Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

TIỂU LUẬN: Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Hà Nội pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.52 KB, 119 trang )







TIỂU LUẬN:

Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy
sự phát triển của ngành công
nghiệp điện tử Hà Nội




Lời nói đầu

Ngành CNĐT Việt Nam nói chung và ngành CNĐT Hà Nội nói riêng bắt đầu
được xây dựng từ những năm 1960 nhưng chỉ sau khi thống nhất đất nước, đặc biệt
là từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, ngành CNĐT mới phát triển nhanh
chóng, góp phần không nhỏ vào những thành tựu chung của cả nước. Nhờ áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, tranh thủ đầu tư nước ngoài, chỉ trong
một thời gian tương đối ngắn, chúng ta đã sản xuất được nhiều sản phẩm điện tử tin
học- viễn thông phục vụ nhu cầu trong nước và bước đầu đã có xuất khẩu. Hiện nay,
ngành CNĐT Việt Nam được đánh giá là ngành có tiềm năng phát triển trong quá
trình hội nhập quốc tế cùng cả nước.
Thủ đô Hà Nội với vai trò là “ trái tim của cả nước, đầu não chính trị, hành
chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch
quốc tế” đã, đang và sẽ phải đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH nên ngành CNĐT
luôn được đặt trong số những ngành được ưu tiên phát triển. Nghị quyết 15-NQ/TW
của Bộ chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển ngành CNĐT Thủ Đô Hà


Nội trong thời gian 2001- 2010 ghi rõ: “ Tiếp tục phát triển công nghiệp có chọn
lọc, đột phá những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên
tiến, có hàm lượng chất xám cao…Trước mắt ưu tiên một số sản phẩm chủ lực
thuộc các ngành điện - điện tử – tin học, cơ kim khí, dệt – may, da dày, chế biến
thực phẩm và vật liệu mới”. Đại hội Đảng bộ lần thứ 8 tiếp tục khẳng định: “ Các
ngành công ngiệp chủ lực được xác định theo thứ tự: điện - điện tử – thông tin, cơ
kim khí, dệt may da dày, chế biến thực phẩm, nguyên vật liệu”.
Xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và xu thế chuyển giao công nghệ
nhanh dưới sức ép của tốc độ phát triển khoa học công nghệ hiện nay đã tác động
mạnh đến sự phát triển của thị trường hàng điện tử ở mỗi quốc gia và trên toàn thế
giới. Điều này vừa tạo thuận lợi, vừa gây khó khăn cho sự phát triển của ngành
CNĐT Hà Nội. Một mặt Hà Nội có thể xây dựng chiến lược “đi tắt đón đầu” trong
công nghệ để nhanh chóng xây dựng hàng điện tử vững mạnh, có sức cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới. Nhưng mặt khác, thị trường hàng điện tử Hà Nội còn
non trẻ, các sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao, có nguy cơ bị thao túng bởi thị
trường hàng điện tử nước ngoài.
Do đó, việc đánh giá đúng thực trạng của ngành CNĐT Hà Nội để từ đó có
những giải pháp đầu tư phát triển ngành là một vấn đề hết sức cần thiết. Vì vậy nên
em chọn đề tài: “ Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy sự phát triển của ngành công
nghiệp điện tử Hà Nội ” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Đề tài được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
Chương II: Thực trạng ngành CNĐT Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy sự phát triển ngành CNĐT Hà Nội
Do vấn đề đầu tư phát triển ngành CNĐT Hà Nội là một vấn đề mới và phức tạp,
điều kiện về số liệu chưa được cung cấp một cách đầy đủ. Mặt khác, do trình độ và
thời gian hạn chế nên đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ bao gồm:
Đối tượng nghiên cứu: Là ngành CNĐT Hà Nội bao gồm các lĩnh vực sản xuất
thiết bị (điện tử dân dụng, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, công nghệ thông tin
và viễn thông), sản xuất vật liệu, linh phụ kiện điện tử, các sản phẩm phần mềm, các

dịch vụ (tin học, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, viễn thông).
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
trong lĩnh vực điện tử – tin học – viễn thông thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa
bàn Hà Nội (các doanh nghiệp trung ương và địa phương).
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu xót nhất định.
Kính mong được các thày cô và các bạn góp ý để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thày cô giáo trong bộ môn, đặc biệt là thầy giáo, Thạc
sỹ Từ Quang Phương – Trưởng bộ môn kinh tế đầu tư đã trực tiếp hướng dẫn, giúp
em hoàn thành bài nghiên cứu khoa học này.


Chương I
Những vấn đề lý luận chung
I- những vấn đề lý luận chung về đầu tư
1- Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư, chúng ta có
thể có các cách hiểu khác nhau về đầu tư (còn gọi là hoạt động đầu tư).
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định tronh tương
lai lớn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự gia tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài
sản vật chất (Nhà máy, đường xá…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc
với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đạt được trên đây, những kết quả là tài sản vật chất,tài sản trí
tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không
chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không
chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế đều được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp thì đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn

các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi một quốc gia thì chỉ có các hoạt động sử
dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân
lực và tài sản trí tuệ hoặc duy trì hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có
thuộc phạm trù đầu tư phát triển.
Từ đây, ta có định nghĩa về đầu tư phát triển như sau:
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất, lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài
sản này nhằm duy trì tiềm lực của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho
nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong
xã hội.
2- Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư
khác là
Thứ nhất: Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê
động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Tiền, vật tư, lao động cần huy động cho
một công cuộc đầu tư là rất lớn và phải sau một thời gian khá dài thực hiện đầu tư
chúng mới phát huy tác dụng.
Thứ hai:Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả
của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy
ra.
Thứ ba:Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ
sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và
do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố
không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.
Thứ tư: Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài,
nhiều năm tháng, có khi hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công
trình kiến trúc nổi tiếng thế giới như kim tự tháp Ai Cập, Vạn Lý Trường Thành ở

Trung Quốc, Ăngco Vat ở Campuchia Điều này nói lên giá trị to lớn của các thành
quả đầu tư phát triển
Thứ năm: Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây
dựng sẽ hoạt động ngay tại nơi nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa
hình, thời tiết tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác
dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Thứ sáu: Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh
hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của
không gian.
Do đó, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội
cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị.
II- Đầu tư phát triển ngành Công nghiệp điện tử
1.Khái quát về ngành CNĐT
1.1– Khái niệm công nghiệp điện tử
Điện tử – viễn thông – công nghệ thông tin là 3 lĩnh vực công nghiệp riêng biệt
nhưng lại có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau và thường được nghiên cứu,
đánh giá dưới góc độ như một ngành công nghiệp chung – công nghiệp điện tử.
Như vậy, công nghiệp điện tử được xác định là ngành công nghiệp sản xuất thiết
bị (điện dân dụng, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, công nghệ thông tin, viễn
thông); sản xuất vật liệu, linh phụ kiện điện tử, các sản phẩm phần mềm; các dịch
vụ (tin học, điện tử công nghiệp và chuyên dụng, viễn thông).
1.2- Đặc điểm của ngành CNĐT
- Đặc điểm về công nghệ: CNĐT là ngành có công nghệ phát triển với tốc độ
rất nhanh. Công nghệ điện tử là động lực thúc đẩy và phát huy tác dụng của nhiều
công nghệ khác, kéo theo những biến đổi mang tính dây chuyền, vì vậy được coi là
công nghệ cơ sở của xã hội hiện đại. Không có công nghệ điện tử sẽ không có công
nghiệp hoá ở trình độ hiện nay. CNĐT luôn gắn liền với cách mạng khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ cao. Nghành công nghiệp này cần lượng vốn rất lớn để
đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất, thiết kế sản phẩm, ngiên cứu – triển khai và đổi
mới công nghệ nên hầu hết các sản phẩm điện tử nổi tiếng trên thế giới đều thuộc về

các công ty, tập đoàn sản xuất mạnh về công nghệ (Sony, LG, Fujitsu, Toshiba,
Masushita…).
- Đặc điểm về sản phẩm: Sản phẩm của ngành CNĐT có hàm lượng chất xám
cao, cơ cấu sản phẩm luôn thay đổi, giá trị phần mềm và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao.
Chu kỳ sống của sản phẩm CNĐT ngày càng rút ngắn do tốc độ phát triển của công
nghệ.
- Đặc điểm về thị trường: Các tập đoàn, các hãng điện tử lớn luôn cạnh tranh
gay gắt trong việc chiếm lĩnh thị trường, đồng thời lại phải liên kết, hợp tác với
nhau để lập nên mạng lưới sản xuất, kinh doanh trên phạm vi thế giới.
1.3 – Phân loại sản phẩm công nghiệp điện tử
Các sản phẩm CNĐT được phân loại theo nhiều cách khác nhau, thông
thường chúng được phân thành:
- Thiết bị điện tử dân dụng: Là các thiết bị điện tử được sử dụng trong đời sống
sinh hoạt gia đình như: radio, máy thu hình, radio cassette, đầu video, đầu CD,
VCD, DVD…
- Thiết bị điện tử công nghiệp và chuyên dụng: Là các thiết bị điện tử dùng cho
các ngành công nghiệp, giao thông – vận tải, y tế, hải quan, văn hoá, giáo dục, an
ninh quốc phòng, ngiên cứu khoa học…
- Thiết bị công nghệ thông tin (CNTT): Bao gồm các loại máy tính, thiết bị
mạng, thiết bị ngoại vi…
- Thiết bị viễn thông: Là tất cả các thiết bị điện tử dùng để phục vụ liên lạc, trao
đổi, truyền tin…
- Phần mềm: Bao gồm tất cả các loại phần mềm hệ thống, phần mềm nhúng,
phần mềm ứng dụng…sử dụng trong các loại máy tính, máy móc chuyên dụng, thiết
bị viễn thông, thiết bị điện tử dân dụng…
- Thiết bị công nghệ CNĐT thuộc công nghiệp chế tạo máy công cụ cho CNĐT
Ngoài ra, theo giác độ của các nhà sản xuất còn có thể phân loại như sau:
- Vật liệu điện tử: Gồm vật liệu bán dẫn, vật liệu quang tử, vật liệu gốm, vật
liệu kim loại hay hợp kim, vật liệu polyme, vật liệu hữu cơ
- Linh kiện và cấu kiện điện tử: Gồm linh kiện thụ động, linh kiện tích cực, các

loại mạch tích hợp (IC), linh phụ kiện có liên quan nhiều đến cơ khí, nhựa và các
ngành công nghiệp khác, đèn hình, các bộ hiển thị, các bảng mạch điện tử…
- Các thiết bị phần cứng điện tử, tin học viễn thông.
- Các phần mềm bao gồm phần mềm nhúng, phần mềm hỗ trợ thiết kế, phần
mềm hỗ trợ quản lý, các phần mềm tiện ích, các phần mềm giải trí, phần mềm hỗ trợ
giáo dục, đào tạo, y tế…
2.Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành CNĐT
CNĐT là ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân của nhiều
nước trên thế giới. CNĐT đặc biệt là CNTT đang thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển
của nhiều ngành kinh tế khác, trở thành cơ sở nền tảng trong các lĩnh vực kinh tế –
an ninh – quốc phòng của mọi quốc gia.
CNĐT được coi là một trong những ngành công nghiệp có tính cạnh tranh cao và
góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng kinh tế. Nó ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế
toàn cầu, tác động mạnh đến nhiều lĩnh vực như sản xuất chế tạo, tài chính ngân
hàng, thương mại, dịch vụ, y tế, giáo dục, vận tải, môi trường…Có thể coi CNĐT và
CNTT là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai và mang tính toàn cầu hoá. Do
vậy, hầu hết các nước công nghiệp phát triển và phần lớn những nước đang phát
triển đều có những chính sách quốc gia nhằm đầu tư phát triển CNĐT; trong đó phải
kể đến các nước đi đầu như Mỹ, EU, Nhật Bản và những nước áp dụng thành công
như NiCs, ASEAN, Trung Quốc, ấn Độ…
Ngành CNĐT đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế; tiếp thu nhanh
những tiến bộ trong khoa học – công nghệ – kỹ thuật; hiệu quả mang lại cao, giá trị
gia tăng lớn và không bị hạn chế phát triển như một số ngành khác. Sự phát triển
của CNĐT thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, kéo theo sự phát triển của các ngành
công nghiệp và dịch vụ khác, tạo cơ sở thu hút lao động, giải quyết việc làm. Theo
đánh giá chung về 20 nhóm ngành công nghiệp trên thế giới thì CNĐT đứng đầu về
thu hút lao động, đứng thứ hai về doanh thu trên vốn (sau ngành luyện kim), đứng
thứ ba về doanh thu tuyệt đối (sau ngành lọc dầu và ô tô). Ngoài ra, CNĐT cũng
chính là ngành tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời
là một ngành sản xuất chủ lực trong nền kinh tế tri thức.

Sự phát triển ngành CNĐT ở các nước còn có vai trò quan trọng trong cơ cấu,
giá trị của GDP và tổng sản lượng của ngành chế tạo.
Riêng đối với các nước đang phát triển, CNĐT có một vai trò rất quan trọng bởi
vì:
- Góp phần thúc đẩy sự tham gia của các nước này vào quá trình toàn cầu hoá
sản xuất và thương mại. Nó góp phần làm tăng dung lượng thông tin trong các hoạt
động kinh tế, linh hoạt hoá các giao dịch kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, nâng
cao hiệu quả trong quản lý sản xuất, kinh doanh, tạo nên sự chuyên môn hoá và mở
rộng quy mô kinh tế;
- Làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc chuyển đổi các
ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá thông thường sang sản xuất các sản phẩm
công nghiệp có hàm lượng chất xám cao.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giảm những tác động xấu đến môi
trường trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá.
3.– Nội dung đầu tư phát triển ngành CNĐT
3.1 - Đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, cơ sở hạ tầng
Đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động của các
ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp điện tử nói riêng bởi hai lý do
sau:
Thứ nhất: chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn đầu tư.
Thứ hai, nó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm – hoạt động chính của mỗi ngành.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò cực kỳ quan trọng nếu
không nói là quyết định đối với phần lợi nhuận thu được của ngành. Các hãng
thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi
để mở rộng sản xuất, hoặc vì họ có thể giảm bớt chi phí bằng cách chuyển sang
những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn.
Ta đi xem xét đầu tư vào cơ sở hạ tầng xây dựng. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
là một trong những hoạt động được thực hiện đầu tiên của mỗi công cuộc đầu tư (trừ
trường hợp đầu tư chiều sâu). Hoạt động đó bao gồm các hạng mục xây dựng nhằm
tạo điều kiện và đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động

được thuận lợi an toàn.
Để thực hiện tốt các hạng mục này, trước tiên phải tính đến các điều kiện thuận
lợi, khó khăn của vị trí địa lý, địa hình, địa chất…đồng thời phải căn cứ vào yêu cầu
về đặc tính kỹ thuật của máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất, cách tổ
chức điều hành, nhu cầu dự trữ, số lượng công nhân…
Các hạng mục được chia thành các nhóm cơ bản sau:
- Các phân xưởng sản xuất chính, phụ.
- Hệ thống điện.
- Hệ thống nước
- Hệ thống giao thông, bến đỗ, bốc dỡ hàng
- Hệ thống thắp sáng, điều hoà không khí
- Văn phòng, phòng học, tường rào
- Nhà ăn, khu giải trí, vệ sinh
- Hệ thống sử lý chất thải và bảo vệ môi trường
- Hệ thống thông tin liên lạc
Đối với mỗi hạng mục công trình, phải xem xét, cân nhắc và quyết định : diện
tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc (bê tông cốt thép, gạch, khung thép…), kích thước
và chi phí…
Về mặt chi phí: thông thường để tính toán chi phí xây dựng, người ta dựa trên chi
phí một đơn vị xây dựng, từ đó tính cho toàn bộ diện tích của hạng mục.
CFi = Pi * Si
Trong đó: CFi là chi phí xây dựng của hạng mục i
Pi là giá thành một đơn vị diện tích của hạng mục i
Si là diện tích xây dựng của hạng mục i
Khi đó, tổng chi phí toàn bộ hạng mục xây dựng là :
CF =  CFi, i = 1,n
Riêng hệ thống điện nước và các bộ phận khác có tỷ lệ máy móc thiết bị lớn thì
tính theo giá thành của máy móc thiết bị cùng với các chi phí phụ khác.
Cùng với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, ngành CNĐT còn phải dành một số
lượng vốn cực lớn cho đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ. Trong

điều kiện ngày nay với sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ đặc biệt
trong lĩnh vực công nghiệp điện tử thì việc lựa chọn đầu tư vào loại máy móc công
nghệ nào phải được thực hiện dựa trên các nguyên tắc, tiêu chuẩn sau:
- Việc đầu tư đó phải cho phép sản xuất ra các sản phẩm có tính cạnh
tranh cao
- Việc đầu tư phải cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh của doanh nghiệp, ngành, của vùng.
- Giá cả và trình độ công nghệ phải phù hợp với xu thế phát triển và
năng lực của doanh nghiệp ngành đó.
Máy móc thiết bị được liệt kê và sắp xếp thành các nhóm sau:
- Máy móc thiết bị chính trực tiếp sản xuất
- Thiết bị phụ trợ
- Thiết bị vận chuyển, bốc xếp, băng chuyền
- Máy móc và thiết bị đo lường, kiểm tra chất lượng
- Thiết bị an toàn, bảo hộ lao động
- Các loại xe đưa đón công nhân, xe công nghệ, xe tải
Về mặt chi phí, giá của máy móc thiết bị là một phạm trù cụ thể nhưng lại rất khó
xác định bởi có nhiều thành phần, đó là chi phí sản xuất, chi phí mua bằng sáng chế,
bí quyết kỹ thuật, tên hiệu thương mại, chi phí huấn luyện chuyên môn, chi phí lắp
đặt, vận chuyển…Phần khó xác định nhất là chi phí bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật. Hơn nữa, chẳng có ý nghĩa gì khi mua được máy móc thiết bị giá rẻ nhưng
đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không hiệu quả. Chính vì vậy, khi mua
sắm trang bị máy móc thiết bị đòi hỏi phải có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực công
nghệ. Để có thể mua được thiết bị như mong muốn, thông thường các doanh nghiệp
dùng phương thức đấu thầu.
3.2- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định và thể hiện trình độ văn minh của nền
sản xuất xã hội. Mác đã từng nói: “ Trình độ sản xuất của một nền kinh tế không
phải ở chỗ xã hội đó sản xuất ra cái gì mà là xã hội đó dùng cái gì để sản xuất”.
Cùng với việc đề cao vai trò của lực lượng sản xuất, Lênin khẳng định: “ Lực lượng

sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân và người lao động”.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, người lao động
không những là một yếu tố của quá trình đó mà còn là yếu tố quan trọng, tác động
có tính chất quyết định vào việc phát huy đồng bộ và có hiệu quả các yếu tố khác.
Nếu chúng ta có nhà xưởng, có nguyên vật liệu, có máy móc thiết bị nhưng thiếu
bàn tay công nghệ người thì chúng ta cũng không thể có sản phẩm cung cấp cho xã
hội. Như vậy, nguồn lực là một tài sản quý giá của mỗi doanh nghiệp. Do vậy, trong
quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp phải phát huy được hiệu quả nguồn nhân lực
của mình, đồng thời ngày càng nâng cao chất lượng cũng như số lượng nguồn nhân
lực của mình.
Hoạt động quản lý nhân lực của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động tuyển
dụng, đào tạo, sử dụng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao…Các hoạt động này có thể
xen kẽ hay tách biệt, có thể trước, có thể sau tuỳ theo đặc điểm nghề nghiệp và quy
mô của doanh nghiệp.
Thứ nhất là công tác tuyển dụng, công việc này không đòi hỏi nhiều chi phí (vì
thông thường chi phí này do người tham gia tuyển dụng bỏ ra) nhưng lại đòi hỏi
khâu chuẩn bị hết sức chu đáo, tỉ mỉ bởi mức độ ảnh hưởng của nó đến hoạt động
tương lai của doanh nghiệp; việc chuẩn bị từ thông báo tuyển dụng, ấn định các tiêu
chuẩn tuyển dụng và lựa chọn các phương thức phụ trợ cho việc tuyển dụng ( dùng
khoa triết tự, thi trắc nghiệm, thử thách chuyên môn…), lựa chọn ban tham mưu
tuyển dụng…Đối với một số doanh nghiệp có quy mô lớn, họ tuyển dụng các thanh
niên có kết quả tổng thể tốt và cho các thanh niên này làm 2 hay 3 năm ở các bộ
phận khác nhau để giúp họ thành thạo với guồng máy của doanh nghiệp trước khi
chính thức bổ nhiệm vào chuyên ngành chỉ định.
Thứ hai là công tác sử dụng. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp biết sử dụng đúng người, đúng việc,
phát huy hết khả năng của người lao động thì chắn chắn đem lại hiệu quả tốt. Ngược
lại, doanh nghiệp sẽ không phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực, thậm chí lại
chịu tác dụng ngược chiều đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Công tác này đòi hỏi ban lãnh đạo phải nắm sâu, sát năng lực các nhân viên

để có thể tạo môi trường thuận lợi cho họ phát huy tốt khả năng của mình và góp
phần vào sự phát triển của doanh nghiệp. ở đây cách nhìn của ban lãnh đạo được
đánh giá rất cao.
Thứ ba là công tác đào tạo. Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhất
của hoạt động đầu tư nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Đào tạo quyết định phẩm
chất chính trị, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của người lao động. Đào tạo của
doanh nghiệp có thể chọn cách đào tạo bên ngoài do các tổ chức chuyển về, đào tạo
đảm trách hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ. Về đối tượng đào tạo được chia
thành ba đối tượng:
- Đào tạo lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ chuuyên môn
- Đào tạo đội ngũ cán bộ ngiên cứu khoa học công nghệ
- Đào tạo nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân
Có thể nói, lực lượng quản lý trong doanh nghiệp không đông về mặt số lượng
nhưng lại có tính chất quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Trước đây, một
quan niệm đã ăn sâu vào trong xã hội đó là cán bộ quản lý là người đi lên từ công
nhân, người lao động. Chỉ những người có tích luỹ kinh nghiệm thì mới quản lý
được. Quản lý khi đó không được coi là một nghề. Đó là quan niệm hết sức lỗi thời,
đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường, người quản lý trong mỗi doanh nghiệp không chỉ
thực hiện những công việc “ thành tên” mà còn phải năng động, sáng tạo trong
những công việc, những tình huống khó khăn, nhạy cảm. Do đó nếu người quản lý
không học tập, không nâng cao nhận thức, trình độ của mình thì khó có thể đứng
vững và đi lên trong nền kinh tế thị trường. Việc đầu tư cho đào tạo cán bộ quản lý
thông qua các chi phí ch tham gia hội thảo, tham gia thực tế, đào tạo ngắn hạn, dài
hạn, nghiệp vụ quản lý…Đây là những chi phí không lớn nhưng hết sức quan trọng.
Đào tạo cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học: Với việc khoa học phát triển
như vũ bão, các doanh nghiệp cần phải thích nghi với điều kiện mới để có thể cạnh
tranh và vươn lên. Việc đầu tư cho cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học là một
trong những nhiệm vụ vô cùng cấp bách đặc biệt là đối với các doanh nghiệp CNĐT
trong điều kiện hiện nay. Họ sẽ là người đem lại tri thức mới và đưa tiến bộ khoa

học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần quan trọng cho sự lớn
mạnh không ngừng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên bỏ ra một phần thích đáng
trong lợi nhuận của mình để đầu tư cho hoạt động này.
Đào tạo tay nghề cho công nhân. Đây là lực lượng chịu ảnh hưởng mạnh của
công tác đào tạo cả về chất lượng lẫn số lượng. Đào tạo công nhân có thể diễn ra ở
trường đào tạo, cũng có thể đào tạo ngay khi lao động sản xuất. Trong giai đoạn có
sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ và sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay
đòi hỏi tay nghề của người công nhân phải vững và kịp thời thích ứng được với sự
phát triển của khoa học. Điều đó đòi hỏi quá trình đào tạo lại, đào tạo nâng cao tay
nghề của công nhân là tất yếu khách quan.
3.3- Đầu tư cho công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Một doanh nghiệp có mặt hàng tốt nhưng không biết quảng bá mặt hàng của mình
cho mọi người biết thì việc tiêu thụ sẽ gặp nhiều khó khăn, sản xuất không được mở
rộng, doanh nghiệp chỉ dậm chân tại chỗ trong khi các doanh nghiệp khác nhờ làm
tốt công tác tiếp thị, xúc tiến, mở rộng thị trường liên tục phát triển. Điều đó cho
thấy công tác này là cực kỳ quan trọng, mang tính sống còn đối với mỗi doanh
nghiệp, nếu các doanh nghiệp không dành một phần thích đáng cho công tác này thì
sẽ bị đào thải bởi tính cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường.
Tỷ lệ đầu tư dành cho công tác này ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
vốn đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tư cho công tác này bao gồm đầu tư cho hoạt
động điều tra, ngiên cứu, mở rộng thị trường, đầu tư công tác tiếp thị, quảng cáo…
Đẩy mạnh hoạt động đầu tư cho các hoạt động marketing này chính là nhiệm vụ
hàng đầu của các doanh nghiệp điện tử hiện nay, qua đó giúp sản phẩm điện tử của
ta từng bước có mặt trên thị trường quốc tế, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
III- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và khu vực về phát triển CNĐT
1.Khái quát về quá trình phát triển CNĐT trên thế giới
Lịch sử ngành CNĐT trên thế giới trải qua các bước phát triển vượt bậc theo
từng thập kỷ: Thập kỷ 50, là thời kỳ phát triển công nghiệp máy tính cỡ lớn với
sự kiện Mỹ cho ra đời chiếc máy tính điện tử đầu tiên ( 1946) và phát minh ra

bang đèn bán dẫn ( 1952). Trong thập kỷ này, máy điện thoại, tổng đài nội bộ
cũng xuất hiện. Thập kỷ 60, là thời kỳ chế tạo máy tính điện tử có tính năng
cao, đặc biệt là việc Mỹ chế tạo ra mạch tổ hợp IC và máy tính thế hệ 360, 370.
Đây cũng là thời kỳ chế tạo ra máy thu hình đen trắng, máy thu hình màu, máy
thu sang vô tuyến, bảng bán dẫn, mạch tích hợp, bảng điốt, bảng in đèn hình.
Thập kỷ 70, CNĐT bắt đàu có sự tiến bộ vượt bậc khi Mỹ tung ra loại máy tính
sử dụng các mạch tích hợp cỡ lớn. Máy Fax, máy photocopy, bóng điốt phát
quang, bàn phím, thiết bị đầu cuối, monitor bắt đầu được đưa vào áp dụng
trong sản xuất và đời sống xã hội. Thập kỷ 80, CNĐT có sự tiến bộ kỹ thuật cực
kỳ nhanh với sự ra đời của máy in, máy vi tính, bộ điều khiển đĩa, máy quét
ảnh, thiết bị tiếp sang máy thu hình vệ tinh, thiết bị về tinh…Thập kỷ 90, là sự
phát triển các sản phẩm điện tử có độ tích hợp cao, hệ thống hoá, tăng thêm
tính năng, siêu nhỏ, nhẹ hơn và giá thập đi rất nhiều. Trong thập kỷnày, máy
tính xách tay được đưa vào sử dụng. Về công nghệ sử lý, tần số đã tăng từ 30
MHz (1989) lên 200 MHz (2000) và số bit đã tăng từ 32 Bits MPU thế hệ thứ 2
lên 64 Bits MPU thế hệ thứ nhất. Đặc biệt, từ cuối thập kỷ 90 với sự phát triển
vượt bậc của công nghệ Internet và thiết bị viễn thông di động đã mở ra một
thời kỳ mới trong sự phát triển của CNĐT và CNTT trên toàn thế giới, mở ra
cơ hội bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp tại các nước có trình độ kinh tế
khác nhau cùng tham gia nền kinh tế số.
2 – Chính sách phát triển CNĐT của một số nước
2.1 – Nhật Bản – Bảo hộ và khuyến khích mạnh mẽ ngành CNĐT
Chính phủ Nhật Bản đã thực thi nhất quán chính sách bảo hộ và khuyến
khích mạnh mẽ ngành CNĐT trong suốt 40 năm qua. Các luật khuyến khích ra
đời 7 năm một (1957, 1964, 1971, 1986) về bản chất là thực hiện bảo hộ và
khuyến khích phát triển ngành CNĐT, thể hiện ở các điểm sau;
- Chỉ định rõ vài chục sản phẩm từng thời kỳ
- Hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Những biện pháp khuyến khích đồng bộ cả về mặt “ cung” (trợ giúp tài chính,
thuế, nhập công nghệ gốc…) lẫn mặt “cầu” (kiểm soát nhập khẩu hàng hoá và đầu

tư nước ngoài ).
- Quan tâm đặc biệt đến hoạt động nghiên cứu – triển khai
Năm 2000, Thủ tướng mới của Nhật Bản đã chính thức đặt cuộc cách mạng IT lên
hàng đầu trong chiến lược kinh tế dài hạn của quốc gia. Cùng với cuộc khởi xướng
đầy tham vọng này của Chính Phủ, hàng loạt các công ty lớn của Nhật Bản đã có
những chuyển hướng rõ rệt nhằm nắm bắt cơ hội mới trong lĩnh vực mà xưa nay
Nhật Bản chưa có sự chú ý. Bước đầu họ đã có những thành công rõ rệt, nhất là
trong lĩnh vực thiết bị di động cầm tay (PDA, Web – TV )
2.2- Hàn Quốc – Phát huy vai trò quyết định của Chính Phủ
Tiến sau Nhật Bản hàng thập kỷ, học tập kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc phát
huy vai trò quyết định của Chính Phủ trong việc phát triển CNĐT. Trong 30 năm
(1967-1977), Chính Phủ đã ban hành 47 văn bản khuyến khích ngành điện tử, từ
hoạch định chiến lược, kế hoạch thực thi, gây quỹ thúc đẩy và đào tạo kỹ thuật viên,
chỉ định sản phẩm và lĩnh vực chủ lực, ưu tiên xuất khẩu, nâng cao mức tự cung
cấp, đầu tư sâu công nghệ …
Hàn Quốc có chính sách miễn thuế cho các xí nghiệp sản xuất điện tử trong nhiều
năm đầu hoạt động, và miễn thuế cho các khoản đầu tư vào sản phẩm mới, nghiên
cứu – triển khai. Hàn Quốc tổ chức hoàn hảo “ hệ thống nắm bắt sản phẩm” phục vụ
chiến lược xuất khẩu điện tử như ngành mũi nhọn.
2.3 - Đài Loan – Mở cửa cho đầu tư nước ngoài, xây dựng công nghiệp
tiên tiến toàn diện
Sau thời kỳ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (1950-1960), Đài Loan là công
trường lắp ráp thuê cho Nhật – Mỹ, thực hiện mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài; phối hợp với các công ty bản địa vốn được khuyến khích mạnh mẽ vào ngành
công nghệ cao và xuất khẩu (thông qua điều tiết thường xuyên của Chính Phủ) kể cả
xuất khẩu tại chỗ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tạo môi
trường tiêu thụ mạnh bán thành phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, chế tạo thiết bị tổng thành cho mọi thị trường. Giai đoạn 1980-1990,
Đài Loan thực hiện chính sách công nghiệp mới, ưu tiên điện tử một cách toàn diện.
Đến nay, Đài Loan đã thực sự là công trường tiên tiến – toàn diện của Châu

á về điện tử nói chung và đặc biệt mạnh về công nghiệp sản xuất bảng mạch
điện tử.
2.4- Trung Quốc – Công nghiệp rẻ – một lợi thế cạnh tranh
Sức cạnh tranh đặc biệt của các sản phẩm điện tử của Trung Quốc là giá rẻ. Nhân
công của Trung Quốc có giá rẻ vào loại bậc nhất trên thế giới. Điều kiện thu hút đầu
tư nước ngoài vào Trung Quốc hấp dẫn hơn nước ta và nhiều nước khác, nên dòng
tài chính nước ngoài vào Châu á chủ yếu dồn vào Trung Quốc.
Tuy nhiên, sản phẩm điện tử của Trung Quốc chưa có chất lượng thực sự cao.
Trong tổng giá trị 49 tỷ USD / Năm các mặt hàng điện tử tin học của Trung Quốc,
tỷ trọng xuất khẩu tương đối thấp, chỉ khoảng 6%.
2.5 – ấn Độ – Gia công phần mềm tiến tới xuất khẩu sản phẩm toàn diện
Từ đầu những năm 1980, Chính Phủ Ân Độ đã tập trung đầu tư và thực hiện
những chính sách ưu đãi đặc biệt cho ngành công nghiệp gia công và làm thuê dịch
vụ phần mềm cho nước ngoài, tiến tới tự mình thiết kế hoàn thiện trọn gói các sản
phẩm phần mềm xuất khẩu, đưa ngành công nghiệp phần mềm thực sự trở thành
một ngành công nghiệp mũi nhọn của nước này. Trong những năm 1990, mức tăng
trưởng trong xuất khẩu của ngành công nghiệp phần mềm đạt trung bình 56,21% /
năm, doanh số năm 1998 đạt 1,8 tỷ USD, đưa tỷ trọng xuất khẩu của công nghiệp
phần mềm chiếm tới 54,6% tổng xuất khẩu của toàn bộ ngành CNĐT, CNTT của ấn
Độ.
2.6 – Các nước ASEAN – CNĐT là ngành công nghiệp trọng điểm
Singapore có 1.500 công ty điện tử, trong đó có 643 công ty sản xuất phụ tùng,
linh kiện (công nghiệp phụ trợ) trực tiếp nhận vật liệu để xử lý tiếp, có tổng sản
lượng gần 36 tỷ USD / năm, trong đó 10 tỷ là hàng phụ tùng – linh kiện. Tốc độ
tăng trưởng 20 –30% / năm.
Malaysia chiếm vị trí thứ 2 trong ASEAN, sau Singapore về sản lượng hàng điện
tử, trị giá tới 19,61 tỷ USD, trong đó 14,5 tỷ là công nghiệp phụ trợ (phụ tùng, linh
kiện, kể cả phần do sản xuất mạch bán dẫn, chiếm 10 tỷ USD, còn lại là điện trở, tụ
điện, cuộn cảm, biến thế, mạch in, cấu kiện cơ khí chính xác, phụ tùng máy tính).
Kim ngạch xuất khẩu linh kiện bán dẫn của Malaisia đứng đầu ASEAN và thứ 3

thế giới sau Mỹ và Nhật.
Indonesia khởi đầu công nghiệp điện tử chậm hơn Singapore 1 thập kỷ, và cũng
bằng việc gia công lắp ráp thuê, sản lượng năm 1991 là 1 tỷ USD, nhưng đã tăng tốc
34% / năm; đến năm 1997 đạt 8,1 tỷ USD. Công nghiệp sản xuất các linh kiện phụ
trợ của Indonesia không lớn (87/ 485 công ty), chủ yếu là bán dẫn, mạch in, đèn
hình, tụ, trở, thạch anh, ferit, cuộn cảm, biến thế.
Philippin: CNĐT là ngành chủ chốt, có sản lượng chiếm tỷ trọng cao trong kim
ngạch xuất khẩu (năm 1998 đạt 25,23 tỷ USD, chiếm 58% kim ngạch xuất khẩu).
Cũng như Malaysia, ngành vật liệu – linh kiện bán dẫn của Philippin có vị trí cao
trong tổng sản lượng của nước này.
Thái Lan: CNĐT là ngành mũi nhọn ưu tiên phát triển (đạt giá trị 17,6 tỷ USD,
chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan). Công nghiệp sản xuất linh kiện bán
dẫn, điện trở, tụ điện, đèn hình, mạch in, cuộn cảm, biến thế, cơ khí, nhựa, phụ tùng
máy tính…phát triển mạnh; riêng sản lượng đĩa cứng đứng thứ hai thế giới.
3 – Một số bài học kinh nghiệm cho việc phát triển ngành CNĐT ở Việt Nam
và Hà Nội
Từ những kinh nghiệp của các nước như đã phân tích như trên, có thể rút ra một
số bài học kinh nghiệm để áp dụng vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng như sau:
- Vai trò của Chính Phủ: Chính Phủ đóng vai trò quan trọng trong phát triển
CNĐT, nếu Chính Phủ có những chính sách hỗ trợ phù hợp thì ngành CNĐT có thể
phát triển tốt (như kinh nghiệm của Nhật, Hàn, Malaysia), đặc biệt trong thời đại
ngày nay khi cần phát triển hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia, cần tiếp nhận
chuyển giao các công nghệ mới, công nghệ cao.
- Xây dựng một nền kinh tế định hướng xuất khẩu: Đối với các quốc gia có quy
mô thị trường nội địa không lớn như nước ta, chiến lược hướng về xuất khẩu giúp
cho các ngành công nghiệp (đặc biệt là ngành công nghệ cao như CNĐT) mở rộng
được quy mô hoạt động cũng như tiếp thu được các tiến bộ về khoa học công nghệ
của thế giới để phát triển.
- Chính sách ưu tiên phát triển CNĐT trong từng thời kỳ: Ngay cả quốc gia

hàng đầu về CNĐT như Nhật Bản cũng cần phải có những chính sách ưu tiên phát
triển CNĐT. Những chính sách này phải được thay đổi cho phù hợp với sự phát
triển chung của khu vực và thế giới. Đối với nước ta, CNĐT là một ngành công
nghiệp còn quá non trẻ nên rõ ràng cần phải có những quy định mang tính chất ưu
đãi đặc thù phù hợp với từng thời kỳ phát triển nhất định.
- Từng bước xây dựng nền tảng công nghệ cao: Đây là bài học của Hàn Quốc:
lúc đầu dựa vào công nghệ nước ngoài nhưng sau đó phải nhanh chóng vươn lên
làm chủ công nghệ và từng bước sáng tạo ra công nghệ mới. Có như vậy mới có thể
tạo dựng được một ngành CNĐT phát triển độc lập.
- Thu hút đầu tư nước ngoài: Từ một nước đi sau, để phát triển CNĐT thì thu
hút đầu tư nước ngoài có thể là công nghệ đường ngắn nhất. Đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng nhanh chóng của
ngành CNĐT các nước Đông Nam á. Thực tế là hầu hết những nhà sản xuất linh
kiện điện tử lớn hoạt động ở Thái Lan và Malaysia đều có nguồn vốn từ Nhật Bản
và Hàn Quốc. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã giảm đi đáng kể từ sau
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của các nước Đông Nam á nhưng bắt đầu có một
vài dấu hiệu khả quan hơn trong những năm gần đây. Đối với Việt Nam, cần đặc
biệt quan tâm thúc đẩy các nhân tố khuyến khích và có đối sách thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài có hiệu quả. Đối với Hà Nội cần có những ưu đãi mạnh hơn về giá
thuê đất, về hỗ trợ lao động…thì mới có thể thu hút ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
- Một nền giáo dục tiếp cận với các kiến thức tiên tiến của thế giới: Kinh
nghiệm của các nước cho thấy cần phải có sự định hướng giáo dục và đào tạo nhân
lực với các nội dụng tiên tiến. Cần đề ra các chương trình mục tiêu để đào tạo các
nhà quản lý cũng như để đào tạo kỹ năng, xây dựng một lực lượng lao động của
ngành CNĐT để đến năm 2010 có trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong
khu vực.
- Xác định và có chính sách hỗ trợ một số lĩnh vực ưu tiên trong ngành CNĐT:
Các nước đã thành công trong việc phát triển ngành CNĐT, đặc biệt là các nước đi
sau như Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN đều có mô hình riêng trong việc xác định

hướng ưu tiên phát triển CNĐT. Khi xem xét các đặc trưng của sản phẩm (cách thức
sản xuất, quy mô đầu tư …) và môi trường trong và ngoài nước (những nhân tố thúc
đẩy hoặc kìm hãm đầu tư ) có thể thấy 3 lĩnh vực chính mà Việt Nam cần tích cực
nỗ lực để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, đó là: sản xuất
linh phụ kiện (cả linh kiện điện tử lẫn phụ kiện cơ khí nhựa…), thiết bị và linh phụ
kiện ngành thông tin liên lạc, công nghiệp công nghệ thông tin (cả phần cứng và
phần mềm).
4-Tác động của sự phát triển kinh tế thế giới, xu thế hội nhập và hợp tác
quốc tế và hợp tác quốc tế tới sự phát triển ngành CNĐT Hà Nội
4.1 – Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
a – Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) và hiệp định ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung ( CEPT)
Ngành công nghiệp điện tử các nước ASEAN phát triển với tốc độ trung bình
khoảng 15%/ năm trong suốt 10 năm qua và đạt 116 tỷ USD vào năm 2001. Quy mô
sản xuất của khu vực này hiện nay bằng 1/ 2 giá trị sản xuất của Nhật Bản, nhưng
lại lớn hơn Hàn Quốc, Đài Loan và cả Trung Quốc. Khu vực này cung cấp 15%
hàng điện tử cho thị trường thế giới.
Hiệp định CEPT là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN trong việc giảm
thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống còn 0 – 5%, đồng thời loại bỏ
các hạn chế định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003 (riêng Việt Nam đến 1/1/2006). Chỉ khi CEPT
được hoàn thành thì khu vực mậu dịch tự do ASEAN mới thực sự được thành lập,
tạo điều kiện tăng cường trao đổi buôn bán trong một hệ khối thông qua việc loại bỏ
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực; thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài vào khu vực thông qua việc hình thành khối thị trường chung tự do
ASEAN.
Ngành CNĐT Việt Nam hiện nay vẫn được bảo vệ thông qua thuế suất thuế
nhập khẩu cao (20 – 60%). Tuy nhiên, thời gian bảo hộ của các mặt hàng điện tử –
tin học không còn nhiều. Đây là một thách thức rất lớn đối với ngành CNĐT Hà Nội
vì hiện nay xuất phát điểm của ngành còn thấp. Trong khi đó, hầu hết các nước

ASEAN đều có nền CNĐT tin học khá mạnh và đều được xếp vào lĩnh vực ưu tiên
phát triển và có tính cạnh tranh cao.
Tham gia AFTA tạo cơ hội lớn cho xuất khẩu sản phẩm điện tử Hà Nội nhưng lại
đặt sản xuất ngành điện tử trước thử thách cạnh tranh gay gắt mà nếu không có giải
pháp tổng thể sẽ đứng trước nguy cơ bị chiếm lĩnh cả thị trường nội địa.
4.2 – Tác động của chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO)
Song song với việc thực hiện chương trình AFTA/ CEPT, nhằm khuyến khích
các ngành sản xuất chế tạo, các nước ASEAN đã soạn thảo và thông qua chương
trình AICO. Chương trình này dành ưu đãi thuế quan 0- 5% và phi thuế quan ngay
lập tức cho các công ty tham gia chương trình hợp tác công nghiệp trong lĩnh vực
sản xuất chế tạo bảo đảm các điều kiện cần và đủ do AICO quy định (đó là: đang
hoạt động hợp pháp ở một nước ASEAN; có 30% cổ phần quốc gia; tham gia hợp
tác, chia sẻ nguồn lực, hỗ trợ công nghiệp với 1 hay nhiều công ty khác nhau đang
hoạt động hợp pháp ở các nước ASEAN để cùng sản xuất ra các sản phẩm trung
gian hoặc thành phẩm). Cho đến nay ở Việt Nam đã có 4 đơn xin gia nhập AICO,
nhưng mới có 1 đơn của Sony Singpore và Viettronic Tân Bình được phê chuẩn.
Riêng các doanh nghiệp của Hà Nội do chưa tận dụng được ưu thế của chương
trình AICO nên vẫn phải nhập khẩu linh kiện với thuế suất cao nên ảnh hưởng đến
giá thành sản phẩm. Đối với các nhà máy mới xây dựng nếu tận dụng được ưu thé
này sẽ dễ dàng hơn trong việc kêu gọi vốn đâù tư trực tiếp nước ngoài vì các doanh
nghiệp liên doanh nếu đủ điều kiện đủ 30% cổ phần của công ty Việt Nam vẫn được
tham gia chương trình AICO. Ngoài ra chương trình AICO còn thúc đẩy các đối tác
nước ngoài chuyển giao công nghệ cho công ty Việt Nam như trường hợp Sony
chuyển giao công nghệ cho Viêtronics Tân Bình.
4.3 - Tác động của sự kiện Trung Quốc gia nhập WTO
Sau 15 năm kiên trì đấu tranh và thương lượng, Trung Quốc đã chính thức gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Trung Quốc là quốc gia có ngành CNĐT phát
triển nhanh nhờ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài thông thoáng; thị trường nội
địa khổng lồ; giá lao động rẻ và sự phát triển của các đặc khu kinh tế. Theo đánh
giá, Trung Quốc hiện nay là nước sản xuất máy tính cá nhân lớn thứ 2 thế giới và

đứng thứ 3 thế giới về sản xuất điện thoại di động, chỉ sau Hàn Quốc và Nhật Bản.
Mức độ hiện đại của các mạng máy tính Trung Quốc không thua kém gì Mỹ. Mục
tiêu trong kế hoạch 5 năm lần thứ 10 của Trung Quốc là đến năm 2005 sẽ có nền
CNTT phát triển ngang tầm với các nước công nghiệp phát triển.
Hàng xuất khẩu của Trung Quốc trong đó có hàng điện tử, có sức cạnh tranh khá
cao nhờ giá rẻ, mẫu mã thường xuyên thay đổi hợp thị hiếu người tiêu dùng. Sau khi
được hưởng ưu đãi về thuế sẽ càng có sức cạnh tranh cao hơn hàng điện tử Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Trên thực tế, trong những năm qua Chính Phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều
chính sách thúc đẩy, hỗ trợ xuất khẩu. Việt Nam nằm kề với Trung Quốc nên đây sẽ
là thị trường ưu tiên của Trung Quốc. Vì vậy, các doanh nghiệp điện tử Việt Nam và
Hà Nội sẽ phải cạnh tranh gay gắt, khốc liệt với hàng hoá của Trung Quốc ngay trên
thị trường trong nước. Mặt khác, Trung Quốc là địa điểm đầu tư hấp dẫn nhờ các
chính sách thủ tục thông thoáng và giá thuê đất rẻ nên nguồn vốn đầu tư nước ngoài
vào CNĐT Việt Nam sẽ bị thu hút sang Trung Quốc nếu Chính Phủ Việt Nam
không có những thay đổi nhanh chóng trong chính sách.
Trung Quốc đã chính thức gia nhập WTO, như vậy cơ hội thâm nhập chiếm lĩnh
thị trường thế giới của hàng hoá Trung Quốc, trong đó có hàng điện tử ngày càng
cao. Đối với ngành CNĐT Việt Nam nói chung và CNĐT Hà Nội nói riêng, đây là
một thách thức rất lớn trong việc giữ vững thị trường trong nước và tiếp tục đẩy
mạnh xuất khẩu. Có thể nói, giai đoạn tới đây Trung Quốc sẽ là đối thủ cạnh tranh
chính của ngành CNĐT Việt Nam và Hà Nội.
4.4 – Tác động cả hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Mỹ là nước dẫn đầu trong phát minh công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ phần
mềm. Đặc điểm nổi bật của Mỹ là CNTT tham gia ngày càng sâu vào nền kinh tế,
sản lượng của ngành CNTT chiếm 8% GDP. Các khu công nghệ cao luôn được Mỹ
chú trọng. Hiện nay, Mỹ có khoảng 500 vườn ươm công nghệ phục vụ cho 7,795
công ty khác hàng.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được Quốc hội hai nước phê chuẩn và chính
thức có hiệu lực từ 10/12/2001 đã mở ra một cơ hội lớn cho sản xuất, xuất khẩu của

Việt Nam.
Do vậy, ngoài việc tiếp tục giữ vững và phát triển quan hệ hợp tác với một số
nước đã tham gia đầu tư vào lĩnh vực CNĐT như Nhật, Hàn, úc…Việt Nam cần
đặc biệt chú trọng hợp tác với các công ty, tập đoàn lớn của Mỹ – cường quốc hàng
đầu thế giới về công nghiệp điện tử. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, sau khi hiệp
định thương mại Việt – Mỹ đã có hiệu lực thì khả năng hợp tác này cao hơn rất
nhiều.




























Chương II
Thực trạng ngành CNĐT Hà Nội
I – Thực trạng về tình hình phát triển của ngành CNĐT Việt Nam
Ngành CNĐT Việt Nam được manh nha từ những năm 1960 nhưng chỉ mới hình
thành từ những năm 1970. Cơ sở sản xuất điện tử đầu tiên có quy mô công nghiệp
của nước ta được xây dựng vào năm 1975; đến năm 1980-1981 mới bắt đầu có hoạt
động lắp ráp máy thu thanh và máy thu hình đen trắng dạng SKD. Nhìn chung,
ngành CNĐT Việt Nam còn non trẻ, tiềm lực tài chính cũng như công nghệ sử dụng
lạc hậu so với thế giới.
Trong những năm gần đây, ngành CNĐT Việt Nam đã có tiến bộ đáng kể về tăng
trưởng giá trị sản xuất hàng năm. Tuy nhiên, mức tăng trưởng đáng kể chỉ diễn ra
trong một số ít sản phẩm lắp ráp như bản mạch in, bảng đèn hình…Giá trị sản xuất
ở khu vực kinh tế trong nước có sự suy giảm, nhất là các lĩnh vực sản xuất máy thu
hình, radio, thiết bị truyền thông (từ 1115,9 tỷ đồng năm 1995 xuống còn 776,8 tỷ
đồng năm 2000). Trong cơ cấu ngành CNĐT Việt Nam, giá trị sản xuất của khu vực
này cũng giảm từ 54,04% năm 1995 xuống còn 16,83% năm 2000. Trong khi đó,
giá trị sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng rất nhanh, từ 948,9 tỷ
đồng (chiếm 45,96% tỷ trọng ngành) năm 1995 lên 3839,6 tỷ đồng năm 2000
(chiếm 83,17%). Sự tăng trưởng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành CNĐT Việt Nam trong giai đoạn 1995-
2000.

Bảng: Giá trị sản xuất ngành CNĐT Việt Nam
Đơn vị: tỷ đồng
1995 1996 1997 1998 1999 2000
GTSX toàn ngành CN 103374

,7
118096
,6
134419
,7
151223
,3
168749
,4
195321,
4
GTSX ngành CNĐT 2092,7 3118,2 3315,9 3705,5 5696,1 9724,4
Tỷ trọng(%) 2,02 2,64 2,47 2,45 3,38 4,98
GTSX khu vực kinh tế trong
1115,9 1248,3 812,1 777,9 744,4 776,8
nước
GTSX khu vực có vốn
ĐTNN
948,9 1830,4 2466,1 2699,6 3249 3839,6
sản xuất máy thu hình,
radio, thiết bị viễn thông
2064,8 3078,7 3278,2 3477,5 3993,4 4616,4
sản xuất máy tính, thiết bị
văn phòng
27,9 39,5 37,7 228,0 1702,7 5108,0
Nguồn: Tổng cục thống kê

Các sản phẩm CNĐT Việt Nam hầu hết mang thương hiệu của nước ngoài như:
Sony, national, JVC, Toshiba, Aiwa, LG…Gần đây, từ năm 1999 trên thị trường đã
xuất hiện vài loại sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam như: TV, đầu VCD, DVD

của các công ty điện tử Hanel, Biên Hoà, Tân Bình…Ngoài ra, các mặt hàng như ổn
áp, tăng âm, loa, điện thoại lẻ, tổng đài điện tử của Tổng cục bưu điện sản xuất với
công nghệ không cao, số lượng không lớn, chủ yếu là phục vụ cho thị trường trong
nước, đáp ứng yêu cầu của đối tượng khách hàng ít tiền, vùng sâu, vùng xa.
Sản phẩm chủ yếu của ngành CNĐT Việt Nam là máy thu hình, radio, đèn hình …
Trừ một số doanh nghiệp liên quan đến thông tin, viễn thông được nhà nước đầu
tư mạnh để nhập khẩu trang thiết bị và công nghệ, nhìn chung, ngành CNĐT Việt
Nam được hình thành và phát triển chủ yếu từ lĩnh vực lắp ráp các thiết bị điện tử.
Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã hình thành nhưng quy mô nhỏ, chủ yếu
là làm các dịch vụ buôn bán, lắp ráp, sửa chữa, bảo hành. Vấn đề khó khăn hàng
đầu đối với các doanh nghiệp điện tử Việt Nam là vốn đầu tư đổi mới công nghệ để
nâng cao chất lượng sản phẩm.
Giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ cấu đầu tư vào ngành CNĐT Việt Nam
là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến 31/12/2002, cả nước có 22
dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNĐT đang hoạt động với tổng số vốn đăng
ký là 615 triệu USD, chiếm 1,8% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Số vốn
thực hiện của các dự án đầu tư vào ngành CNĐT đạt 60,5% tổng vốn đăng ký.
Nguồn vốn đầu tư chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước

×