại và phát triển
tốt.
 Nguyên tắc thích nghi và linh hoạt với môi trường.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý phải đảm bảo
sao cho mỗi phân hệ một mức độ tự do sáng tạo tương xứng để mọi cán bộ quản lý ở
các cấp thấp phát triển được tài năng, chuẩn bị cho việc thay thế vị trí của các cán bộ
quản lý cấp trên khi cần thiết.
 Nguyên tắc hiệu lực và hiệu quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi bộ máy quản lý phải thu được kết quả hoạt động cao
nhất so với chi phí mà hệ thống đã bỏ ra, đồng thời đảm bảo hiệu lực hoạt động của
các phân hệ và các điều khiển của người lãnh đạo. Cần tuân thủ các yêu cầu sau:
+ Cơ cấu tổ chức quản lý phải là cơ cấu hợp lý nhất, bảo đảm chi phí cho các
hoạt động nhỏ nhất, mà kết quả chung thu được của hệ thống là lớn nhất trong khả

năng có thể.
+ Cơ cấu tổ chức phải tạo được môi trường văn hoá xung quanh nhiệm vụ của
các phân hệ: làm cho mỗi phân hệ hiểu rõ vị trí, giá trị của các hoạt động mà mình
tham dự là nhằm tạo lợi thế, thuận lợi cho các phân hệ có liên quan trực tiếp với mình.
Các cán bộ quản lý phân hệ phải có lương tâm, trách nhiệm, phải có ý thức hợp tác
làm tốt nhiệm vụ của mình, tránh gây khó khăn và trở ngại cho các phân hệ và cả hệ
thống từ đó hình thành các hành vi xử sự hợp lý, tích cực giữa các phân hệ trong hệ
thống.
+ Cơ cấu tổ chức phải bảo đảm cho cán bộ quản lý các phân hệ có quy mô hợp
lý, tương ứng với khả năng kiểm soát, điều hành của họ.
2.5 Các kiểu cơ cấu cơ bản.
Cùng với sự phát triển của các hệ thống đã hình thành những kiểu cơ cấu tổ
chức bộ máy quản lý khác nhau. Mỗi kiểu chứa đựng những đặc điểm khác nhau và
được áp dụng trong những điều kiện cụ thể nhất định.
2.5.1 Kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến.
Đây là kiểu cơ cấu tổ chức đơn giản nhất, gồm có một cấp trên và một số cấp
dưới, toàn bộ vấn đề được giải quyết theo một kênh liên hệ đường thẳng. Cấp lãnh đạo
trực tiếp điều hành và chịu trách nhiệm về sự tồn tại của cả hệ thống.
Sơ đồ 2: Sơ đồ cơ cấu trực tuyến.










- Ưu điểm: Kiểu cơ cấu này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ

một thủ trưởng, người lãnh đạo chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của
người dưới quyền.
- Nhược điểm: Đòi hỏi người lãnh đạo phải có kiến thức toàn diện, tổng hợp,
hạn chế việc sử dụng các chuyên gia với trình độ cao về từng mặt quản lý; khi cần
phối hợp, hợp tác công việc giữa hai đơn vị và cá nhân ngang quyền thuộc các tuyến
khác nhau thì việc báo cáo, thông tin phải đi đường vòng theo kênh đã quy định.
Người lãnh đạo hệ
th
ống

Người lãnh đạo
tuy
ến 1

Người lãnh đạo
tuy
ến 2

Các nhân viên c
ấp

ới

Các nhân viên
c
ấp d
ư
ới

2.5.2 Cơ cấu chức năng.

Kiểu cơ cấu này lần đầu tiên được áp dụng với lãnh đạo các mảng công việc
của các đảng phái chính trị và chế độ đốc công của các doanh nghiệp. Sau đó phạm vi
ứng dụng của nó được mở rộng ra phù hợp với khối lượng công tác quản lý ngày càng
lớn. Những nhiệm vụ quản lý được phân chia cho các đơn vị riêng biệt theo các chức
năng quản lý và hình thành nên những người đứng đầu các phân hệ được chuyên môn
hoá chỉ đảm nhận thực hiện một chức năng nhất định. Những người thừa hành nhiệm
vụ ở cấp dưới nhận mệnh lệnh chẳng những từ người lãnh đạo cao nhất của hệ thống,
mà cả từ những người lãnh đạo các chức năng khác nhau.
Sơ đồ 3: Sơ đồ cơ cấu chức năng.










- Ưu điểm: thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo, giải quyết các
vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, giảm bớt gánh nặng về quản trị cho
người lãnh đạo cao nhất của hệ thống.
- Nhược điểm: Người lãnh đạo hệ thống phải phối hợp hoạt động của những
người lãnh đạo chức năng, nhưng do khối lượng công tác quản lý lớn, người lãnh đạo
hệ thống khó có thể nào phối hợp được tất cả mệnh lệnh của họ. Dẫn đến tình trạng
Người lãnh đạo hệ
th
ống

Lãnh đạo chức

năng B

Lãnh đạo chức
năng A

Các c
ấp d
ư
ới

người thừa hành trong một lúc có thể phải nhận nhiều mệnh lệnh, thậm chí các mệnh
lệnh lại trái ngược nhau.
2.5.3 Cơ cấu trực tuyến-chức năng.
Để khắc phục nhược điểm của các cơ cấu trực tuyến và chức năng, hiện nay
kiểu cơ cấu liên hiệp (trực tuyến-chức năng) được áp dụng rộng rãi và phổ biến cho
mọi hệ thống.
Sơ đồ 4: Sơ đồ cơ cấu trực tuyến - chức năng.









Đây là một loại hình quản lý kết hợp giữa sự chỉ huy trực tiếp của các cấp
lãnh đạo hành chính trong xí nghiệp và sự chỉ đạo nghiệp vụ của các nhân viên chức
năng các cấp. Theo cơ cấu này, người lãnh đạo doanh nghiệp được sự giúp đỡ của các
phòng ban chức năng trong việc ra quyết định để hướng dẫn, điều khiển và kiểm tra.

Truyền mệnh lệnh theo tuyến được qui định. Người lãnh đạo các phòng ban chức năng
không có quyền ra quyết định cho người thừa hành ở các tuyến.
- Ưu điểm: Phát huy được năng lực chuyên môn của các bộ phận chức
năng đồng thời vẫn đảm bảo quyền chỉ huy của hệ thống trực tuyến.
- Nhược điểm: Do có quá nhiều bộ phận chức năng, nên lãnh đạo tổ chức
thường phải họp nhiều, gây căng thẳng và lãng phí thời gian. Ngoài ra có thể xảy ra
Lãnh đạo tổ
ch
ức

Bộ phận tham
mưu

Lãnh
đạo
tuy
ến 1

Lãnh đạo
chức
năng A

Lãnh đạo
chức
năng B

Lãnh
đạo
tuy
ến

Các nhân viên
c
ấp d
ư
ới

Các nhân viên cấp dưới
mâu thuẫn giữa lãnh đạo các tuyến với nhau do không thống nhất quyền hạn và
quan điểm.
Trên đây là ba kiểu tổ chức bộ máy quản lý cơ bản, ngoài ra còn có các kiểu
cơ cấu trực tuyến tham mưu, cơ cấu chính thức, cơ cấu theo khách hàng
Xã hội ngày càng phát triển dẫn đến sự biến đổi mạnh mẽ trong các đơn vị. Sự
phát triển gắn liền với quá trình tập trung và chuyên môn hoá cao, đồi hỏi phải có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong quá trình hoạt động của tổ chức là một tất
yếu. Vì vậy hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý làm cho hiệu quả quản lý lao động cao
hơn.
2.6. Quá trình hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy quản lý.
2.6.1 Hoàn thiện bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng chuyên, tinh, gọn nhẹ
và có hiệu lực.
Để đáp ứng được nhu cầu của sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường
khắc nghiệt như hiện nay cũng như để phát huy được hết vai trò, năng lực lãnh đạo và
quản lý đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì việc hoàn
thiện bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng chuyên, tinh, gọn nhẹ, mà vẫn có hiệu
lực quản lý cao là một đòi hỏi tất yếu.
Ta biết rằng bộ máy quản lý là những khâu, những cấp được tổ chức ra phù
hợp với đặc điểm kinh tế, kĩ thuật của từng doanh nghiệp để giúp thủ trưởng doanh
nghiệp thực hiện các chức năng quản lý bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chính bộ máy quản lý là lực lượng duy nhất có thể tiến
hành nhiệm vụ quản lý trong doanh nghiệp. Bộ máy quản lý tạo ra sức mạnh khi nó
phù hợp với nhu cầu thực tiễn, còn khi không phù hợp nó lại trở thành nhân tố kìm

hãm sự phát triển. Để có được sức mạnh đó cần hoàn thiện bộ máy quản lý nhằm sử
dụng hợp lý, có kế hoạch lao động của cán bộ công nhân viên quản lý để đảm bảo
chức năng quản lý của người lãnh đạo. Đồng thời hoàn thiện bộ máy quản lý làm cho
bộ máy quản lý có hiệu lực hơn, hoàn thành nhiệm vụ quản lý, thích ứng với mọi đặc
điểm kinh tế kĩ thuật của doanh nghiệp nhằm phát huy điểm mạnh và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngày nay, trong quá trình phát triển của nền kinh tế
thị trường một doanh nghiệp có thể đứng vững được khi công tác tổ chức bộ máy quản
lý của doanh nghiệp đó phải đạt hiệu quả. Đặc biệt quá trình hoàn thiện bộ máy quản
lý theo hướng chuyên, tinh, gọn nhẹ và có hiệu lực. Ta có thể hiểu chuyên, tinh là
thường xuyên, chuyên sâu và có chọn lọc; gọn nhẹ thể hiện sự vừa đủ, chi tiết, thành
phần không rườm rà, cồng kềnh, không thừa và có tỷ trọng nhỏ; có hiệu lực thể hiện
khả năng đi đến kết quả, được mọi người chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Như vậy
việc làm cho bộ máy quản lý gọn nhẹ sẽ góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, hạ giá
thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây chính là điểm rõ nhất của việc nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.6.2 Hoàn thiện sự phân công, phân cấp trong bộ máy quản lý điều hành
doanh nghiệp.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp
đòi hỏi một sự chỉ huy sản xuất - kinh doanh theo một ý chí thống nhất tuyệt đối, đòi
hỏi sự phục tùng kỷ luật hết sức nghiêm ngặt, sự điều khiển cả bộ máy quản lý theo
những qui tắc thống nhất từ trên xuống dưới.
Trong bộ máy quản lý điều hành của doanh nghiệp thì người đứng đầu doanh
nghiệp (giám đốc) là người được giao trách nhiệm quản lý doanh nghiệp, là người chỉ
huy cao nhất trong doanh nghiệp có nhiệm vụ quản lý toàn diện, chịu trách nhiệm về
mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của doanh nghiệp. Ngoài ra để có
thời gian tập trung vào những vấn đề lớn, có tính chiến lược, Giám đốc nên giao quyền
chỉ huy, phụ trách một mảng công việc nào đó cho các cấp phó của mình.Tuỳ theo qui
mô và đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp mà bố trí số lượng phó giám đốc để giúp
giám đốc chỉ huy và điều hành công việc. Toàn bộ hoạt động tài chính - kế toán theo
qui định hiện nay được giao cho kế toán trưởng có vị trí như một phó giám đốc. Bên

cạnh phân công nhiệm vụ để bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả phải gắn quyền
lợi, lợi ích cũng như trách nhiệm của từng bộ phận, từng con người. Đây cũng là một
trong những chức năng hết sức quan trọng của người lãnh đạo.
Một vấn đề vừa có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn là trong việc phân công
phụ trách, cần qui định giới hạn tối đa số lượng các phòng chức năng, các bộ phận trực
thuộc một chức danh quản lý. Chúng ta cần hiểu rằng các phòng chức năng đóng vai
trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Đó là những tổ chức bao
gồm cán bộ, nhân viên kinh tế, kĩ thuật, hành chính được phân công chuyên môn hoá
theo các chức năng quản lý, có nhiệm vụ giúp giám đốc (và các phó giám đốc) chuẩn
bị các quyết định, theo dõi hướng dẫn các phân xưởng, các bộ phận kinh doanh cũng
như cán bộ, nhân viên cấp dưới thực hiện đúng đắn, kịp thời những quyết định quản lý.
Trách nhiệm chung của các phòng chức năng là vừa phải hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, vừa phải phối hợp chặt chẽ với các phòng khác nhằm đảm bảo cho tất cả
các lĩnh vực công tác của doanh nghiệp dược tiến hành ăn khớp, đồng bộ, nhịp
nhàng.Việc tổ chức các phòng chức năng cần được tiến hành theo các bước sau đây:
+Thứ nhất, phân tích sự phù hợp giữa chức năng và bộ phận quản trị. Trường
hợp tốt nhất là mỗi chức năng quản trị nên do một phòng phụ trách trọn vẹn. Song, do
số lượng các phòng chức năng phụ thuộc vào qui mô, đặc điểm kinh tế, kĩ thuật của
từng doanh nghiệp nên có trường hợp phải ghép vào ba chức năng có liên hệ mật thiết
với nhau, thuộc cùng lĩnh vực hoạt động vào một phòng. Như vậy sẽ thuận lợi cho việc
bố trí cán bộ phụ trách.
+Thứ hai, tiến hành lập sơ đồ tổ chức nhằm mô hình hoá mối quan hệ giữa các
phòng chức năng với giám đốc và các phó giám đốc. Đồng thời, phải ghi rõ những
chức năng mỗi phòng phụ trách nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc có chức
năng không bộ phận nào chịu trách nhiệm. Căn cứ vào sơ đồ đã lập đó, từng phòng
chức năng xây dựng nội qui công tác của phòng mình nhằm xác định rõ ràng trách
nhiệm, quyền hạn chung của cả phòng cũng như riêng cho từng người trong phòng.
+Thứ ba, tính toán xác định số lượng cán bộ, nhân viên mỗi phòng chức năng
một cách chính xác, có căn cứ khoa học nhằm vừa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, vừa
giảm bớt tỷ lệ nhân viên quản trị, giảm chi phí quản lý.

2.6.3 Hoàn thiện công tác tổ chức lao động trong bộ máy quản lý.
Tổ chức lao động khoa học của người lãnh đạo là việc sắp xếp, sử dụng có
hiệu quả thời gian làm việc của người lãnh đạo; biết việc nào bản thân phải làm, việc
nào có thể giao cho người khác,việc nào phải làm ngay, việc nào có thể trì hoãn lại,
biết nghỉ ngơi trong quá trình làm việc để đầu óc minh mẫn và có sức làm việc lâu dài,
tránh sai lầm, ùn việc, sót việc. Biết lường hết mọi việc có thể xảy ra trong chức trách
của mình, biết ước lượng thời gian cần thiết để giải quyết mỗi công việc đó. Mặt khác,
để hoàn thiện bộ máy quản lý cần phải tổ chức khoa học lao động quản lý; đó là quá
trình hoàn thiện tổ chức thực hiện bằng cách áp dụng những thành tựu khoa học kĩ
thuật nhằm thúc đẩy quá trình quản lý đạt kết quả càng cao với chi phí càng giảm,
đồng thời sự mệt nhọc, phát huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ, nhân viên quản
lý.Tổ chức khoa học lao động quản lý là đảm bảo sử dụng có kế hoạch hợp lý thời gian
lao động của từng cán bộ, nhân viên quản lý, bảo đảm sự phối hợp ăn khớp, nhịp
nhàng giữa các thành viên, khai thác năng lực chuyên môn, trí sáng tạo của mỗi người.
Nhờ đó mà tác động vào hệ thống quản lý làm cho nó hoạt động tốt hơn, đạt hiệu quả
cao hơn.
2.6.4 Hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ.
Phải thường xuyên đề ra được nội dung chương trình học tập, hình thức tổ
chức đào tạo và đối tượng đào tạo phù hợp. Không ngừng nâng cao trình độ cho cán
bộ trong hệ thống đồng thời tiến hành đào tạo công nhân viên, cán bộ mới, trẻ để
tương lai có một đội ngũ cán bộ quản lý đông đảo, có năng lực chuyên môn vững vàng
đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp.
3. Tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý.
Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận động theo qui luật kinh tế khách quan, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một bộ
máy quản lý chuyên, tinh, gọn nhẹ, linh hoạt để thực hiện quá trình quản lý hoạt động
sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả.
Mục tiêu lớn của hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận. Để đạt
được hiệu quả cao trong kinh doanh luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà quản lý, cả về lý
luận và thực tiễn. Bởi vậy, công việc của hệ thống quản lý trong doanh nghiệp là phải

thường xuyên điều tra, phân tích, tính toán, cân nhắc, soạn thảo và lựa chọn phương án
kinh doanh tối ưu sao cho với chi phí thấp nhất mà đem lại hiệu quả cao nhất.
Công tác quản lý là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của một
hệ thống. Để thực hiện công tác quản lý thì phải xuất phát từ một bộ máy quản lý ổn
định và thích hợp. Do đó, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý là nhân tố quan trọng
đảm bảo thực hiện có hiệu quả sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao năng suất
lao động ở doanh nghiệp.
Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty Cổ phần Phân lân Hàm
Rồng là hết sức cần thiết bởi nó giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển. Đó là
nhằm hoàn thiện quá trình sản xuất kinh doanh với chất lương cao, tiết kiệm tối đa thời
gian lao động, sử dụng có hiệu quả mọi yếu tố cấu thành của quá trình sản xuất kinh
doanh, đồng thời làm cho bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hoạt động nhịp nhàng
đạt hiệu quả cao.





Phần II
Phân tích thực trạng bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần
Phân lân Hàm Rồng.

1.Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
1.1 Quá trình hình thành và phát triển.
Tiền thân của Công ty là Xí nghiệp Phân lân Thanh Hoá, chính thức đi vào
hoạt động từ ngày 19-5-1962. Với thiết bị thủ công gồm 2 máy nghiền có công suất
1,2 tấn/h và 2 lò cao. Đội ngũ cán bộ công nhân viên lúc đầu là 120 người, hàng năm
sản xuất được gần 1200 tấn sản phẩm.
Từ sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Công ty
được đầu tư xây dựng, bổ sung thêm máy móc thiết bị, nâng dần công suất lên 1 vạn

tấn/ năm. Đội ngũ cán bộ công nhân viên lúc đông nhất lên tới 780 người( giai đoạn
1982- 1988).
Đến năm 1992, Công ty đã 3 lần thay đổi cách gọi từ Xí nghiệp sang Nhà máy
và ngược lại. Để phù hợp với cơ chế thị trường, UBND tỉnh Thanh Hoá ra quyết định
số 1395TC/UBTC kí ngày 12-11-1992: Thành lập Công ty Phân lân Thanh Hoá trực
thuộc Sở Công nghiệp Thanh Hoá quản lý.
Năm 1994, Công ty tiếp nhận công nghệ sản xuất phân hữu cơ sinh học của dự
án Vifotex- Thiên nông chuyển giao, mở ra hướng sản xuất mới cho Công ty. Nhưng
do nhiều khó khăn, cả chủ quan và khách quan, giai đoạn 1992-1997, Công ty làm ăn
ngày càng thua lỗ, đời sống cán bộ công nhân viên gặp rất nhiều khó khăn.
Cuối năm 1997, được sự giúp đỡ của UBND tỉnh và Sở Công nghiệp tỉnh,
Công ty dần tháo gỡ khó khăn, chấn chỉnh tổ chức lại bộ máy quản lý và bước đầu làm
ăn có hiệu quả.
Đầu quí II năm 1999, Công ty đề xuất với tỉnh xin chuyển thành Công ty cổ
phần và đã được chấp thuận. Quyết định số 1409/ QĐ- UB ngày 19-7-1999 của UBND
tỉnh Thanh Hoá cho phép Công ty Cổ phần Phân lân Hàm Rồng đi vào hoạt động từ
ngày 1- 8-1999. Chức năng kinh doanh của Công ty bao gồm:
- Sản xuất kinh doanh các loại phân bón.
- Khai thác, dịch vụ cung ứng nguyên liệu sản xuất phân bón, in ấn bao bì
nội bộ.
- Xuất nhập khẩu các loại phân bón, máy móc thiết bị phân bón.
- Kinh doanh các ngành nghề khác phù hợp với qui định của pháp luật.
Công ty được thành lập để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong việc
phát triển sản xuất kinh doanh về sản xuất phân bón và các lĩnh vực khác nhằm mục
tiêu thu lợi nhuận tối đa, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động: Tăng lợi
tức cho các cổ đông, đóng góp cho ngân sách Nhà nước và phát triển Công ty ngày
càng lớn mạnh.
1.2 Những đặc điểm chủ yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng
đến tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty.
1.2.1 Đặc điểm ngành hàng đối với xã hội.

Khi còn là học sinh phổ thông, ai mà chẳng được học câu ca dao: “Nhất nước,
nhì phân, tam cần, tứ giống”. Từ xa xưa, ông cha ta đã chú ý tới tầm quan trọng của
phân bón đối với trồng trọt. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, qui trình
công nghệ sản xuất phân bón ngày càng phát triển. Các loại phân bón đều có chung
một mục đích: Giúp cây trồng đề kháng tốt hơn đối với các loại sâu bệnh đồng thời
làm cho năng suất cây cao hơn.
Trong những năm qua, sản lượng lương thực của nước ta không ngừng tăng
lên. Từ chỗ Nhà nước phải nhập khẩu lương thực để chống đói thì đến nay, Việt Nam
là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ). Gạo đã trở thành mặt
hàng xuất khẩu quan trọng nhất và nhiều nhất của nước ta. Đảng và Nhà nước ta luôn
xác định Việt Nam sẽ tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá trên cơ sở nền nông
nghiệp vững mạnh.
Căn cứ vào chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông
nghiệp với mục tiêu chiến lược “An toàn lương thực” của tỉnh Thanh Hoá, đồng thời
để đáp ứng nhu cầu phân bón cho cây công nghiêp và vùng nguyên liệu mía đường
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá và các tỉnh phía Nam, Công ty tiếp tục đầu tư đẩy mạnh
sản xuất, mở rộng thị trường. Xuất phát từ thực tiễn như vậy, lãnh đạo Công ty luôn
xác định: Phải xây dựng một bộ máy quản lý chuyên, tinh, gọn nhẹ để điều hành Công
ty nhằm đạt được hiệu quả lớn nhất.


1.2.2 Đặc điểm kĩ thuật công nghệ.
Qui trình công nghệ của Công ty trong quá trình sản xuất tuy không đòi
hỏi kỹ thuật phải thật hiện đại nhưng có nhiều công đoạn khá phức tạp đòi hỏi
sự chính xác cao và yêu cầu về an toàn lao động. Chính vì vậy mà bộ phận KCS
có trách nhiệm rất lớn trong quá trình sản xuất. Qui trình công nghệ sản xuất
sản phẩm chính:
Sơ đồ 5: Qui trình công nghệ sản xuất phân tổng hợp (vê viên).
























×