Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Một số Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ viễn thông nói chung và dịch vụ Điện thoại di động nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của VN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.8 KB, 66 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH VIỆC CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG NÓI CHUNG VÀ
DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG NÓI RIÊNG TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
DSL( Digital subcriber line ) : Đường thuê bao số
OFTA( Office of the Telecommunication Authory) : Cơ quan quản lý thông tin
của Hong Kong
MVNO ( Mobile Virtual Network Operator ) : Khai thác mạng di động ảo
ITU ( International Telecommunication Union ) : Liên minh viễn thông quốc tế
IMT -2000 ( International Mobile Telecommunication – 2000) :Thông tin di
động quốc tế – 2000
CDMA ( Code division multiple access ):Di động và vô tuyến cố định.
TDMA ( Time Division Multiple Access )
NTT ( Nippon Telegraph and Telephone )
VTI :Công ty Viễn thông quốc tế
VTN: Công ty viễn thông liên tỉnh
VDC: Công ty điện toán và truyền số liệu.
PTO: Tổ chức Bưư chính Viễn thông
GIS (Global Information Society ): Xã hội thông tin toàn cầu
1
LỜI NÓI ĐẦU
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá và dưới đường lối đúng đắn của Đảng,
Ngành dịch vụ Viễn thông nói chung và dịch vụ điện thoại di động nói riêng ở
Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Sơ khai là một ngành với
nhũng điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, dịch vụ viễn thông còn rất lạc hậu.
Cho đến nay, ngành Viễn thông Việt nam đã hoà nhập với mạng thông tin toàn
cầu, đóng góp vào GDP 0,2% năm 1991 và đến nay đã lên tới con số 10,5%.
Đặc biệt số lượng thuê bao dịch vụ điện thoại di động đã thay đổi một cách
nhanh chóng, từ 4.060 thuê bao năm 1993 lên tới 1.200.000 thuê bao tính đến
hết tháng 3 năm 2005. Trước xu thế hội nhập ngày càng mở rộng, ngành dịch vụ


Viễn thông nói chung và dịch vụ điện thoại di động nói chung đang bước vào
giai đoạn cạnh tranh rất lớn. Đứng trước những thách thức như vậy, dịch vụ
Viễn thông Việt nam phải có một chiến lược phát triển phù hợp cũng như có
những giải pháp để nâng cao cạnh tranh, đưa ngành Viễn thông lên một tầm cao
hơn nữa.
Với tính nhạy cảm của đề tài, bài viết tập trung nghiên cứu về những giải
pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của dịch vụ trên con đường hội nhập quốc tế
của Việt nam.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Như Bình trong thời gian qua
đã hướng dẫn tận tình để em có thể hoàn thành bài viết này.
2
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
VIỆC CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG NÓI CHUNG VÀ DỊCH VỤ
ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG NÓI RIÊNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM.
I. Lý luận
1. Đặc điểm của dịch vụ Viễn thông nói chung và dịch vụ điện thoại di
động nói riêng
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO
Trong Hiệp định này các dịch vụ Viễn thông được chia làm hai loại- đó là
dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng trong đó các dịch vụ cơ bản đóng vai
trò quan trọng hơn xét từ góc độ kinh tế, kỹ thuật cũng như chủ quyền an ninh
quốc gia.
Bưu chính cũng như viễn thông vốn là ngành phục vụ việc trao đổi thông
tin. Thời kỳ đầu nó được dùng cho công tác an ninh – quốc phòng, về sau phát
triển sang phục vụ cả cho cơ quan nhà nước các cấp. Mói cho đến sau này ngành
bưu chính – viễn thông chủ yếu vẫn được coi là một cơ quan sự nghiệp thông tin
liên lạc của Nhà nước, do Nhà nước tổ chức, Nhà nước đài thọ và phục vụ cho
sự nghiệp công ích. Đến thế kỷ thứ 17-18, khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển,
chủ nghĩa tư bản dần dần hình thành, giao lưu kinh tế – văn hoá tăng lên, thì

thông tin bưu chính, viễn thông ngày càng được nhiều tổ chức và cá nhân sử
dụng.
Máy điện thoại di động là một máy thu phát vô tuyến điện loại gọn nhỏ, có
thể bỏ túi áo, xách tay, để trên ô tô.
Dịch vụ thông tin di động là dịch vụ thông tin vô tuyến (không dây) rất tiện
lợi cho khách hàng sử dụng. Khách hàng vẫn thông tin liên lạc bình thường với
máy điện thoại cố định, với máy điện thoại di động trong nước hoặc quốc tế
trong khi đi lại bất kì ở nơi nào trong phạm vi phủ sóng của hệ phát thanh vô
tuyến điện.
3
2.Thể chế thương mại quốc tế liên quan đến dịch vụ Viễn thông(GATS)
2.1. Giới thiệu về GATS:
Đãi ngộ quốc gia của Hiệp định chung về Thương mại và dịch vụ (GATS)
bao hàm những nội dung
Ý nghĩa của đãi ngộ quốc gia là đối xử bình đẳng giữa công dân trong nước
và công dân nước ngoài. Trong ngành dịch vụ, đãi nộ quốc gia là khi một công
ty nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ trong phạm vi một nước thì không
thể tồn tại sự phân biệt giữa công ty bản địa và công ty nước ngoài. Theo Hiệp
định chung về Thương mại dịch vụ, một nước đã cam kết cụ thể cho phép người
nước ngoài tiếp cận thị trường dịch vụ, thì sẽ sẽ phải áp dụng nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia. Với những ngành mà nước đó chưa cam kết cụ thể, thì nước đó không
phải áp dụng đãi ngộ quốc gia. Mặc dù trong cam kết, Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ cũng cho phép có thể có một số hạn chế với đãi ngộ quốc
gia.
Điều này khác biệt lớn với những biện pháp áp dụng nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia dành cho hàng hoá. Đãi ngộ quốc gia với hàng hoá là khi một sản phẩm
đến lãnh thổ của một nước, được hải quan cho thông quan, thì sản phẩn sẽ được
đãi ngộ quốc gia, mặc dù nước nhập khẩu chưa có bất kỳ một cam kết nào.
2.2. Nội dung của Hiệp định liên quan đến dịch vụ viễn thông
Hiện nay trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của WTO, các

dịch vụ viễn thông được chia làm hai loại - đó là các dịch vụ cơ bản và các dịch
vụ giá trị gia tăng trong đó các dịch vụ cơ bản đóng vai trò quan trọng hơn xem
xét từ góc độ kinh tế, kỹ thuật cũng như chủ quyền an ninh quốc gia. Nói chung
trong thời gian tới mở cửa thị truờng Viễn thông ở các quốc gia, các tổ chức khu
vực đều dựa trên nguyên tắc của WTO về dịch vụ Viễn thông trong Hiệp định
chung về Thương mại dịch vụ.
Các cuộc đàm phán sẽ được tiến hành trên cơ sở tiến hành tự do hoá thương
mại về dịch vụ và hệ thống truyền tải viễn thông.
4
Nội dung :
* Thừa nhận tính đặc trưng của lĩnh vực dịch vụ thông tin Viễn thông và,
đặc biệt, vai trò kép của lĩnh vực này với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh
tế riêng biệt và một phương tiện vận tải thiết yếu với các hoạt động kinh tế khác.
Chi tiết hoá những quy định trong Hiệp định về các biện pháp có tác động đến
việc tiếp cận và sử dụng mạng lưới vận tải và dịch vụ viễn thông công cộng.
* Xây dựng các nguyên tắc đa biên liên quan đến tiếp cận thị trường nhằm
đảm bảo rằng các yêu cầu được quy định trong nước được:
+ Xây dựng các chuẩn mực khách quan và minh bạch, như là năng lực và
khả năng cung cấp dịch vụ.
+ Không nặng nề hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ, do vậy
mới thúc đẩy được quá trình tự do hoá các dịch vụ kế toán một cách có hiệu quả.
* Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế và làm như vậy sẽ khuyến khích sự hợp
tác với các tổ chức quốc tế có liên quan.
* Tiếp cận và sử dụng dịch vụ và hệ thống thông tin viễn thông công cộng
với những điều khoản và điều kiện hợp lý và không phân biệt đối xử.
* Các thành viên khuyến khích và hỗ trợ sự hợp tác kỹ thuật.
* Thừa nhận tầm quan trọng của các tiêu chuẩn quốc tế để có một tính
tương thích toàn cầu và tính phối hợp thao tác trong dịch vụ mạng thông tin viễn
thông.
3.Cạnh tranh và khuôn khổ pháp lý trong quản lý viễn thông.

3.1.Xu hướng về chính sách cạnh tranh trong Viễn thông.
Tổng quan
Từ cuối nhũng năm 1980 đến cuối nhũng năm 1990, các nước châu á có tốc
độ phát triển kinh tế cao hơn các nước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra
một lượng cầu lớn đối với các dịch vụ Viễn thông, do đó các nước Châu á đã
thực hiện nới lỏng, phân cấp các qui định về phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đáp
ứng các nhu cầu tăng trưởng này.
5
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trong khu vực từ
tháng 7/1997 đã ảnh hưởng đến ngành Viễn thông Châu á. Tốc độ tăng trưởng
giảm xuống làm cho nhu cầu về các dịch vụ Viễn thông cũng giảm xuống. Phần
này dựa trên những thuật ngữ cơ bản như “ cạnh tranh “, “tư nhân hoá “ và “ cơ
sở hạ tầng viễn thông tiên tiến” để mô tả các xu hướng về môi trường viễn thông
ở Châu á.
Gần đây có nhiều thay đổi trong lĩnh vực Viễn thông. Các công nghệ mới
như là Internet và GMPCS đã được đưa vào thị trường do vậy cần có các chính
sách, quy định và các tổ chức chiu trách nhiệm trong vấn đề khai thác. Vấn đề tự
do hoá và bãi bỏ các quy định cũ đã được đưa ra đối với thị trường viễn thông
mới. Các vấn đề mới nảy sinh đối với các nước thành viên như là cam kết của họ
đối với WTO và đã mở rộng đến phạm vi quốc gia quan tâm về viễn thông. các
nước thành viên đã tự mình có những thay đổi về cơ cấu tổ chức để đáp ứng các
thách thức mới như là chia sẻ khai thác kinh doanh và những quy định về viễn
thông. Tác động trước mắt của Internet và thương mại điện tử đã thúc đẩy hơn
nữa những thay đổi cho cơ chế đang tồn tại về chính sách, quy định và thương
mại trong lĩnh vực viễn thông.
Thị trường thế giới về lĩnh vực viễn thông đang ngày càng mở rộng. Nó
không còn là vấn đề “ kéo cầu “ hay “đẩy cung “, cả hai điều này đang xảy ra.
Sự tác động lẫn nhau của hai yếu tố này khiến cho viễn thông trở thành một
trong những lĩnh vực có sự tăng trưởng hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Nó
cũng khiến cho viễn thông trở thành một trong những ngành quan trọng nhất của

hoạt động cã hội, văn hoá và chính trị. Điều này đặt ra một vấn đề có liên quan
đến viễn cảnh về xã hội thông tin toàn cầu (GIS ). Viễn cảnh này đã là chủ đề
trenh luận trong giai đoạn 1995 – 1999, ban đầu là những nước công nghiệp tiên
tiến G7, sau đó là trong cộng đồng quốc tế. Ngày nay, những ý tưởng cơ bản ẩn
sau khái niệm GIS đang được chấp nhận một cách rộng rãi. Trong viễn cảnh này
mọi hình thức hoạt động văn hoá xã hội, chính trị sẽ ngày càng phụ thuộc vào
việc truy nhập những dịch vụ viễn thông và thông tin của cơ sở hạ tầng thông tin
6
toàn cầu (GII ). Sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử trên Internet
là một ví dụ làm thế nào để GIS trở thành hiện thực. Thách thức cộng đồng quốc
tế đang phả đối mặt đó là phải tìm ra được những hướng đi để đảm bảo GIS
mang tính toàn cầu và rằng mọi người ở mọi nơi có thể chia sẻ những quyền lợi
của nó.
Việc truy nhập các dịch vụ mới sẽ đòi hÁi không chỉ đối vấn đề cân bằng
mà còn đòi hÁi đối với vấn đề thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng
thông tin.
Các vấn đề mới như là truy nhập quốc tế và tính cân bằng, thương mại quốc
tế và xuyên suốt các biên giới đối với thông tin và các chính sách thương mại
nội địa đang nổi lên để thực hiện viễn thông cho hầu hết các lĩnh vực không
kiểm soát được.
Tốc độ thay đổi trog lĩnh vực viễn thông là rất lớn và các ứng dụng của nó
đang trở nên rộng rãi hơn. Công nghệ, kinh doanh thương mại, môi trường và
các tổ chức quốc tế về viễn thông đang thách thức của xã hội trong lĩnh vực
quản lý. Các giải pháp lâu dài cho vấn đề truy nhập cho các khu vực vùng sâu
vùng xa đó là các công nghệ mới như Cellular, vệ tinh, cáp quang va DSL và
chúng đang tăng đáng kể trong toàn bộ thị trường. Dù sao vẫn có sự khác biệt
như độ thoả dụng của dịch vụ bên trong các nước và giữa các nước. Công nghệ
mới có khả năng làm tăng thêm hoặc làm giảm mất sự cân bằng giữa các nước.
3.2.Cạnh tranh và khuôn khổ pháp lý
3.2.1.Các nguyên nhân thúc đẩy cạnh tranh

Các nước đều nhận thức được rằng muốn thúc đẩy phát triển viễn thông cần
phải có sự tham gia của nguồn vốn tư nhân. Mở cửa thị trường là phương thúc
cơ bản để thu hút các nguồn vốn tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân mới có giấy
phép cung cấp dịch vụ viễn thông sẽ cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước
và cạnh tranh với nhau. Tự do hoá và phân cấp quản lý là chìa khoá để cạnh
tranh trong thị trường viễn thông, trong chiến lược phát triển và thúc đẩy quá
trình phân phối hoặc phân phối lại các dịch vụ viễn thông.
7
Có ít nhất hai lý do liên quan với mức độ cạnh tranh trong công nghiệp viễn
thông
Lý do thứ nhất rất rõ ràng. Đó là lợi ích kinh tế và các lợi ích khác đem lại
cho khách hàng nhờ truy nhập đến các ssản phẩm và dịch vụ mới. Các sản phẩm
mới như kết nối điện thoại vô tuyến điện đang thay thế dần các sản phẩm cũ và
cung cấp các dịch vụ cao cấp như điện thoại vô tuyến, điện thoại di động và
truyền số liệu tốc độ cao .Một số dịch vụ mới hơn đặc biêt có lợi cho khách hàng
đang sống và làm việc ở các vùng hẻo lánh. Ví dụ, tru y nhập Internet đã chứng
tÁ khả năng tạo ra các ngành kinh doanh mới.
Thứ hai, có lợi ích kinh tế đáng kể khi ứng dụng các công nghệ mới hiệu
quả và kịp thời. Các lợi ích này bao gồm cả về vĩ mô và vi mô, cả động và
tĩnh.Những trì hoãn không hợp lý trong triển khai công nghệ mới hoặc việc thay
đổi hướng đầu tư do quản lý giá dẫn đến chức năng kinh tế không đạt hiệu quả
tối đa để tạo thuận lợi cho khách hàng. Trong một số trường hợp, như đối với
công nghệ di động tương tự – tế bào, triển khai chậm chạp dẫn đến việc ứng
dụng công nghệ bị lỗi thời và khi được sử dụng rộng rãi thì kém hiệu quả.
Những trở ngại trong triển khai công nghệ mới cũng làm giảm tỷ lệ tăng trưởng
và của ngành viễn thông và toàn bộ nền kinh tế.Trong nhiều trường hợp, các chi
phí liên quan đến ảnh hưởng động đôi khi lại cao hơn các chi phí phúc lợi tĩnh.
3.2.2.Vai trò của nhà quản lý trong thị trường cạnh tranh
Vai trò quan trọng của nhà quản lý
Nhà quản lý có vai trò quan trọng trong việc hình thành một thị trường viễn

thông cạnh tranh. Việc xây dựng các thể chế có ảnh hưởng đến cơ cấu của thị
trường. Tại các nước có mô hình tổ chức theo kiểu châu Âu dưới dạng Tổ chức
Bưu chính Viễn thông( PTO ) như Việt Nam và Nhật Bản , vai trò quan trọng
nhất của nhà quản lý là xây dựng các điều kiện cạnh tranh giữa các nhà khai thác
độc quyền của nhà nước và các nhà khai thác mới. Nhà quản lý Viễn thông cần:
thiết lập và duy trì các điều kiện để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và lành mạnh,
ngăn chặn những ảnh hưởng có hại từ các nhà khai thác lớn và chủ đạo.
8
Việc định hướng tới thị trường viễn thông cạnh tranh làm tăng hiệu quả
quản lý của nhà khai thác chủ đạo, các tổ chức độc quyền trước đây. Điều này
mang lại nhiều lợi ích cho dân chúng.
Các vấn đề quan tâm của nhà quản lý
Nhìn chung, nhà quản lý có hai nhệm vụ cơ bản. Thứ nhất là thiết lập một
thị trường viễn thông có hiệu quả và lành mạnh. Thứ hai là xây dựng chính sách
đảm bảo mang lại lợi ích từ sự phát triển viễn thông đến mọi người dân trong cả
nước.
Để hình thành một thị trường cạnh tranh trong ngành viễn thông, có một số
vấn đề cơ bản mà các cơ quan quản lý nhà nước cần phải quan tâm xem xét:
+Đẩy mạnh việc tách hạch toán độclập các công ty trực thuộc
Nhà quản lý phải tách nhà khai thác chủ đạo và các công ty trực thuộc của
nó để tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả, công bằng và hợp lý hoá cơ
cấu doanh nghiệp.
+ Thiết lập cấu trúc mạng mở
Nhà quản lý phải xây dựng các điều kiện kết nối rõ ràng về cả hai mặt kỹ
thuật và kinh tế. Để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và lành mạnh, các thành viên
trực thuộc của nhà khai thác chủ đạo và các nhà khai thác mới phải được kết nối
vào mạng đường trục với các điều kiện như nhau.
+ Giám sát việc bao cấp chéo
Nhà quản lý cho phép các nhà khai thác chủ đạo tách biệt các loại chi phí
trên mạng và cụ thể hoá mỗi chi phí. Nhà quản lý phải ngăn chặn việc bao cấp

chéo cho các dịch vụ cạnh tranh từ các dịch vụ khác. Nhà khai thác chủ đạo cụ
thể hoá các điều kiện cung cấp dịch vụ với các công ty thành viênvà dành cho
các nhà khai thác mới điều kiện tương tự.
+Bảo vệ thông tin quản lý của các nhà khai thác mới
Nhà khai thác chủ đạo có thể lấy các thông tin quản lý của nhà khai thác
mới thông qua đàm phán và kết nối. Nhà quản lý phải có các biện pháp giữ bí
mật các thông tin này
9
+Khai thác các thông tin và số liệu đã có
Nhà khai thác chủ đạo đã có các thông tin và số liệu tích luỹ qua thời gian
kinh doanh lâu dài. Nhà quản lý buộc nhà khai thác chủ đạo công khai các thông
tin và số liệu của họ như thông tin về kỹ thuật cơ bản của mạng, thông tin về
tiêu chuẩn hoá, các bỏo cáo nghiên cứu và phát triển.
+Phân cấp quản lý tại cơ sở của khách hàng ( CPE)
Nhà quản lý cần đơn giản hoá các quy địng về thiết bị tại cơ sở khách hàng
và chỉ cần kiểm tra chủng loại để kết nối vào mạng. Việc đơn giản hoá này sẽ
kích thích thị trường thiết bị tại cơ sở của khách hàng ( CPE )
3.2.3.Những mặt trái của cạnh tranh
Vốn tư nhân không kể trong nước hay nước ngoài sẽ được thu hút thông
qua thị trường cạnh tranh. Hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân sẽ bị chi
phối bởi lợi nhuận và họ thường không muốn tham gia vào các thị trường phi lợi
nhuận. Ví dụ, khu vực nông thôn không có nhiều hộ gia đình có khả năng sử
dụng dịch vụ viễn thông, các khu vực thành thị nghèo cũng khó có khả năng sử
dụng dịch vụ viễn thông, việc cung cấp tới các vùng hẻo lánh lại đòi hÁi chi phí
đầu tư lớn. Các khu vực này không mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà đầu tư.
Vấn đề là ai sẽ lắp đạt các cơ sở viễn thông ở các khu vực không có lợi nhuận.
Chính phủ sẽ có trách nhiệm đảm bảo dịch vụ viễn thông được cung cấp tới
mọi người dân và phải xem xét các biện pháp cung cấp dịch vụ tới các khu vực phi
lợi nhuận. Nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phổ cập chính là câu trả lời cho vấn đề này.
Nhìn chung, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ phải tiếp tục phát triển cơ sở hạ

tầng viễn thông khi đạt được một mật độ điện thoại nhất định. Các tổ chức chính
phủ hoặc công cộng của các nước đang phát triển không thể tài trợ cho các dự án
này bằng nguồn vốn của mình. Vì vậy, các dự án phát triển viễn thông phải sử
dụng vốn nước ngoài. Tuy nhiên , Chính phủ cần kiểm soát nguồn vốn này theo
chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
3.3.Kinh nghiệm từ một số nước
10
Mở cửa thị trường và khuyến khích cạnh tranh trong viễn thông
Tại Nhật Bản, từ tháng 4/1985 bắt đầu giai đoạn một của quá trình cải cách viễn
thông. Trong giai đoạn này, Nhật Bản tiến hành mở cửa thị trường viễn thông,
bắt đầu có cạnh tranh và tư nhân hoá NTT. Năm 1995 là giai đoạn hai của quá
trình cải cách với chính sách cạnh tranh tự do. Những nguyên tắc cạnh tranh bắt
đầu được ban hành. Giai đoạn này tập trung vào chính sách xúc tiến kết nối và
cơ cấu lại NTT. Tháng 7/1999, chính sách cạnh tranh được thúc đẩy xa hơn, chú
trọng phổ biến và phát triển Internet, chuẩn bị cho môi trường truyền thông, xúc
tiến và phát triển sử dụng radio. Từ tháng 6/2001, Nhật Bản có thêm chính sách
mới cho khuyến khích cạnh tranh trong đấu thầu để xúc tiến cách mạng công
nghệ thông tin và xúc tiến xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến công nghệ
thông tin. Uỷ ban giải quyết tranh chấp trong kinh doanh viễn thông và cơ cấu
quỹ phổ cập dịch vụ được thành lập . NTT được mở rộng sự tự do trong điều
hành kinh doanh.
Nhờ chính sách khuyến khích cạnh tranh nên số nhà khai thác trong thị
trường viễn thông đó tăng lên đáng kể. Vào tháng 1/1985 Nhật Bản có tổng số
87 nhà khai thác, đến tháng 6/2003 tổng số đó có 11.540 nhà khai thác, gấp 132
lần so với 18 năm trước đó. Cước phí dịch vụ viễn thông cũng giảm đều. Cước
điện thoại đường dài và dịch vụ điện thoại quốc tế hiện nay chỉ còn bằng chưa
đến 10% so với năm 1985. Thói quen sử dụng dịch vụ điện thoại di động cũng
thay đổi. Đến tháng 11/2000, số thuê bao di động đó vượt số thuê bao cố định.
Vào thời điểm này, số thuê bao di động đó đạt 62,8 triệu trong khi thuê bao cố
định mới đạt 62,2 triệu.

Số lượng thuê bao băng rộng đặc biệt là DSL đó tăng mạnh. Tháng 9/2003
đó có 12,29 triệu thuờ bao trong đó có hơn 9,2 triệu thuờ bao DSL.
Sau 3 năm nữa giấy phép khai thác dịch vụ di động thế hệ thứ hai (2G) sẽ
hết hạn ở một số nước. Các nhà quản lý sẽ phải xem xét cấp các giấy phép mới
11
cho các nhà khai thác 2G, có tiếp tục chuyển sang nắm giữ kinh doanh 3G, bao
gồm cả phổ tần số hay là chuyển nú cho các nhà khai thác mới. Các nhà quản lý
cũng sẽ phải xem xét cần thiết có bao nhiêu nhà khai thác cạnh tranh với nhau
trên thị trường của họ: Nói một cách đơn giản, có nhiều thành viên tham gia
cạnh tranh có nghĩa là sự cạnh trạnh diễn ra càng mạnh, tuy nhiên thị trường sẽ
như thế nào nếu có quá nhiều nhà khai thác. Chắc chắn là sẽ khởi động một cuôc
chiến giữa các nhà tham gia khai thác 3G, khi mà họ cảm thấy phải trả quá nhiều
cho giấy phép của mình, và một sự xâm nhập mới sẽ làm giảm giá trị đầu tư của
họ.
Tại khu vực châu Á - ThÁi Bình Dương, các nhà quản lý HongKong,
OFTA, cấp giấy phép kinh doanh 2G có thời hạn ngắn hơn các loại giấy phép
khác. Do mức độ thấp của mật độ dich vụ mobile data ở Hongkong OFTA muốn
làm sôi động thị trường này bằng việc làm hội tụ các nhà khai thác 3G.
Đề xuất của OFTA
Hongkong là một trong những nơi có sự cạnh tranh cao trong thị trường
viễn thông trên thế giới. Hongkong có 11 mạng 2G của 6 nhà khai thác dịch vụ
trên số dân là 8,7 triệu người, mật độ gần như bóo hoà. OFTA đấu giá 4 giấy
phép 3G vào năm 2002, chỉ có 4 nhà khai thác tham gia, và tất cả đều đang nắm
giữ giấy phép 2G. Giấy phép 3G yêu cầu mỗi nhà khai thác cung cấp 30% dung
lượng của nó cho dịch vụ MVNO (khai thác mạng ảo di động). Các nhà tham
gia đấu thầu khai thác 3G sẽ đấu giá trên cơ sở trả tiền quyền khai thác: phần cố
định tối thiểu 50 triệu $HK một năm trong 5 năm đầu và 5% tổng thu nhập cho
các năm tiếp theo. Đề xuất của OFTA là:
- Cấp mới 9 giấy phép 900 và 1800MHz 2G cấp cho 6 nhà khai thác 2G
đang cung cấp dịch vụ GSM. Các nhà khai thác 2G sẽ được cho phép chuyển

sang 3G. Giấy phép mới có giá trị như giấy phép 3G bao gồm cả yêu cầu cung
cấp MVNO và tiền mua quyền khai thác.
12
- OFTA thu lại giấy phép tần số cấp cho Hutchison khai thác mạng CDMA one
và của CSL khai thác mạng TDMA. Cả 2 có dưới 40.000 thuê bao, theo OFTA
không đáng được xem xét cấp mới Vì không phát triển được thị trường.
- OFTA dự định thay thế phổ dùng cho TDMA sang dùng CDMA. Các giấy
phép 3G mới yêu cầu cung cấp cho 50% dân số với tốc độ dữ liệu cao nhất đạt
2Mbps trong 3 năm và 25% hoặc 50% dung lượng là của dịch vụ số liệu. OFTA
cũng không đưa ra loại công nghệ áp dụng nhưng thừa nhận rằng giấy phép có
thể chỉ cấp cho công nghệ CDMA2000. Giấy phép mới cũng bao gồm yờu cầu
về phạm vi cung cấp MVNO và mức phớ.
- Nếu các nhà khai thác 2G không tham gia đấu giá dịch vụ 3G và giấy
phép CDMA2000 thuộc về nhà khai thác dịch vụ mới, Hongkong sẽ có 7 mạng
3G, mỗi một mạng có thể chỉ có một MVNO: tổng số 14 nhà khai thác 3G hoặc
mỗi mạng có 600.000 người dùng so với mỗi nhà khai thác 3G có 28-40 triệu
người dùng ở Nhật.
So sÁnh với Nhật/Hàn Quốc
Hongkong có mức độ canh tranh thấp ở dịch vụ mobile data. Mỗi người
Hongkong chỉ gửi trung Bình 11 SMS một tháng so với trên 200 SMS một tháng
ở Nhật và Hàn Quốc. Không đến 1,5 % thuê bao di động ở HongKong truy nhập
Internet so với 1/2 ở Hàn Quốc và xấp xỉ 80% ở Nhật.
Các nhà khai thác 3G hiện nay sẽ triển khai mạng WCMA: Hutchison đó
triển khai từ 1/2004 và 3 nhà khai thác khác triển khai sau 12 tháng.
OFTA tin rằng bằng việc đưa ra tiêu chuẩn CDMA 2000, đó được sử dụng ở
Nhật và Hàn Quốc sẽ tạo ra bức tranh mới cho thị trường ở đây. Tuy nhiên
OFTA đó sai lầm khi xem xét nguyên nhân thành công của dịch vụ Mobile data
tại Nhật và Hàn Quốc. Mobile data đó làm khởi sắc ở Nhật và Hàn quốc những
mạng di động có tốc độ số liệu thấp như mạng 2G và 2.5G ở Hongkong hiện
nay. Mật độ Mobile Internet ở Hàn Quốc đạt gần 40% nhiều gấp 30 lần mật độ ở

13
Hongkong, trước khi triển khai CDMA 1x EVDO. ở Nhật, dịch vụ số liệu bắt
đầu được phân chia cho các mạng PDC của DoCoMo, KDDI và J-phone với tốc
độ số liệu tối đa 9,6Kbps. CDMA one chỉ chiếm phần nhỏ trong thị trường di
động của Nhật. Mạng tốc độ cao không được triển khai ở Nhật cho đến giữa
năm 2002, trong khi vào thời gian này, mật độ mobile Internet đó có 60% tổng
số người dùng.
Công nghệ CDMA2000, do đó, không thể là viên đạn phù thuỷ cho mục
đích của OFTA. Việc mở rộng dịch vụ Mobile data ở Nhật và Hàn Quốc được
định hướng bằng phương tiện quan hệ với cán cân lớn của thị trường, số lượng
nhỏ các nhà khai thác, lợi nhuận tốt của mạng 2G, có sự hợp tác giữa các nhà
khai thác và sản xuất máy cầm tay, và sự cho phép mở rộng dịch vụ ứng dụng
trên mobile của chính quyền.
Nếu các nhà quản lý học được bất kỳ bài học nào về sự thành công của dịch
vụ Mobile Data ở Nhật và Hàn Quốc, đó sẽ là thách thức với các thị trường nhỏ
đối mặt với bản sao của thành công đó. Việc OFTA đề xuất tăng số lượng các
nhà khai thác 3G ở Hongkong sẽ làm chật ních thị trường dường như đó dư
thừa, sự ảnh hưởng của nó sẽ làm giảm quy mô của nhà khai thác vốn đó nhỏ.
Bao nhiêu là quá nhiều?
Phải thừa nhận rằng cạnh tranh là tốt và có nhiều nhà tham gia cạnh tranh
còn tốt hơn nữa. Song các nhà quản lý, người chịu trách nhiệm thúc đẩy cạnh
tranh để đem lại lợi ích cho xã hội cần phải xác định bao nhiêu nhà khai thác là
đủ.
Câu trả lời đơn giản là có điều gỡ đó tác động làm thay đổi sự tuần hoàn tự
nhiên của dũng vốn đầu tư vào mạng di động. Khi bắt đầu triển khai mạng của
mình, các nhà khai thác phải thực hiện đầu tư trước khi kiếm được lợi nhuận từ
bất kỳ khách hàng nào. Trường hợp để có lợi nhuận thu được từ việc mở rộng
14
dịch vụ mới, phải tăng vốn đầu tư, đầu tư mới này cần thiết cho việc mở rộng
dung lượng do đòi hÁi của khách hàng.

Trường hợp này còn dễ nhận thấy ở mạng 3G bởi Vì phổ tần số sử dụng
cho khai thác 3G cao hơn, với đòi hÁi về dung lượng lớn, mật độ trạm phải dày
đặc và do đó phí tổn đầu tư cao hơn rất nhiều .
Do giá của mạng mobile hầu như không đổi và còn giảm, cường độ cạnh
tranh có thể lái giá xuống thậm chí còn thấp hơn giá thành. Tăng số lượng nhà
khai thác có thể làm rớt giá, điều này sẽ nhận thấy rõ rệt trên thị trường và thu
hút được sự quan tâm của khách hàng. Thế nhưng lợi nhuận thu được trong một
thời gian ngắn sẽ dần bị mất đi hoặc phải thay đổi theo hướng kéo dài thời gian
kinh doanh, như đó trình bày ở trên do cạnh tranh đó làm mất đi sự đầu tư cho
công nghệ mới và phát triển sản xuất.
Điều này đó xảy ra ở Hongkong. Cạnh tranh ở mức độ cao đó làm giÁ
voice nằm trong số nơi có giá rẻ nhất trên thế giới: theo số liệu ITU, 2002, 1
tháng dùng 300 phút đàm thoại giá ở Nhật là 80USD, trong khi ở Hongkong
không đến 20USD, và dĩ nhiên cho đến nay giá còn thấp hơn do vẫn tiếp diễn
cuộc chiến về giá. Một điều có thực là ở Hongkong thực hiện một cuộc gọi còn
rẻ hơn gửi 1 SMS. Kết quả Hongkong không bao giờ phát triển được dịch vụ
mobile data và các nhà khai thác 2G tập trung cho việc cố gắng tồn tại, không
chú trọng đầu tư cho các dịch vụ tương lai với triển vọng không chắc chắn.
Đó đến lúc, OFTA phải thấy được nhận định sai về mật độ thấp của dịch vụ
mobiledata ở Hongkong: nguyên nhân chính là do trước đây đó cấp quá nhiều
giấy phép cho các nhà khai thác.
Lý thuyết thứ hai của OFTA cho rằng, bằng việc quy định mức độ cung cấp
tối thiểu dịch vụ số liệu trong giấy phép khai thác 3G, các nhà khai thác mới có
thể sẽ buộc phải đổi mới, và do đó làm cho các nhà khai thác cũ cũng sẽ phải đổi
15
mới. Cách tiếp cận của OFTA là “ làm cho một nhà khai thác đổi mới, sau đó tất
cả sẽ đổi mới”.
Tuy nhiên các nhà khai thác sẽ chỉ đổi mới nếu hy vọng thực hiện được sự
đầu tư có hiệu quả. Tăng số lượng các nhà khai thác, sự đổi mới dường như còn
bị giảm đi. Vấn đề ở đây là, nếu số nhà tham gia cạnh tranh quá lớn, động cơ

cho việc đổi mới có thể biến mất. Điều này gọi là hiệu ứng “Schumpeterian’.
Do đó, một thị trường dịch chuyển từ độc quyền, sự đổi mới sẽ tăng với số
lượng nhà cạnh tranh, đến một điểm nào đó, tăng các nhà cạnh tranh sẽ làm cho
nó đi theo chiều hướng ngược lại. Quan hệ giữa số lượng nhà cạnh tranh với sự
đổi mới theo hình chữ U ngược.
Điều mạo hiểm là các nhà quản lý sẽ sai lầm khi đó làm cho thị trường hiện
nay ở tỡnh trạnh chõn của chữ U trên đồ thị, mức độ thấp của đổi mới có nghĩa
thị trường đang ở bên chân trái của chữ U (điểm A), khi có nhiều nhà cạnh
tranh, sẽ thay thế sang bên chân phải của chữ U (ở điểm B), nghĩa là có quá
nhiều nhà tham gia cạnh tranh. Dĩ nhiên, nếu các nhà quản lý nghĩ rằng thị
trường ở điểm A nhưng thực ra nó lại ở điểm B, kết quả của việc cấp nhiều giấy
phép thật là tàn khốc. Mức độ mạo hiểm của luật lệ không giống như tỡnh
huống biến đổi trên. Nếu các nhà quản lý cho rằng thị trường ở điểm B trong khi
thực ra nó ở điểm A, các nhà quản lý có thể từng bước sửa chữa sai lầm và khắc
phục việc chậm đổi mới bằng việc cấp giấy phép cho nhà khai thác mới. Rõ ràng
là lợi nhuận biến mất theo sự đổi mới với chu kỳ ngắn, những điều này giống
như sự quá mức do giá thành quá cao và đi tới phá Vì mong muốn, nếu các nhà
quản lý đó sai lầm khi cấp quá nhiều giấy phép khai thác.
Những chứng cứ thị trường Hongkong đó ở sai vị trớ của trên chữ U là:
Hongkong là một thị trường nhỏ, mức độ đổi mới sẽ chậm hơn các thị trường
lớn.
16
- Hongkong là một trong những thị trường có mức độ cạnh tranh và phân
chia nhỏ trên thế giới. ở những nước mức độ phân chia nhỏ thấp hơn như Nhật,
Hàn Quốc và Singapore, mật độ sử dụng dịch vụ dữ liệu lớn hơn.
- Hongkong không chỉ là thị trường nhỏ, mức độ cạnh tranh cao, phân chia
nhỏ đồng thời các nhà khai thác lớn cũng chỉ có thị trường chia nhỏ. Thực tế chỉ
ra rằng những nhà khai thác lớn có sự đổi mới tốt hơn như ở thị trường di động
của Nhật và Hàn Quốc.
Nếu chấp nhận một thực tế là đó có quá nhiều giấy phép cho các nhà khai

thác di động, đâu là con số tối ưu? Câu trả lời là khác nhau cho các thị trường
khác nhau, điều cốt yếu phụ thuộc vào độ lớn của thị trường.
Một điều lý thú là, qua kinh nghiệm ở cả thị trường lớn và nhỏ, bao gồm cả
những biến đổi hiện tại ở một số nước, người ta đó đưa ra một giả thuyết con số
đúng phải nhỏ hơn 5, có thể là 3 hoặc 4.
Goldman Sachs khi so sánh sự chia sẻ thị trường ở các nước Châu Âu phản
đối con số của phép đo “sức khoẻ tài chính” chống lại sự chia sẻ thị trường,
giống như EBITDA hoạt động theo dũng chảy tự do của tiền tệ. Điều này phù
hợp với phát hiện rằng các nhà khai thác có thị phần nhỏ hơn 25% thực hiện rất
khó phép đo “sức khoẻ tài chính”.
Goldman Sachs nhấn mạnh rằng, các nhà quản lý nên bỏ ý nghĩ ”nhiều nhà
tham gia cạnh tranh có nghĩa nhiều sự cạnh tranh” và “để cho thị trường tự
quyết định”, quan điểm này có vẻ là quan điểm của OFTA?: “ở đây có một nghi
ngờ nhỏ là sự tiêu thụ tăng mang lại lợi nhuận khi mà giá cước di động bị giảm,
từ đó đi đến quan điểm là với cước phí thu được không cung cấp đủ để đầu tư
vốn cho cải thiện chất lượng, sự đổi mới sẽ chậm chạp, và cũng làm giảm lực
lượng lao động. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó được thông qua nhưngcó điều
FCC chỉ mới xem ảnh hưởng làm suy yếu ở vài thị trường có sự cạnh tranh quá
17
mức”. Những quan điểm này được xác nhận bởi sự giảm gần đây số nhà khai
thác di động ở nhiều thị trường phát triển, trong nhiều trường hợp có tác dụng cổ
vũ các nhà quản lý:
- ở ý, Blu biến mất khÁi thị trường năm 2002, bỏn tài sản cho các nhà khai
thác khác.
- ở Pháp, phí giấy phép 3G năm 2001 giảm từ 5 tỷ Euro/1 giấy phép xuống
619 triệu Euro, giấy phép thứ 4 không được thực hiện bởi bất kỳ nhà khai thác
nào.
- ở Bỉ, Oniway rút khÁi thị trường năm 2002, bỏn tài sản cho các nhà khai
thác khác.
- ở Thụy điển, Orange rút khÁi thị trường 3G vào năm 2002, do áp lực của

sự yờu cầu trong giấy phép và điều kiện thị trường.
- ở úc, nhà khai thác đứng thứ 5, One.Tel đó bỏn thÁo và rỳt khÁi thị
trường vào năm 2001, chỉ còn 4 nhà khai thác.
- ở Ireland, 4 giấy phép 3G được phát ra, nhưng chỉ có 3 giấy phép được bỏ
thầu.
- ở Nauy, một nhà khai thác đó trả lại giấy phép 3G vào năm 2002.
- ở Malaysia, các nhà quản lý quyết định chỉ 3 giấy phép 3G là đủ, nhưng
chỉ có 2 được thực hiện.
Nếu cấp giấy phép cho nhiều mạng không phải là câu trả lời cho hiện tượng
mật độ dịch vụ số liệu trên mạng di động thấp ở Hongkong, thì đâu là nguyên
nhân?
Kinh nghiệm ở Nhật và Hàn Quốc chỉ ra rằng thành công trong việc phát triển
thị trường số liệu được đặc trưng bởi “vòng tròn thoả mãn” liên quan đến việc
18
việc cung cấp và xây dựng yêu cầu xung quanh dung lượng, chứ không chỉ là
công nghệ. Khi dung lượng tốt được cung cấp đủ, mật độ mobile data sẽ tăng; và
quay lại vấn đề, để có thể đáp ứng được dung lượng lớn, cần phải có tiền để đầu
tư phát triển.
Dung lượng, ở cả hai mặt nhà cung cấp và nhu cầu của người dùng, là chỡa
khoá lÁi “vòng tròn thoả mãn”. ITU khuyến nghị:
‘Có một cơ hội to lớn để phát triển mobile Internet, tuy nhiên, cần phải
cung cấp dịch vụ và các ứng dụng mà người dùng muốn có và họ có thể thanh
toán được. ở tất cả các cuộc tranh cói về Mobile Internet, quan điểm đơn giản
này lại hay bị bỏ qua.”
Singapore đó tiếp cận bằng dựng phương pháp đấu giá để tạo ra quỹ phát
triển nội dung và và thói quen sử dụng dịch vụ số liệu cho người sử dụng.
Singapore bây giờ đó có mật độ mobile data đứng thứ 3 ở châu Á - ThÁi Bình
Dương sau Nhật và Hàn quốc.
Kết luận
Các nhà quản lý nên xem xét học tập kinh nghiệm về thị trường mobile data

ở Nhật và Hàn Quốc. Nhưng khi thời hạn giấy phép 2G kết thúc, cần thiết phải
cẩn thận khi các nhà quản lý dựng giấy phép phổ tần số như là điểm chốt trong
việc thực hiện ý đồ của mình. Các nhà quản lý, cũng như các nhà khai thác phải
thay đổi tư duy và thiết lập chương trình lâu dài cho sự phát triển dịch vụ dữ
liệu.
19
II.Thực trạng cung cấp dịch vụ Viễn thông nói chung và dịch vụ điện
thoại di động nói riêng ở Việt nam
1.Dịch vụ Viễn thông nói chung
1.1.Hiện trạng khai thác
1.1.1.Tổng quan
Dưới VNPT, có 5 đơn vị thành viên chính là doanh nghiệp nhà nước chịu
trách nhiệm khai thác cung cấp các dịch vụ viễn thông ở Việt nam: VTN
( công ty viễn thông liên tỉnh ), VTI ( công ty viễn thông quốc tế ),VDC
( công ty điện toán và truyền số liệu ), VMS ( công ty thông tin di động ) và
GPC ( công ty dịch vụ viễn thông )
1.1.2.Phân loại các dịch vụ cung cấp theo nhà khai thác
1.2.Dịch vụ điện thoại
1.2.1.Các dịch vụ trong nước
Dịch vụ điện thoại được cung cấp như trong bảng sau:
Hạng
mục
Dịch vụ Hạng mục chi tiết dịch vụ
Ghi
chú
1 Liên quan đến chỉ cuộc
gọi
-Quay số rút gọn
-Quay đến địa chỉ số cố định
Tự

động
2 Hoàn thiện cuộc gọi -Hoàn thiện cuộc gọi tới khi không
có trả lời
Tự
động
3 Chuyển cuộc gọi -Chuyển cuộc gọi bận
-Chuyển cuộc gọi
Tự
động
4 Nhận dạng cuộc gọi -Hiện đường ây chủ gọi
-Nhận dạng cuộc gọi có mục đích
xấu
Tự
động
5 Tính cước cuộc gọi -Tính cước bên bị gọi Tự
động
6 Hội nghị -Điện thoại hội nghị
-Điện thoại đồng thời cả ba bên
Tự
động
20
7 Hạn chế cuộc gội -Hạn chế chuyển cuộc gọi
-Ngăn cuộc gọi ra ngoài
Tự
động
8 Dịch vụ ưu tiên -Ra khẩn cấp
-Khẩn
-An ninh quốc gia
Nhân
công

9 Dịch vụ diện thoại có
giấy mời
-Người gọi yêu cầu người được gọi
đến nói chuyện ở máy công cộng
Bỏn tự
động
10 Thuê kênh -Bưu điện thuê các kênh
1.2.2.Dịch vụ mới
Những dịch vụ mới sau đây đang phát triển
-Di động và vô tuyến cố định WLL (CDMA)
-Hội nghị thấy hình
-Thương mại điện tử
1.3.Dịch vụ viên thông cho nông thôn vùng sâu vùng xa
Tỉ lệ mật độ điện thoại cho các vùng huyện, xã được thực hiện thông qua
việc điều tra khảo sát thực tế. Kết quả điều tra cho thấy có một sự chênh lệch rất
lớn mật độ điện thoại giữa các vùng thành thị và nông thôn, có những nơI chênh
lệch nhau đến hàng chục lần. Nguyên nhân của sự khác biệt đó có thể xem xét
trên những khía cạnh sau:
-Sự khác biệt giữa nhu cầu của vùng đô thị và vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa
-Chi phí xây dựng ở vùng sâu, vùng xa lớn
-Những khó khăn về xây dụng do vị trí địa lý
2.Dịch vụ điện thoại di động nói riêng
2.1.Dịch vụ điện thoại di động mạng tế bào (CMTS)
Hiện nay dịch vụ điện thoại di động mạng tế bào do 6 doanh nghiệp cung
cấp và sắp tới sẽ có thêm 1 doanh nghiệp nữa
Tên công ty
Loại hệ
thống
Ghi

chú
21
VMS
(MobiFone)
Công ty Thông tin di động (VMS)
hoạt động dựa trên hợp đồng hợp
tác kinh doanh giữa VNPT và
Comvik, công ty của Thuỵ Điển.
VMS cung cấp dịch vụ GMS mạng
tế bào với tên mạng là “
MobiFone”.
GMS
GPC(VinaFone) Công ty dịch vụ viễn thông (hoặc
công ty di động, Nhắn tin và có điện
thoại thẻ(GPC) , là công ty thành
viên của VNPT. Mạng có tên là
VinaFone, cung cấp dịch vụ GMS
mạng tế bào trên toàn đất nước.
Mạng VinaFone cung cấp những
dịch vụ không chỉ ở những vùng có
lợi nhuận cao, mà còn ở các vùng
thu lãI suất thấp trên toàn quốc.
GMS
Công ty điện
bthoại di động
Sài Gòn
(Call Link)
Công ty điện thoại di động Sài Gòn
là công ty liên doanh giữa bưu điện
thành phố Hồ Chí Minh với công ty

điện thoại Singapore có mạng “Call
Link”, cung cấp dịch vụ tương tự tế
bào ở thành phố Hồ Chí Minh
Analog
AMPS/ D-
AMPS
Vietel Vietel được cấp phép năm 1996, có
kế hoạch cung cấp mạng tế bào trên
toàn quốc
CDMA
(800 MHZ)
22
Saigon Postel Saigon Postel được cấp phép năm
1996, có kế hoạch cung cấp dịch vụ
di động mạng tế bào ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long, sau đó trên
toàn quốc.
CDMA
(800 MHZ)
S-Fone Xin giấy phép hoạt động năm 2000,
dịch vụ hoạt động bắt đầu thời điểm
2002. Hiện nay bang tần phủ sóng ở
các khu vực như: Hà Nội, Hà Tây,
Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng,
Phủ Lý, Ninh Bình, Thái Nguyên…
Hanoi Telecom Hanoi Telecom đang trong quá trình
cấp phép, chưa hoạt động.
VP Telecom VP Telecom đang trong quá trình
cấp phép, chưa hoạt động
2.2.Hiện trạng dịch vụ

Vùng dịch vụ của dịch vụ điện thoại di động mạng tế bào
Nhà cung
cấp dịch
vụ
Vùng dịch vụ Ghi chú
MobiFone Hà Nội, Hà Đông, Phủ Lỗ, Văn Điển,……. Tu thang
6/1998
Tổng số tỉnh
vầ thành phố:
98
VinaFone Hà Nội, Hà Tây, Lào cai… Từ cuối thang
6/1997
Tổng số tỉnh
và thành phố :
23
52
Call Link Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rỵa
Vòng Tàu, Sông Bé
Hầu hết các tỉnh là, đặc biệt là tại trung tâm các tỉnh là vùng phủ sóng của
dịch vụ di động mạng tế bào như đã nói trên.
Số thuê bao: Xu hướng tăng thuê bao hàng năm
Năm 1993 1994 1995 1996 1997 6/1998 10/1998 6/1999
Số thuê
bao
4.060 10.000 25.830 59.000 108.200 167.500 234.032 266.293
Cho đến tháng 3 năm 2005 thì số đăng ký thuê bao này đã tăng đến
11.200.000 người với mật độ 13,8 máy/ 1 người (Bưu điện Hà nội ).
3.Cạnh tranh trong dịch vụ viễn thông nói chung và dịch vụ thông tin
di động nói riêng
3.1.Trong dịch vụ Viễn thông nói chung

Bưu chính cũng như viễn thông vốn là ngành phục vụ việc trao đổi thông
tin. Thời kỳ đầu nó được dùng cho công tác an ninh – quốc phòng, về sau phát
triển sang phục vụ cả cho cơ quan nhà nước các cấp. Mói cho đến sau này ngành
bưu chính – viễn thông chủ yếu vẫn được coi là một cơ quan sự nghiệp thông tin
liên lạc của Nhà nước, do Nhà nước tổ chức, Nhà nước đài thọ và phục vụ cho
sự nghiệp công ích. Đến thế kỷ thứ 17-18, khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển,
chủ nghĩa tư bản dần dần hình thành, giao lưu kinh tế – văn hoá tăng lên, thì
thông tin bưu chính, viễn thông ngày càng được nhiều tổ chức và cá nhân sử
dụng.
24
Bưu chính, viễn thông từ chỗ chủ yếu là làm nhiệm vụ phục vụ đó bắt đầu
chuyển sang làm một phần việc kinh doanh, nhưng nói chung Nhà nước vẫn
nắm và giữ vai trò chủ đạo; ngành bưu chính – viễn thông dần dần trở thành một
cơ quan sự nghiệp có thu, lấy thu bù chi, lỗ hay lãi là việc của Nhà nước. Riêng
về viễn thông, chủ yếu là điện bỏo rồi điện thoại, đó phát triển trước ở Mỹ, vào
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, dần dần hình thành các công ty chuyên doanh tư
nhân. Dù cho có sự phát triển sâu rộng như hiện nay, dịch vụ viễn thông đó triển
khai cạnh tranh toàn diện, nhưng do tính chất và đặc điểm của nó, ngành bưu
chính ở Mỹ vẫn là doanh nghiệp của Nhà nước. Còn ở nhiều nước phát triển
khác, cả Anh, Pháp, Đức, Nhật v.v cho đến gần đây Nhà nước vẫn giữ vai trò
chủ đạo trong dịch vụ bưu chính, viễn thông cơ bản, bảo đảm nhiệm vụ phục vụ
phổ cập và công ích, như điện thoại cố định, bưu phẩm – thư tín, trong cả nước
(trõ Tân Tây Lan đó thực hiện cổ phần hoá, tư nhân hoá bưu chính, viễn thông).
Theo cách làm của Mỹ, một số trong các nước này cũng bắt đầu thực
nghiệm việc cải cách bưu chính và viễn thông, nhưng bưu chính vẫn chưa có
thay đổi lớn, còn lĩnh vực viễn thông thì việc cổ phần hoá, tư nhân hoá, phát
triển cạnh tranh vẫn gặp nhiều khó khăn. Mỹ đó phải thay đổi chính sách - luật
pháp nhiều lần, đó hạn chế được độc quyền, khuyến khích cạnh tranh, nhưng
cũng đó và đang làm cho nhiều công ty lớn nhỏ phải điêu đứng (như World
Com, Qwest, AT&T v.v). Các doanh nghiệp viễn thông chủ chốt của các nước

Anh, Pháp, Đức, ý, Tõy Ban Nha, Nhật Bản v.v, trong môi trường cạnh tranh
gay go, quyết liệt, không thực sự Bình đẳng, đó bị thua lỗ nặng, nợ nần chồng
chất, các chính phủ và Liên minh Châu Âu phải đứng ra giải quyết, như đi đôi
với duy trì và phát triển cạnh tranh, đó đổi mới chính sách quản lý, chấn chỉnh
thị trường cạnh tranh, hạ giảm chi phí vận hành, hỗ trợ tài chính cho các công ty
có nguy cơ phá sản tiếp tục duy trì hoạt động phục vụ, Vì nếu không sẽ gây tổn
hại lớn cho kinh tế – xã hội.
25

×