Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

TIỂU LUẬN: Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần LILAMA 10 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.78 KB, 64 trang )





TIỂU LUẬN:

Hoàn thiện công tác lập kế
hoạch sản xuất tại công ty cổ
phần LILAMA 10




LỜI NÓI ĐẦU

Sản xuất là một trong những chức năng quan trọng nhất của doanh nghiệp,
là chức năng bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, là khởi điểm của mọi hoạt
động kinh tế. Do đó kế hoạch sản xuất là một yêu cầu tất yếu của mọi doanh
nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường nói chung và công ty cổ phần
LILAMA 10 nói riêng nhằm tối ưu hóa việc sử dụng những yếu tố có sẵn để sản
xuất một hay nhiểu sản phẩm đã định.
Công ty cổ phần LILAMA 10 là công ty thành viên trực thuộc Tổng công
ty lắp máy Việt Nam - một doanh nghiệp Nhà nước thành lập năm 1960 cho nhiệm
vụ khôi phục nền công nghiệp của đất nước. Trên chặng đường hình thành và phát
triển LILAMA 10 luôn khẳng định vị thế và vai trò của mình đã để lại dấu ấn trên
hàng trăm công trình, hạng mục công trình công nghiệp, dân dụng quan trọng của
quốc gia. Đạt được những thành công đó một phần lớn là do công ty rất coi trọng
công tác lập kế hoạch sản xuất, coi đó là kim chỉ nam giúp doanh nghiệp đạt được
những mục tiêu đạt ra.
Trong những năm gần đây, công tác kế hoạch hóa doanh nghiệp đặc biệt là
công tác lập kế hoạch sản xuất ở nước ta nói chung và tại công ty cổ phần


LILAMA 10 nói riêng đã có những thay đổi mạnh mẽ. Tuy nhiên sự đổi mới đó
vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện từ việc
lập kế hoạch sản xuất tổng thể đến kế hoạch chỉ đạo sản xuất, kế hoạch nhu cầu
vật liệu, kế hoạch nhu cầu công xuất và việc thực hiện kế hoạch.
Do vậy, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần LILAMA 10 tôi đã tìm
hiểu và đi sâu nghiên cứu về công tác lập kế hoạch sản xuất để thực hiện đề tài:
“ Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần LILAMA 10 ”
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận về kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty cổ phần
LILAMA 10
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất tại công ty
cổ phần LILAMA 10














CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH SẢN XUẤT TRONG DOANH
NGHIỆP
1.1. Tổng quan về kế hoạch trong doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm chung về kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về kế hoạch
Hiểu theo nghĩa chung nhất, kế hoạch là sự thể hiện mục đích, kết quả
cũng như cách thức, giải pháp thực hiện cho một hoạt động tương lai. Cách hiểu
tổng quát này đúng cho các loại kế hoạch, có thể là kế hoạch cho một hoạt động,
một công việc hay một dự án sắp sửa làm gọi là kế hoạch hoạt động. Cũng có thể
đó là kế hoạch cho sự phát triển trong tương lai của một cá nhân, gia đình hay
của một tổ chức kinh tế, xã hội gọi là kế hoạch phát triển một đơn vị, một địa
phương hay cả quốc gia. Nhưng dù là kế hoạch hoạt động hay kế hoạch phát triển
thì bản chất của công tác này chính là sự hướng tới tương lai.
Cụ thể hơn, kế hoạch là công việc xác định xem một quá trình phải làm
gì? Làm như thế nào? Khi nào làm? Ai sẽ làm? Và sâu hơn nữa là làm như thế để
làm gì?. Vì vậy để có kế hoạch cần phải tiến hành quá trình soạn lập. Tùy theo
quy mô, mức độ và tính chất của hoạt động để tổ chức quá trình soạn lập với các
mức độ khác nhau. Từ việc hình thành kế hoạch trong đầu óc, suy nghĩ, cũng có
thể là một cuộc trao đổi tập thể đến việc thể chế hóa quá trình soạn lập với các
bước khác nhau. Nhưng một kế hoạch ở bất kỳ quy mô, hình thức nào cũng hàm
chứa hai nội dung cơ bản là mục tiêu và cách thức, giải pháp thực hiện. Đối
tượng lập kế hoạch có thể là hoạt động của một cá nhân, gia đình, tập thể hay
doanh nghiệp, địa phương hoặc phạm vi lớn nhất là toàn bộ nền kinh tế.
Trên thực tế thường hay có sự nhầm lẫn giữa kế hoạch và kế hoạch hóa,
thậm chí còn đồng nhất hai khái niệm này và cho rằng kế hoạch hóa là quá trình
soạn lập kế hoạch, kết quả của quá trình kế hoạch hóa là tạo ra các văn bản dự
thảo về những dự định và giải pháp thực hiện trong tương lai. Nhưng thực chất,
kế hoạch và kế hoạch hóa là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Kế hoạch hàm
chứa những dự định về kết quả và giải pháp thực hiện trong tương lai, nhưng việc
xây dựng kế hoạch không được coi là mục đích của kế hoạch hóa, nó chỉ được
coi là bước đầu tiên của quy trình kế hoạch hóa. Mục đích của kế hoạch hóa là
làm thế nào để thực hiện được các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch, biến những
giải pháp, chương trình hành động đặt ra trong kế hoạch thành thực tế. Điều đó

có nghĩa là kế hoạch hóa còn nhấn mạnh đến các quá trình khác nữa, đó là quá
trình tổ chức, triển khai các hoạt động trên thực tế theo kế hoạch.
Trong cuốn “Giới thiệu về kế hoạch phát triển kinh tế trong thế giới thứ
ba” của Diana Conyers và Peter Hills thì cho rằng: kế hoạch hóa là một quá trình
liên tục bao gồm việc đưa ra các mục tiêu cần đạt tới trong tương lai; lựa chọn và
quyết định các phương pháp khác nhau trong tổ chức, sử dụng hiệu quả nguồn
lực sẵn có nhằm hướng tới việc thực hiện mục tiêu đặt ra cho tương lai.
Theo quan điểm của OECD thì: “kế hoạch hóa được hiểu là các hoạt động
nhằm tạo ra và thực thi kế hoạch, bao gồm thiết kế ra, vạch ra từ trước một kế
hoạch để xây dựng và thực thi” (OECD, 1971)
Theo PGS.TS Ngô Doãn Vịnh viện trưởng viện chiến lược phát triển (bộ
KH&ĐT) cho rằng: “ Nói một cách đơn giản kế hoạch hóa chính là làm cho công
việc diễn ra một cách có kế hoạch. Cụ thể hơn, nói kế hoạch hóa tức là nói đến
lập kế hoạch và biến kế hoạch thành thực tế cuộc sống đối với một công việc cụ
thể hay đối với một hệ thống nhất định”.
Các nhận định trên đề phản ánh: (1) kế hoạch hóa chính là một phương
thức quản lí nền kinh tế bằng mục tiêu; (2) Kế hoạch hóa kinh tế quốc dân bao
gồm ba mặt công tác: công tác xây dựng kế hoạch; công tác lãnh đạo và tổ chức
thực hiện kế hoạch, công tác theo dõi kiểm tra, đánh giá thực hiện kế hoạch.
Trong từ điển bách khoa Việt Nam “kế hoạch hóa là phương thức quản lý
vĩ mô nền kinh tế quốc dân của nhà nước theo mục tiêu, là hoạt động của con
người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên, đặc biệt
là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lí các đơn vị kinh tế, các ngành, các lĩnh
vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những mục tiêu thống nhất, dự kiến
trước phương hướng, cơ cấu, tốc độ phát triển và có những biện pháp tương ứng
đảm bảo thực hiện, nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao”. (trang 469 từ điển
Bách khoa Việt Nam 2 – NXB từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002)
Với khái niệm này kế hoạch hóa nền kinh tế được hiểu theo góc độ thực
hiện, bao gồm các hoạt động: (1) soạn lập kế hoạch (xác định mục tiêu, chỉ tiêu
phát triển và hệ thống giải pháp chính sách áp dụng trong thời kì kế hoạch); (2) tổ

chức thực hiện kế hoạch (quá trình tổ chức phối hợp hoạt động của các bên, sử
dụng các chính sách, giải pháp nhằm khai thác, huy động và sử dụng nguồn lực
trong quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch); (3) theo dõi, kiểm tra, đánh giá và
điều chỉnh kế hoạch với nhứng yếu tố mới phát sinh trong môi trường kinh tế
(quá trình theo dõi thường xuyên hoạt động của hệ thống kinh tế quốc dân, đánh
giá tình hình thực hiện mục tiêu kế hoạch và tác động của kế hoạch đến phát triển
kinh tế xã hội, bổ sung và điều chỉnh kế hoạch trong kỳ hoặc kỳ kế hoạch sau).
Như vậy, kế hoạch và kế hoạch hóa là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Các đối tượng liên quan đến công tác lập kế hoạch cần phải hiểu rõ vấn đề này để
tránh cho công tác kế hoạch kết thúc bằng sự ra đời của một bản kế hoạch trên
giấy, còn các mục tiêu kế hoạch thì không thực hiện được.
1.1.1.2. Khái niệm về kế hoạch cấp doanh nghiệp
Kế hoạch là hoạt động của con người trên cơ sở nhận thức và vận dụng các
quy luật xã hội và tự nhiên đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức, quản lý các
đơn vị kinh tế – kỹ thuật, các ngành, các lĩnh vực hay toàn bộ nền sản xuất xã hội
theo mục tiêu thống nhất.
Kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một phương
thức quản lý doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm toàn bộ các hành vi can
thiệp một cách có chủ định của các nhà lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp vào các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Như vậy, Kế hoạch trong doanh nghiệp là thể hiện kỹ năng tiên đoán mục
tiêu phát triển và tổ chức quá trình thực hiện mục tiêu đề ra.
1.1.1.3. Nguyên tắc, chức năng của kế hoạch doanh nghiệp.
a. Chức năng của kế hoạch doanh nghiệp
Kế hoạch doanh nghiệp là một công cụ ra quyết định nên nó luôn giữ một vị
trí quan trọng trong hệ thống quản lý ở tầm vĩ mô, vị trí của nó được thể hiện trong
các chức năng tiềm ẩn sau:
Thứ nhất, là chức năng ra quyết định. Kế hoạch cho phép xây dựng quy trình
ra quyết định và phối hợp các quyết định. Kế hoạch tạo nên một khuôn khổ hợp lý
cho việc ra quyết định, chức năng này là một trong những điểm mạnh của hệ thống

kế hoạch hoá trong doanh nghiệp.
Thứ hai là chức năng giao tiếp: Kế hoạch tạo điều kiện cho việc giao tiếp
giữa các thành viên của ban lãnh đạo, cho phép lãnh đạo các bộ phận khác nhau
phối hợp xử lý các vấn đề dài hạn, bộ phận kế hoạch cũng thu lượm được từ các bộ
phận nghiệp vụ các triển vọng trung hạn và chuyển tới các bộ phận khác.
Thứ ba là chức năng quyền lực: Việc công bố một quy trình kế hoạch hợp lý
và kế hoạch là một trong những phương tiện để khẳng định tính đúng đắn của các
định hướng chiến lược đã chọn, quy trình kế hoạch có thể được xem là một trong
những phương tiện mà người lãnh đạo nắm giữ để định hướng tương lai của doanh
nghiệp và thực hiện sự “thống trị” của họ.
b. Các nguyên tắc kế hoạch doanh nghiệp.
Nguyên tắc kế hoạch xác định tính chất và nội dung hoạt động kế hoạch của
đơn vị kinh doanh tuân thủ đúng các nguyên tắc của kế hoạch tạo ra điều kiện tiền
đề cho việc nâng cao hiệu quả và giảm thiểu tiêu cực có thể có trong hoạt động của
doanh nghiệp.
Các nguyên tắc cơ bản của kế hoạch doanh nghiệp:
Thứ nhất là nguyên tắc thống nhất: Nguyên tắc thống nhất yêu cầu bảo đảm
sự phân chia và phối hợp chặt chẽ trong quá trình xây dựng, triển khai tổ chức thực
hiện kế hoạch giữa các cấp, các phòng ban trong một doanh nghiệp thống nhất.
Thứ hai là nguyên tắc tham gia: Đây là nguyên tắc có quan hệ mật thiết với
nguyên tắc thống nhất. Nguyên tắc này có nghĩa là mỗi thành viên của doanh
nghiệp đều tham gia những hoạt động cụ thể trong công tác kế hoạch hoá, không
phụ thuộc vào nhiệm vụ và chức năng của họ. Công tác kế hoạch có sự tham gia
của mọi thành phần trong doanh nghiệp sẽ mang lại những lợi ích sau:
- Mỗi thành viên của doanh nghiệp có hiểu biết sâu sắc hơn về doanh nghiệp
của mình vì vậy nếu tham gia trong công tác kế hoạch họ sẽ nhận được thông tin
một cách chủ động hơn và việc trao đổi thông tin sẽ dễ dàng hơn.
- Sự tham gia sẽ dẫn đến việc kế hoạch của doanh nghiệp trở thành kế hoạch
của chính người lao động. Người lao động tham gia vào việc thực hiện các mục
tiêu kế hoạch chính là đem lại sự thoả mãn nhu cầu này cho chính bản thân họ.

- Cho phép người trực tiếp tham gia vào công việc kế hoạch phát huy tính chủ
động của mình với hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ ba là kế hoạch phải mang tính linh hoạt. Do nhiều bất định trong tương
lai và sai lầm có thể có ngay cả trong các dự báo thông thái nhất. Nội dung của
nguyên tắc này được thể hiện
- Cần có nhiều phương án kế hoạch.
- Ngoài kế hoạch chính cần xây dựng những kế hoạch dự phòng, kế hoạch
phụ để có thể tạo dựng trong kế hoạch một khả năng thay đổi phương hướng khi
những sự kiện không lường trước được có thể xảy ra.
- Cần phải xem xét lại các kế hoạch một cách thường xuyên để giúp kế hoạch
không xa dời hiện tại.
1.1.1.4. Quy trình kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
Quy trình kế hoạch có thể hiểu là quy trình bao gồm các bước tuần tự, cho
phép vạch ra các mục tiêu tại những thời điểm khác nhau trong tương lai, dự tính
các phương tiện cần thiết và tổ chức triển khai sử dụng các phương tiện nhằm đạt
các mục tiêu.
Một trong những quy trình được áp dụng rộng rãi ở các nước kinh tế thị
trường phát triển có tên là quy trình quy trình P.D.C.A
Điều chỉnh(ACT) Lập kế hoạch(Plan)





Kiểm tra(check) Thực hiện(Do)
Theo sơ đồ này, quy trình kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm các bước:
Bước 1: Soạn lập kế hoạch
Soạn lập kế hoạch là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong quy trình kế
hoạch hóa. Với nội dung chủ yếu là xác định các nhiệm vụ, các mục tiêu chiến
lược, các chương trình cũng như các chính sách, biện pháp áp dụng trong thời kỳ

kế hoạch của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, soạn lập kế hoạch thường phải là quá trình xây dựng nhiều
phương án khác nhau, trên cơ sở đó đưa ra các lựa chọn chiến lược và các chương
trình hành động, nhằm mục đích đảm bảo thực hiện các lựa chọn này
Bước 2: Triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch
Th

c hi

n các đi

u
chỉnh cần thiết
Xác đ

nh m

c tiêu và
quy trình cần thiết để
thực hiện mục tiêu
Đánh giá và phâ
n tích
quá trình thực hiện
T


ch

c th


c hi

n qui
trình đã dự định
Nôi dung của quá trình này bao gồm việc thiết lập và tổ chức các yếu tố
nguồn lực cần thiết, sử dụng các chính sách, các biện pháp cũng như đòn bẩy quan
trọng tác động trực tiếp đến các cấp thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nhằm đảm bảo các yêu cầu tiến độ đặt ra trong các kế hoạch tác
nghiệp cụ thể kể cả thời gian, quy mô, chất lượng công việc. Kết quả hoạt động
của quá trình này được thể hiện bằng những chỉ tiêu thực tế của hoạt động doanh
nghiệp.
Bước 3: Tổ chức công tác theo dõi, giám sát, thực hiện kế hoạch
Nhiệm vụ của quá trình này là thúc đẩy thực hiện các mục tiêu đặt ra và
theo dõi phát hiện những phát sinh không phù hợp với mục tiêu. Khi phát hiện
những phát sinh không phù hợp, điều quan trọng là phải tìm được các nguyên nhân
dẫn đến vấn đề đó. Đó có thể là những nguyên nhân khách quan từ môi trường bên
ngoài, cũng có thể là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía các nhà lãnh
đạo.
Bước 4: Điều chỉnh thực hiện kế hoạch
Từ những phân tích về hiện tượng không phù hợp với mục tiêu, các nhà kế
hoạch đưa ra các quyết định điều chỉnh cần thiết và kịp thời. Có thể là thay đổi nội
dung của hệ thống tổ chức, thực hiện sự thay đổi một số mục tiêu bộ phận trong hệ
thống mục tiêu đặt ra ban đầu , và khi mà những điều chỉnh này vẫn không đạt
hiệu quả thì quyết định cuối cùng sẽ là chuyển hướng sản xuất kinh doanh.
Quy trình kế hoạch hóa nêu trên không phải là trình tự tác nghiệp tuần tự
đơn giản mà phải được thực hiện đan xen, hỗ trợ nhau trong tất cả các khâu. Quá
trình này đòi hỏi tính linh hoạt và nghệ thuật quản lý rất lớn.
1.1.2. Vai trò kế hoạch doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự thống trị của nhà nước chuyên chính

vô sản, kế hoạch được thể hiện là những quyết định mang tính mệnh lệnh phát ra
từ trung ương. Các chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp chính là các chỉ tiêu pháp
lệnh mang tính toàn diện, chi tiết mà cơ quan quản lý cấp trên giao xuống trên cơ
sở cân đối chung toàn ngành và tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
pháp lệnh là cơ sở điều tiết mọi hoạt động tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế kế hoạch hoá tập trung áp dụng ở Việt
Nam trong thời gian đầu, nó đem lại những kết quả đáng kế nhất là trong thời kỳ
Việt Nam thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với cơ chế này nhiều doanh
nghiệp sản xuất và dịch vụ nước ta đã ra đời và cung cấp một khối lượng của cải
vật chất đáng kể đảm đương được những nhiệm vụ nặng nền trong công cuộc phục
vụ kháng chiến và quốc kế dân sinh.
Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ chế kế hoạch hoá theo mô hình
tập trung mệnh lệnh trở nên không còn phù hợp, các doanh nghiệp phải đối mặt
với các quy luật thị trường, vì vậy những dấu hiệu thị trường là cơ sở để các doanh
nghiệp thực hiện hành vi sản xuất kinh doanh của mình. Và kế hoạch hoá vẫn là
cơ chế quản lý cần thiết, hữu hiệu của các doanh nghiệp vì kế hoạch mang một vị
trí rất quan trọng trong doanh nghiệp:
- Tập trung sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục
tiêu vì kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Lập kế hoạch là
khâu đầu tiên quan trọng nhất trong quy trình kế hoạch hóa là công việc duy nhất
có liên quan tới việc xác lập các mục tiêu cần thiết.Và trên cơ sở các mục tiêu đã
chọn, doanh nghiệp quyết định các hành động và bước đi tiếp theo để đạt được các
mục tiêu cho nên chính các hoạt động của công tác kế hoạch là tập trung sự chú ý
vào những mục tiêu này.
- Công tác kế hoạch với việc ứng phó với những bất định và đổi thay của thị
trường vì lập kế hoạch là dự kiến những vấn đề của tương lai. Thị trường bản thân
nó rất linh hoạt và thường xuyên biến động, kế hoạch và quản lý giúp doanh
nghiệp dự kiến được những vấn đề tương lai. Từ đó tìm ra cách tốt nhất để đạt mục
tiêu đặt ra, phân công, phối hợp hoạt động của các bộ phận trong hệ thống trong

quá trình thực hiện các mục tiêu và ứng phó với những bất ổn trong diễn biến sản
xuất kinh doanh.
- Công tác kế hoạch với việc tạo khả năng tác nghiệp kinh tế trong doanh
nghiệp. Công tác kế hoạch doanh nghiệp tạo cơ sở cho việc nhìn nhận logic các
nội dung hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tiến tới mục tiêu
sản xuất sản phẩm và dịch vụ cuối cùng. Trên nền tảng đó, các nhà quản lý thực
hành phân công, điều độ, tổ chức các hoạt động cụ thể, chi tiết theo đúng trình tự,
bảo đảm cho sản xuất sẽ không bị rối loạn và ít bị tốn kém.
1.1.3. Hệ thống kế hoạch trong doanh nghiệp
1.1.3.1. Theo góc độ thời gian:
Theo góc độ thời gian kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận
cấu thành:
- Kế hoạch dài hạn: Bao trùm lên khoảng thời gian là 10 năm. Quy trình soạn
lập kế hoạch dài hạn được đặc trưng bởi: môi trường liên quan được hạn
chế bởi thị trường mà doanh nghiệp đã có mặt, dự báo trên cơ sở ngoại suy
từ quá khứ, chủ yếu nhấn mạnh các ràng buộc về tài chính, sử dụng rộng rãi
các phương pháp kinh tế lượng để dự báo.
- Kế hoạch trung hạn: Cụ thể hóa những định hướng của kế hoạch dài hạn ra
thành những khoảng thời gian ngắn hạn hơn thường là 3-5 năm.
- Kế hoạch ngắn hạn: thường là kế hoạch hàng năm, kế hoạch quý, tháng. Kế
hoạch ngắn hạn bao gồm các phương pháp cụ thể sử dụng nguồn lực cần
thiết để đạt mục tiêu trong kế hoạch trung và dài hạn.
Ba loại kế hoạch ngắn, trung và dài hạn cần phải được liên kết chặt chẽ với
nhau và không được phủ nhận lẫn nhau. Và để thực hiện được mối quan hệ này thì
các nhà lãnh đạo chủ chốt trong doanh nghiệp nên thường xuyên xem xét và sửa
đổi các quyết định trước mắt xem chúng có phục vụ các chương trình dài hạn hay
không, đồng thời các nhà quản lý cấp dưới nên được thông báo một cách thường
xuyên về kế hoạch dài hạn của doang nghiệp sao cho các quyết định dài hạn của
họ phù hợp với các mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Theo góc độ lĩnh vực hoạt động:

Theo lĩnh vực hoạt động thì kế hoạch doanh nghiệp được thể hiện cụ thể ở
những bộ phận kế hoạch riêng biệt như sau:
- Kế hoạch sản xuất: Là kế hoạch được xây dựng dựa trên năng lực sản xuất
và các phân tích đánh giá dự báo nhu cầu của sản phẩm trên thị trường.
Trên thực tế luôn có sự sai lệch giữa dự báo và thị trường do vậy kế hoạch
sản xuất được lập ra nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố sản xuất sẵn
có để sản xuất một hoặc nhiều sản phẩm đã định.
- Kế hoạch marketing: Là một tài liệu bằng văn bản xuất phát từ sự phân tích
môi trường và thị trường, trong đó người ta đề ra các chiến lược lớn cùng
với những mục tiêu trung gian và ngắn hạn cho cả công ty, hoặc cho một
nhóm sản phẩm cụ thể, sau đó người ta xác định các phương tiện cần thiết
để thực hiện những mục tiêu trên, và những hành động cần thực hiện, đồng
thời tính toán những khoản thu nhập và chi phí giúp cho việc thiết lập một
ngân sách cho phép thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
- Kế hoạch tài chính: Là quá trình soạn thảo các kế hoạch và các chỉ tiêu
quan trọng, các định mức tài chính nhằm đảm bảo các nguồn lực tài chính
cần thiết cho sự phát triển của doanh nghiệp
- Kế hoạch nhân sự: Là việc phân tích nhu cầu nhân sự trong tương lai và đề
ra các kế hoạch cụ thể thỏa mãn nhu cầu. Qua đó, cho phép các nhà quản lý
và bộ phận nhân sự dự báo các nhu cầu tương lai về nhân sự của doanh
nghiệp và khả năng cung ứng lao động.
Trong tổng thể các kế hoạch hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nêu
trên thì kế hoạch sản xuất là kế hoạch đầu tiên và quan trọng nhất giúp tối ưu
hóa việc sử dụng các yếu tố sản xuất sẵn có để sản xuất một hoặc nhiều sản
phẩm đã định.
1.2. Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức sử dụng các nguồn lực khác nhau để thỏa mãn
những nhu cầu khác nhau của nền kinh tế thông qua việc tổ chức sản xuất sản
phẩm và cung cấp dịch vụ. Để quản lý các nguồn lực này, doanh nghiệp được tổ
chức thành các chức năng khác nhau: thương mại, sản xuất, tài chính, nhân sự,

hành chính… Trong đó, chức năng sản xuất là chức năng được coi là một trong
những chức năng quan trọng nhất của doanh nghiệp, là chức năng bắt đầu của hoạt
động sản xuất kinh doanh, là khởi điểm của mọi hoạt động kinh tế. Hoạt động sản
xuất đóng vai trò rất lớn là tạo ra nguồn gốc của giá trị, tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp và người lao động. Chính vì vai trò quan
trọng của hoạt động sản xuất mà doanh nghiệp cần phải coi trọng công tác lập kế
hoạch sản xuất và xem nó như một yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của
doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm và phân loại kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm.
Kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp là một trong những nội dung quan
trọng của hoạt động sản xuất, kế hoạch sản xuất nhằm tối ưu hóa việc sử dụng
những yếu tố sản xuất sẵn có để sản xuất một hay nhiều sản phẩm đã định.
Kế hoạch sản xuất là kế hoạch về các công việc sẽ thực hiện trong thời kỳ
kế hoạch trên cơ sở nhận thức nguồn lực hiện có và dự tính sẽ có trong thời kỳ kế
hoạch của doanh nghiệp.
Kế hoạch sản xuất cân đối giữa nhu cầu và khả năng có thể của doanh
nghiệp từ đó lên kế hoạch cho các công việc sẽ thực hiện thời kỳ kế hoạch.
Kế hoạch sản xuất cũng vạch ra các biện pháp để huy động các nguồn lực
thực hiện các công việc đã đặt ra.
1.2.1.2. Phân loại.
Theo góc độ thời gian thì kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp cũng bao
gồm ba bộ phận cấu thành:
- Kế hoạch dài hạn:


n
n
h
h



m
m


x
x
á
á
c
c


đ
đ


n
n
h
h


m
m


t
t



đ
đ


n
n
h
h


h
h
ư
ư


n
n
g
g


c
c
h
h
o
o



s
s




p
p
h
h
á
á
t
t


t
t
r
r
i
i


n
n



s
s


n
n


x
x
u
u


t
t


v
v
à
à


k
k
i
i
n
n

h
h


d
d
o
o
a
a
n
n
h
h


m
m
à
à


d
d
o
o
a
a
n
n

h
h


n
n
g
g
h
h
i
i


p
p


c
c


n
n


t
t
h
h

e
e
o
o


đ
đ
u
u


i
i


t
t
r
r
o
o
n
n
g
g


m
m



t
t


k
k
h
h
o
o


n
n
g
g


t
t
h
h


i
i



g
g
i
i
a
a
n
n


t
t
-
-
ư
ư
ơ
ơ
n
n
g
g


đ
đ


i
i



d
d
à
à
i
i


t
t




3
3
-
-
5
5


n
n
ă
ă
m
m

;
;


t
t
h
h
ư
ư


n
n
g
g


đ
đ
ư
ư


c
c


x
x

â
â
y
y


d
d


n
n
g
g


c
c
h
h
o
o


n
n
h
h
ó
ó

m
m


s
s


n
n


p
p
h
h


m
m
,
,


h
h





s
s


n
n


p
p
h
h


m
m
.
.
- Kế hoạch trung hạn: là một quyết định có tính chiến thuật nhằm điều tiết
trung hạn quá trình sản xuất, là cầu nối giữa các quyết định chiến lược có tính chất
dài hạn và các quyết định có tính chất ngắn hạn.
K
K
ế
ế


h
h
o

o


c
c
h
h


t
t
r
r
u
u
n
n
g
g


h
h


n
n


đ

đ




c
c


p
p


đ
đ
ế
ế
n
n


v
v
i
i


c
c



q
q
u
u
y
y
ế
ế
t
t


đ
đ


n
n
h
h


v
v




k

k
h
h


i
i


l
l
ư
ư


n
n
g
g


s
s


n
n


p

p
h
h


m
m


m
m
à
à


d
d
o
o
a
a
n
n
h
h


n
n
g

g
h
h
i
i


p
p


s
s




s
s


n
n


x
x
u
u



t
t


t
t
r
r
o
o
n
n
g
g


t
t
r
r
u
u
n
n
g
g


h

h


n
n


n
n
h
h


m
m


đ
đ
á
á
p
p




n
n
g

g


n
n
h
h
u
u


c
c


u
u


t
t
h
h




t
t
r

r
ư
ư


n
n
g
g
.
.
- Kế hoạch ngắn hạn:
t
t
h
h
ư
ư


n
n
g
g


đ
đ
ư
ư



c
c


x
x
â
â
y
y


d
d


n
n
g
g


c
c
h
h
o
o



t
t
h
h


i
i


g
g
i
i
a
a
n
n


n
n
g
g


n
n



h
h


n
n


(
(
k
k
ế
ế


h
h
o
o


c
c
h
h



n
n
g
g
à
à
y
y
,
,


t
t
u
u


n
n
,
,


t
t
h
h
á
á

n
n
g
g
,
,
.
.
.
.
)
)
;
;


l
l
à
à


t
t
o
o
à
à
n
n



b
b




c
c
á
á
c
c


h
h
o
o


t
t


đ
đ



n
n
g
g


x
x
â
â
y
y


d
d


n
n
g
g


l
l


c
c

h
h


t
t
r
r
ì
ì
n
n
h
h


s
s


n
n


x
x
u
u



t
t
,
,


đ
đ
i
i


u
u


p
p
h
h


i
i
,
,


p
p

h
h
â
â
n
n


g
g
i
i
a
a
o
o


c
c
á
á
c
c


c
c
ô
ô

n
n
g
g


v
v
i
i


c
c


c
c
h
h
o
o


t
t


n
n

g
g


n
n
g
g
ư
ư


i
i
,
,


n
n
h
h
ó
ó
m
m


n
n

g
g
ư
ư


i
i
,
,


t
t


n
n
g
g


m
m
á
á
y
y



v
v
à
à


s
s


p
p


x
x
ế
ế
p
p


t
t
h
h





t
t




c
c
á
á
c
c


c
c
ô
ô
n
n
g
g


v
v
i
i



c
c






t
t


n
n
g
g


n
n
ơ
ơ
i
i


l
l
à
à

m
m


v
v
i
i


c
c


n
n
h
h


m
m


đ
đ


m
m



b
b


o
o


h
h
o
o
à
à
n
n


t
t
h
h
à
à
n
n
h
h



đ
đ
ú
ú
n
n
g
g


t
t
i
i
ế
ế
n
n


đ
đ




đ
đ

ã
ã


x
x
á
á
c
c


đ
đ


n
n
h
h


t
t
r
r
o
o
n
n

g
g


l
l


c
c
h
h


t
t
r
r
ì
ì
n
n
h
h


s
s



n
n


x
x
u
u


t
t


t
t
r
r
ê
ê
n
n


c
c
ơ
ơ



s
s




s
s




d
d


n
n
g
g


c
c
ó
ó


h
h

i
i


u
u


q
q
u
u




k
k
h
h




n
n
ă
ă
n
n

g
g


s
s


n
n


x
x
u
u


t
t


h
h
i
i


n
n



c
c
ó
ó


c
c


a
a


d
d
o
o
a
a
n
n
h
h


n
n

g
g
h
h
i
i


p
p
.
.
1.2.2. Quy trình lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Sơ đồ: Quy trình kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp


















Sản xuất
năng lực
tồn kho
Marketing
Nhu cầu
Tài chính
Luồng tiền
Kế hoạch
sản xuất
tổng thể
Mua sắm
Năng lực
cung cấp
Nhân sự
Kế hoạch
nhân sự
Kế hoạch
chỉ đạo sản
xuất
Kế hoạch
nhu cầu vật
liệu
Kh


thi

?


Kế hoạch
nhu cầu
công suất
Điều chỉnh kế hoạch sản xuất
Đi

u ch

nh nhu c

u

Thực hiện có phù
hợp với kế hoạch
Không




Điều chỉnh
Công suất ?
Điều chỉnh kế hoạch chỉ đạo
s

n xu

t

Kiểm tra
công su


t












Nguồn: giáo trình kế hoạch kinh doanh. TH.S Bùi Đức Tuân
Nội dung của quy trình kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp được chia
thành các bước như sau:
+ Bước 1: Xác định những căn cứ cần thiết để lập kế hoạch sản xuất.
Những căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất bao gồm: Nhu cầu thị trường,
năng lực tài chính hay vốn đầu tư, năng lực nhân sự, năng lực cung ứng nguyên
vật liệu và năng lực công suất máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất… Việc xác
định chính xác những căn cứ này sẽ giúp cho bản kế hoạch của doanh nghiệp khả
thi và sát thực tế hơn.
+ Bước 2: Xây dựng kế hoạch sản xuất tổng thể.
Xây dựng kế hoạch sản xuất tổng thể nhằm xác định những nhóm sản phẩm
chủ yếu mà doanh nghiệp dự định tiến hành sản xuất trong chu kỳ kinh doanh tới.
+ Bước 3: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo sản xuất
Kế hoạch chỉ đạo sản xuất là kế hoạch trung gian giữa kế hoạch sản xuất
tổng thể và kế hoạch nhu cầu sản xuất, nó là sự thể hiện kế hoạch sản xuất tổng thể
trên chương trình chỉ đạo sản xuất tương ứng, thích hợp với khả năng sản xuất của

các đơn vị.
+ Bước 4: Xây dựng kế hoạch nhu cầu vật liệu.
Xây dựng kế hoạch nhu cầu vật liệu để xác định các yếu tố đầu vào phục vụ
cho quá trình sản xuất
+ Bước 5: Xác định kế hoạch nhu cầu công suất
Xác định kế hoạch nhu cầu công suất thích hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kế
hoạch chỉ đạo sản xuất và kế hoạch sản xuất tổng thể trên cơ sở nguồn cung ứng
nguyên vật liệu đầu vào cho trước.
+ Bước 6: Xác định tính khả thi của kế hoạch nhu cầu công suất
Tính khả thi của kế hoạch nhu cầu công suất được xác định bằng cách so
sánh, đối chiếu với công suất thực tế của máy móc, thiết bị. Nếu công suất thực tế
của máy móc, thiết bị không đáp ứng được nhu cầu công suất cần huy động thì
phải tiến hành điều chỉnh kế hoạch nhu cầu nguyên vật liệu, kế hoạch chỉ đạo sản
xuất và kế hoạch sản xuất tổng thể. Nếu công suất thực tế của máy móc, thiết bị
đáp ứng được nhu cầu công suất cần huy động thì tổ chức thực hiện kế hoạch công
suất.
+ Bước 7: Thực hiện kế hoạch nhu cầu công suất.
+ Bước 8: Thực hiện kế hoạch nhu cầu vật liệu.
Trong quá trình thực hiện hai kế hoạch trên cần phải tiến hành kiểm tra,
giám sát xem nó có đáp ứng được kế hoạch công suất và kế hoạch vật liệu đặt ra
hay không. Để xem việc thực hiện những kế hoạch này có đảm bảo thực hiện được
những mục tiêu đặt ra trong kế hoạch chỉ đạo sản xuất và kế hoạch sản xuất tổng
thể không? Nếu không phù hợp thì tiến hành những điều chỉnh cần thiết.
1.2.3. Các yêu cầu và căn cứ để lập kế hoạch sản xuất
1.2.3.1. Những yêu cầu đối với công tác lập kế hoạch sản xuất
Công tác lập kế hoạch sản xuất kinh của doanh nghiệp cần quán triệt các
yêu cầu sau :
- Công tác lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp cần quán triệt yêu
cầu hiệu quả. Các doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích hướng tới mục
tiêu hiệu quả, nó là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng , lựa chọn và quyết

định các phương án kế hoạch của doanh nghiệp.
- Lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hệ
thống đồng bộ. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống thống nhất , gồm nhiều
phân hệ là các doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu của công
tác lập kế hoạch phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đồng
hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm của cả hệ thống.
- Công tác lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp phải quán triệt yêu
cầu “vừa tham vọng vừa khả thi “. Trong nền kinh tế thị trường đối với các
doanh nghiệp thì mục tiêu lợi nhuận là tối cao, do vậy để thực hiện được mục
tiêu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch để thực hiện các
phương án đó. Tuy nhiên, các kế hoạch được đề ra phải có khả năng thực thi .
- Công tác lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp phải quán triệt yêu
cầu “kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế “. Tức là hệ thống mục
tiêu kế hoạch phải được xây dựng và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay đổi
của môi trường và điều kiện kinh doanh.
- Công tác lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp phải quán triệt yêu
cầu kết hợp đúng đắn các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp kể cả lợi ích
xã hội. Đây chính là động lực của sự phát triển và là cơ sở cho việc thực hiện
có hiệu quả các phương án sản xuất kinh doanh.
1.2.3.2. Các căn cứ để lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
a. Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội
của Đảng và Nhà nước
Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, nên các kế hoạch
sản xuất kinh doanh do doanh nghiệp đề ra phải phù hợp với chủ trương, đường
lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Nếu hoạt động của
doanh nghiệp mà đi ngược lại xu thế phát triển, vi phạm những lợi ích chung của
nền kinh tế nó sẽ bị đào thải, ngược lại nếu nhận thức và hoà mình vào xu thế phát
triển chung thì doanh nghiệp sẽ phát triển ổn định và bền vững .
b. Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường , doanh nghiệp muốn tồn tại và phát

triển lớn mạnh thì phải lấy thị trường là trung tâm cho mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình, thị trường chính là nơi quyết định sản xuất cái gì ? Sản
xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai ? Do vậy nghiên cứu thị trường là công việc
cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh.
Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không
thoả mãn tốt được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các
thông tin chính xác về thị trường. Vì vậy nghiên cứu thị trường khâu quan
trọng đầu tiên làm cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm
của Công ty trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế như hiện nay.
Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả
điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường phải phản ánh được qui mô, cơ cấu đối
với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến tác động của các
nhân tố làm tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu của công tác lập kế hoạch.
Những kết quả điều tra nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để xác định
mục tiêu kinh doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo khách hàng
để đảm bảo sự gắn bó giữa sản xuất với kinh doanh. Căn cứ vào số lượng các
đối thủ cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường để lập kế hoạch thì hiệu
quả của phương án kế hoạch sẽ được nâng cao .
c. Căn cứ vào kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh
doanh, về khả năng nguồn lực có thể khai thác.
Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh doanh thời kỳ
trước và dự báo khả năng tương lai ứng với các nguồn lực có thể khai thác
được, đặc biệt là dựa vào những lợi thế vượt trội của doanh nghiệp về các mặt
chất lượng sản phẩm , kênh tiêu thụ hợp tác liên doanh, khoa học công nghệ so
với đối thủ cạnh tranh sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương án kế
hoạch. Các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải
được chú trọng tập trung phân tích.
1.2.4. Nội dung và phương pháp lập kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp

1.2.4.1. Nội dung
Kế hoạch sản xuất sẽ phải xác định được 6 nội dung sau đây:
- Xác định khối lượng sản xuất cho mỗi sản phẩm: sản phẩm được mô tả từ
góc độ sản xuất, gồm các chi tiết hợp thành, vật liệu cấu thành, đặc tính kỹ
thuật của sản phẩm. Số lượng sản phẩm dự định sản xuất: phải biết cần sản
xuất những sản phẩm như thế nào, số lượng bao nhiêu để đáp ứng kế họach
marketing và tồn kho của doanh nghiệp.
- Xác định phương pháp sản xuất: trả lời câu hỏi doanh nghiệp sẽ sản xuất
sản phẩm như thế nào, quy trình, công nghệ để sản xuất sản phẩm, chi tiết
hoặc công đoạn nào tự sản xuất/gia công bên ngoài, tại sao…
- Xác định các yếu tố sản xuất: Cần sử dụng những loại máy móc thiết bị
nào, công suất bao nhiêu, lấy thiết bị từ nguồn nào (có sẵn, mua mới,…)
cần nhà xưởng rộng bao nhiêu, bố trí như thế nào, kế hoạch khấu hao nhà
xưởng, thiết bị,… Kế hoạch máy móc thiết bị và nhà xưởng cần được trình
bày riêng vì phần này sẽ ảnh hưởng tới quyết định về các nguồn lực khác.
Máy móc thiết bị và nhà xưởng thường có giá trị đầu tư lớn vì vậy kế hoạch
máy móc thiết bị và nhà xưởng rất quan trọng để lập kế hoạch tài chính sau
này.
- Xác định việc cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm và các nguồn lực
khác: Nhu cầu sử dụng và tồn kho nguyên vật liệu, chất lượng và số lượng
như thế nào, nguyên vật liệu thay thế là gì, ai là nhà cung cấp, phương thức
cung cấp, số lượng mua tối ưu, mức độ rủi ro. Các yêu cầu đối với nguồn
nhân lực: số lượng lao động, trình độ tay nghề, kế hoạch đáp ứng (tuyển
dụng, đào tạo,…)
- Dự toán chi phí hoạt động: cần bao nhiêu vốn đầu tư, các chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm
- Ưu thế cạnh tranh: xác định xem yếu tố cạnh tranh nào là quan trọng và là
một yếu tố định tính để ra các quyết định lựa chọn các phương án sản xuất,
đầu tư máy móc thiết bị, bao gồm: chất lượng, giá thành, quy mô, công
nghệ, kinh nghiệm, khả năng đáp ứng nhanh,…

1.2.4.2. Phương pháp lập
a. Kế hoạch năng lực sản xuất
Dựa trên cơ sở các chiến lược dài hạn của doanh nghiệp và các dự báo nhu
cầu thị trường, doanh nghiệp phải cân nhắc việc quyết định trang bị cho mình một
mức độ năng lực sản xuất nhất định. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết phải kể đến công suất của máy móc thiết bị, và
sau đó là mức độ cũng như hiệu suất sử dụng các máy móc thiết bị này trong từng
điều kiện cụ thể.
Do vậy, việc xác định kế hoạch năng lực sản xuất dựa trên các bước sau:
Xác định công suất
Có hai biện pháp để xác định công suất hay năng lực sản xuất của một hệ
thống
- Mức độ sử dụng: là tỷ lệ phần trăm của công suất thiết kế hiện đang được
huy động.
- Hiệu suất sử dụng: là tỷ lệ phần trăm của công suất thực tế hiện đang được
huy động
Dự báo nhu cầu sử dụng công suất
Để dự báo nhu cầu công suất đầu tiên doanh nghiệp tiến hành dự báo nhu
cầu theo những phương pháp truyền thống, sau đó những kết quả dự báo này sẽ
được sử dụng để xác định nhu cầu công suất.
Tiếp theo sẽ xác định quy mô gia tăng cận biên của công suất, với giả thiết
rằng nhà quản lý đã biết trước công nghệ được sử dụng và loại thiết bị sẽ được huy
động để thỏa mãn nhu cầu tương lai. Trong trường hợp nhu cầu về công suất
không dự đoán trước được doanh nghiệp có thể sử dụng mô hình xác suất để dự
báo.
b. Kế hoạch sản xuất tổng thể
Kế hoạch sản xuất tổng thể liên quan tới việc xác định khối lượng và thời
gian sản xuất. Nó là một phần của hệ thống kế hoạch hóa sản xuất và có mối liên
hệ chặt chẽ với các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Do vậy việc lập
kế hoạch sản xuất tổng thể không chỉ căn cứ vào những thông tin từ dự báo nhu

cầu của bộ phận marketing mà còn sử dụng nhiều dữ liệu về tài chính, nhân sự,
công suất cũng như lượng nguyên vật liệu sẵn có.
Từ đó, nhà quản lý sản xuất lập kế hoạch điều phối quy mô sản xuất, mức
độ sử dụng lao động, sử dụng giờ phụ trội, thuê gia công và các yếu tố kiểm soát
khác để đưa ra kế hoạch sản xuất tổng thể hợp lý.
Phương pháp đồ thị
Là phương pháp được sử dụng rộng rãi do chúng dễ hiểu và dễ sử dụng.
Phương pháp này sử dụng một số ít các biến số và cho phép người làm kế hoạch
so sánh được nhu cầu dự báo và công suất hiện tại của doanh nghiệp. Theo
phương pháp này, người làm kế hoạch sẽ thực hiện 5 bước:
- Xác định nhu cầu cho mỗi kỳ
- Xác định công suất giờ chuẩn, giờ phụ trội và thuê gia công cho mỗi kỳ
- Xác định chi phí lao động, thuê gia công và chi phí lưu kho
- Tính đến chính sách của doanh nghiệp đối với lao động hoặc mức lưu kho
- Khảo sát các kế hoạch và ước lượng tổng chi phí
Phương pháp toán học
Có nhiều phương pháp toán học được sử dụng vào kế hoạch hóa sản xuất
trong những năm gần đây như: Mô hình hệ số quản lý, mô hình nguyên quyết định
tuyến tính, mô hình mô phỏng…
c. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất
Kế hoạch chỉ đạo sản xuất là bước trung gian giữa kế hoạch sản xuất tổng
thể và kế hoạch nhu cầu sản xuất. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất xác định doanh
nghiệp cần sản xuất cái gì? Khi nào sản xuất? Kế hoạch này phải phù hợp với kế
hoạch sản xuất tổng thể. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất cho chúng ta biết cần chuẩn bị
những gì để thỏa mãn nhu cầu và đáp ứng kế hoạch sản xuất tổng thể. Kế hoạch
chỉ đạo sản xuất không phải là sự chia nhỏ kế hoạch sản xuất tổng thể mà là sự thể
hiện kế hoạch nói trên chương trình chỉ đạo sản xuất tương ứng, thích hợp với khả
năng sản xuất của các đơn vị nhằm thỏa mãn tốt nhất các dự báo kế hoạch. Trong
khi kế hoạch sản xuất tổng thể được lập dưới dạng tổng quát cho các nhóm mặt
hang, thì kế hoạch chỉ đạo sản xuất được lập cho mỗi mặt hang cụ thể.

Sau khi đã có kế hoạch chỉ đạo sản xuất, doanh nghiệp sẽ phải dự tính nhu
cầu và năng lực cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất này. Nhu cầu ở đây
sẽ bao gồm các chi tiết, bán thành phẩm… cần thiết cho việc hoàn thành sản phẩm
cuối cùng.
d. Kế hoạch nhu cầu sản xuất
Kế hoạch nhu cầu sản xuất nhằm giải quyết tính cân đối của kế hoạch sản
xuất tổng thể, khả năng thực hiện được của kế hoạch chỉ đạo sản xuất, mối quan hệ
giữa nhu cầu độc lập của khách hàng và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Việc
tính toán nhu cầu được thực hiện ngay sau khi xây dựng kế hoạch sản xuất tổng
thể và kế hoạch chỉ đạo sản xuất.
Kế hoạch nhu cầu sản xuất lập ra là để xác định nhu cầu các phương tiện và
các yếu tố sản xuất. Phương pháp để lập kế hoạch sản xuất được sử dụng là
phương pháp MRP bao gồm việc thực hiện các bước sau:
- Phân tích kết cấu sản phẩm
- Tính toán nhu cầu phụ thuộc
- Tính toán nhu cầu độc lập
Từ các bước phân tích và tính toán ở trên sẽ giúp doanh nghiệp xác định
được: mối liên hệ giữa các chi tiết, bộ phận của một sản phẩm, định mức tiêu hao,
thời gian cần thiết để hoàn thành từng bước công việc…Những thông tin này sẽ
giúp doanh nghiệp tính toán được nhu cầu sản xuất cho từng loại sản phẩm, họ sản
phẩm và cho toàn bộ kế hoạch nhu cầu sản xuất.
e. Kế hoạch tiến độ sản xuất
Kế hoạch tiến độ sản xuất cụ thể hóa các quyết định về công suất, kế hoạch
sản xuất tổng thể và kế hoạch chỉ đạo sản xuất thành các chuỗi công việc và sự
phân công nhân sự, máy móc và nguyên vật liệu. Kế hoạch tiến độ đòi hỏi phân bố
thời gian cho từng công việc, tuy nhiên thường thì có nhiều bước công việc cùng
đòi hỏi sử dụng cùng nguồn lực do đó để lập kế hoạch sản xuất doanh nghiệp sử
dụng các phương pháp sau:
Phương pháp điều kiện sớm
Phương pháp điều kiện sớm bắt đầu lịch trình sản xuất sớm nhất có thể khi

đã biết yêu cầu công việc.
Phương pháp điều kiện muộn
Phương pháp điều kiện muộn bắt đầu với thời hạn cuối cùng, lên lịch của
công việc cuối trước tiên. Bằng cách trừ lùi thời gian cần thiết cho mỗi bước công
việc, chúng ta sẽ biết thời gian phải bắt đầu sản xuất.
Phương pháp biểu đồ GANTT
Phương pháp biểu đồ GANTT nhằm xác định thứ tự và thời hạn sản xuất
của các công việc khác nhau cần thiết cho một chương trình sản xuất nhất định,
tùy theo độ dài của mỗi bước công việc, các điều kiện trước của mỗi công việc,
các kỳ hạn cần tuân thủ và năng lực sản xuất. Để áp dụng được phương pháp này
doanh nghiệp cần ấn định một chương trình sản xuất, xác định những công việc
khác nhau cần thực hiện, xác định thời gian cần thiết cho mỗi công việc cũng như
những mối quan hệ giữa chúng.
1.2.5. Vai trò kế hoạch sản xuất
1.2.5.1. Vai trò kế hoạch sản xuất trong doanh nghiệp
Thực tế luôn có sự chênh lệch giữa dự báo và thị trường nơi mà doanh
nghiệp có mặt. Vì vậy, kế hoạch phải được xây dựng dựa trên năng lực sản xuất và
các phân tích, đánh giá dự báo nhu cầu của sản phẩm trên thị trường. Kế hoạch sản
xuất được điều chỉnh linh hoạt sao cho thích ứng được với mọi biến động của môi
trường kinh doanh, đặc biệt là sự biến động của nhu cầu.
Qua đó, kế hoạch sản xuất làm cho chức năng sản xuất trở thành một nhân
tố quan trọng đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp. Với các yêu cầu của quản
lý sản xuất là tạo sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo khả năng hoạt động tốt của kế
hoạch sản xuất, quản lý tốt các nguồn lực và có các quyết định đầu tư phù hợp.
1.2.5.2. Vai trò của kế hoạch sản xuất trong hệ thống kế hoạch của doanh
nghiệp
Kế hoạch sản xuất cùng với kế hoạch marketing, kế hoạch tài chính, kế
hoạch nhân sự và kế hoạch phát triển sản phẩm mới… hợp thành kế hoạch chức
năng của doanh nghiệp, xem đó như là kế hoạch tác nghiệp để chỉ đạo và điều
hành sản xuất kinh doanh. Kế hoạch sản xuất giúp cụ thể hóa hệ thống kế hoạch

chiến lược, đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu của doanh nghiệp.

×