Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

BCTT ĐỀ TÀI: Thừa kế theo pháp luật và Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.81 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................2
5. Bố cục của báo cáo.............................................................................................2
6. Lời kết.................................................................................................................3
PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP VÀ CÔNG VIỆC THỰC
TẬP...............................................................................................................................4
1. Giới thiệu về đơn vị thực tập..............................................................................4
2. Công việc thực tập..............................................................................................4
PHẦN 2: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH........................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT............................................................. 6
1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật và những trường hợp thừa kế theo pháp
luật.......................................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật.......................................................... 6
1.1.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật.............................................6
1.2. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật.............................................................11
1.2.1. Căn cứ Diện thừa kế theo pháp luật.....................................................11
1.2.2. Hàng thừa kế theo pháp luật................................................................ 12
1.3. Thừa kế thế vị................................................................................................16
1.3.1. Khái niệm chung về thừa kế thế vị...................................................... 16
1.1.2. Điều kiện hưởng thừa kế thế vị............................................................16
1.3.3. Các trường hợp thừa kế thế vị............................................................. 18
1.4. Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế....................................19
1.4.1. Di sản thừa kế theo pháp luật...............................................................19
1.4.3. Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo pháp


luật.................................................................................................................. 21
TIỂU KẾT CHƯƠNG I........................................................................................... 23


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KHUYẾN NGHỊ LIÊN
QUAN.........................................................................................................................24
2.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật tại Tòa án nhân
dân 2.1.1. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp trong 3 năm
gần đây (2017-2020)...................................................................................... 25
Thành phố Hồ Chí Minh...................................................................................... 25
2.1.2. Các trường hợp công nhận sự thỏa thuận của các đương sự...............28
2.2.2. Các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án........................................... 28
2.2.3. Các trường hợp xét xử......................................................................... 29
2.2. Những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế theo
pháp luật tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và ngun nhân...........30
2.2.1. Những hạn chế và khó khăn................................................................ 30
2.2.2. Nguyên nhân........................................................................................ 31
* Về mặt khách quan:.............................................................................. 31
* Về mặt chủ quan:.................................................................................. 32
2.3. Khuyến nghị hướng hoàn thiện giải quyết các tranh chấp thừa kế theo pháp
luật tại Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.............................................. 33
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...........................................................................................34
KẾT LUẬN................................................................................................................34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................35


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một cá nhân sinh ra sẽ chết vào một ngày nào đó và việc chuyển dịch tài sản của

họ cho chủ thể khác được đặt ra. Đó chính là vấn đề thừa kế, một phần quan trong
của pháp luật Dân sự Việt Nam. Vì thế, pháp luật thừa kế cũng kéo theo nhiều dạng
tranh chấp phức tạp, trong đó là vấn đề tranh chấp thừa kế theo pháp luật. Trong
thời gian thực tập tại Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và thơng qua thống
kê của tịa án tơi biết được hằng năm Tòa án phải giải quyết hàng ngàn vụ án liên
quan đến thừa kế nói chung cũng như tranh chấp thừa kế theo pháp luật nói riêng,
các tranh chấp thừa kế theo pháp luật tăng lên đáng kể và ở nhiều cấp xét xử khác
nhau gây tốn kém cả về thời gian và chi phí xét xử .
Tại Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiều vụ tranh chấp thừa kế theo
pháp luật phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục khơng cao. Có những bản án
quyết định của Tòa án vẫn bị coi là chưa “thấu tình đạt lý”, sở dĩ cịn tồn tại những
bất cập đó là do nhiều nguyên nhân.
Xuất phát từ những lý do trên, kèm theo cơ sở những kiến thức được học tập,
trang bị từ Trường Đại học Kinh Tế - Luật kết hợp với giảng viên hướng dẫn tại
Trường và dưới sự hướng dẫn của cô Thẩm phán Huỳnh Thị Như Hà và chị Thư ký
Nguyễn Thị Cẩm Nhung tại Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cùng với
những nỗ lực tìm hiểu của tơi, tơi quyết định chọn đề tài: “Thừa kế theo pháp luật
và Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh” để làm đề tài báo cáo. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về phương
diện lý luận cũng như thực tiễn tại Tịa án.
2. Mục đích nghiên cứu
Tơi xác định chọn đề tài này cũng dựa trên cơ sở có những mục đích nghiên cứu
rõ ràng như quy định thừa kế theo pháp luật, những trường hợp thừa kế theo pháp
luật, diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam...Từ đó, nắm được khái niệm,
cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật Việt Nam
Đến nay vẫn chưa có bài viết nào đề cập rõ ràng về thực tiễn giải quyết tranh
chấp thừa kế theo pháp luật tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - Thành
phố lớn nhất tại Việt Nam được phân chia thành 19 quận và 5 huyện với 322
phường - xã, thị trấn. Dân số năm 2019 của Tp. Hồ Chí Minh là 8.993.082


1


người1. Đây cũng là nơi nơi xảy ra nhiều vụ tranh chấp nhất Việt Nam, trong đó
các tranh chấp thừa theo pháp luật chiếm phần tỉ trọng lớn và phức tạm. Từ đó
hiểu được được thực tiễn giải quyết tại Tịa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ những vấn đề trên thì việc đưa ra đề tài báo cáo thực tập tốt nghiệp về
“Thừa kế theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tịa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh” là vấn đề cấp thiết và đó cũng chính là lý
do mà tơi chọn đề tài này để tìm hiểu rõ. Từ đó phân tích những kết quả mà Tịa án
đã đạt được, đồng thời tìm ra nguyên nhân và đưa ra các khuyến nghị liên quan đến
giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu thừa kế theo pháp luật Việt Nam. Bên cạnh
quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì đề tài cịn nghiên cứu trong các văn bản liên
quan như Luật Hơn nhân và gia đình 2014. Đề tài này tập trung nghiên cứu những
vấn đề sau:
● Thứ nhất, Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo
pháp Luật.
● Thứ hai, nghiên cứu, đưa ra số liệu các năm gần đây, tìm ra nguyên nhân đưa ra
các khuyến nghị trong giải quyết các trường hợp thừa kế theo pháp luật Việt Nam
và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này tập trung về thừa kế trong lĩnh vực thừa kế theo pháp
luật Việt Nam. Báo cáo nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp
luật trong một số văn bản pháp luật như: Bộ luật dân sự 2015, Luật Hôn nhân và gia
đình 2014, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Để làm rõ thực tiễn tranh chấp tôi sẽ lấy thực tiễn tranh chấp thừa kế theo pháp
luật tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, các số liệu trong bài báo cáo này

được Tòa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh cung cấp.
5. Bố cục của báo cáo

Theo kết quả Tông điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tông cục thống kê:
/>-nam-2019.html,truy cập 20/12/2020
1

2


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bài báo cáo
được chia thành 02 phần với 02 chương như sau:
PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP VÀ CÔNG VIỆC THỰC TẬP
PHẦN 2: TIỂU LUẬN
 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.
 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TỊA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KHUYẾN NGHỊ LIÊN
QUAN.
6. Lời kết
Để giải quyết vấn đề đặt ra khơng những phải có kiến thức, năng lực mà cịn
phải có kinh nghiệm thực tế. Mặc dù tơi đã rất cố gắng nghiên cứu nhưng do trình
độ và kinh nghiệm cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tơi
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.

3


PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
VÀ CÔNG VIỆC THỰC TẬP

1. Giới thiệu về đơn vị thực tập
Từ Dinh Thống nhất, xuôi theo đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, qua đường Nguyễn
Du, chúng ta sẽ gặp một dinh thự, một cơng sở tuyệt đẹp. Tịa nhà mang số 131
đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, tọa lạc trên khu đất rộng lớn, được bao quanh bởi bốn
con đường: Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Du, Nguyễn Trung Trực và Lý Tự Trọng.
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 9 năm 1976.
Tính đến nay ngành Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khơng ngừng phát
triển, hiện nay ngành Tòa gồm Tòa án nhân dân Thành phố và 24 Tòa án nhân dân
quận - huyện.
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có 05 Tòa chuyên trách, 03 bộ phận
trực thuộc. Biên chế của tồn ngành ban đầu chỉ có 80 người nay lên đến 734 cán bộ
- công chức (thành phố 233; quận - huyện 501), trong đó có 253 Thẩm phán (thành
phố 81; quận - huyện 172), 383 Thư ký (thành phố 119, quận - huyện 264), 98 cán
bộ - công chức khác (thành phố 33; quận - huyện 65) chưa tính đến số hợp đồng.
2. Cơng việc thực tập
Trong q trình thực tập tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh dưới sự
hướng dẫn của Thẩm phán Huỳnh Thị Như Hà và Thư ký Nguyễn Thị Cẩm Nhung
tại Tòa Dân sự, bản thân tôi đã được tiếp cận với thực tiễn đang diễn ra của các hoạt
động của Tòa án. Cùng sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô Thẩm phán và chị Thư
ký trong thời gian này để tơi có thể sử dụng nguồn tư liệu của Tòa án phục vụ cho
bài báo cáo thực tập của mình đồng thời vận dụng kiến thức của mình đã được học
để hồn thành những cơng việc, nhiệm vụ được giao một cách nhanh nhất, tốt nhất
và hiểu quả nhất trong thời gian từ 12/10/20120 đến 20/04/2021.
Những ngày đầu mới vào, tôi được cô Thẩm phán hướng dẫn cách sắp xếp hồ
sơ và đánh bút lục hồ sơ cho cô Thẩm phán, đây cũng gần như là công việc xuyên
suốt khoảng thời gian thực tập tại Tịa. Theo đó tơi cịn được theo chân chị Thư kí
qua Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để hồn thành những cơng
việc liên quan đến q trình tố tụng. Được chị hướng dẫn lên danh sách đương sự,
những người có liên quan trong vụ việc, vụ án và từ đó lên lịch tiếp đương sự và gửi
giấy triệu tập cho đương sự.

Quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, bản thân tôi đã kết hợp những kiến thức
đã được các nghiên cứu, học tập trên lý thuyết ngay từ khi còn trên giảng đường

4


Trường Đại học Kinh tế - Luật kết hợp với những kiến thức tự tìm hiểu, tự nghiên
cứu các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề cần giải quyết. Trong q trình thực
hiện nhiệm vụ, tơi cũng thường xuyên trực tiếp trao đôi với những Thẩm phán, Thư
ký Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, bởi vì đây là những người có nhiều
kiến thức thực tiễn, đã trải qua nhiều năm làm việc tại Tòa án, qua đó đã giúp đỡ tơi
rất nhiều trong q trình thực hiện bài báo cáo của mình.
Trải qua kì thực tập kéo dài tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, vượt
qua những khó khăn, thử thách, trở ngại ban đầu dành cho một sinh viên năm cuối
như tơi học hỏi, tích lũy hành trang cho mình trước khi chính thức đến với cơng
việc sau khi ra trường.

5


PHẦN 2: THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật và những trường hợp thừa kế theo
pháp luật
1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật
Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định cụ thể tại Điều 649 về thừa kế theo pháp luật
như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự

thừa kế do pháp luật quy định”. Vì vậy, thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài
sản của người chết cho những người còn sống theo mối quan hệ ràng buộc về huyết
thống, về hôn nhân, sự thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và
người nhận di sản. Thừa kế theo pháp luật về bản chất là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của những người có quan hệ huyết thống, gia đình với người đã chết có tài
sản để lại.
1.1.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
Theo Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015 thì các trường hợp thừa kế theo pháp
luật được chia thành hai nhóm chính sau đây:
Nhóm thứ nhất: Di sản thừa kế hoàn toàn được chia theo pháp luật, bao gồm
các trường hợp sau đây:
+ Khơng có di chúc;
+ Di chúc khơng hợp pháp tồn bộ;
+ Di chúc hợp pháp nhưng tồn bộ di chúc khơng có hiệu lực thi hành do tất cả
người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc hoặc đều khơng có quyền hưởng di sản hay đều từ chối quyền hưởng di sản;
cơ quan, tô chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở
thừa kế.
Nhóm thứ hai: Di sản vừa được chia theo di chúc vừa được chia theo pháp luật,
bao gồm các trường hợp sau đây:
+ Có phần di sản không được định đoạt trong di chúc
+ Có một phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
+ Có một hoặc một số người trong số những người thừa kế theo di chúc chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc khơng cịn vào thời điểm mở

6


thừa kế hoặc có một hoặc một số người trong số những người thừa kế theo di chúc
không được quyền hưởng di sản hay từ chối quyền hưởng di sản theo di chúc.2

Theo quy định trên, việc thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng trong những
trường hợp sau đây:
1.1.2.1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp khơng
có di chúc hoặc được là coi là khơng có di chúc
Khi người để lại di sản khơng lập di chúc hoặc có người lập di chúc hoặc có lập
di chúc nhưng đã hủy di chúc như đốt, xé hoặc tuyên bố hủy di chúc đã lập. Cũng
được coi là khơng có di chúc trong những trường hợp người chết có để lại di chúc
nhưng khi có tranh chấp về thừa kế xảy ra di chúc đó đã bị thất lạc hoặc đã bị hư hại
hịan tồn đến mức không thể hiện được đầy đủ và rõ ràng ý chí của người lập di
chúc và cũng khơng thể chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc.
Ngoài ra, nếu bản di chúc được viết bằng ký hiệu hoặc bằng ngơn từ khó hiểu làm
cho tất cả người thừa kế có cách hiểu khơng đồng nhất về tồn bộ nội dung của bản
di chúc đó thì cũng được coi là khơng có di chúc. Trong các trường hợp nói trên,
tồn bộ di sản mà người chết để lại sẽ được phân chia cho những người thừa kế theo
quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp có di
chúc nhưng di chúc lại không hợp pháp
Di chúc chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện của một
giao dịch có hiệu lực và các điều kiện đã được quy định tai Điều 630 Bộ luật Dân sự
2015. Di chúc bị coi là không hợp pháp sẽ khơng có hiệu lực pháp luật, do vậy di
sản liên quan đến di chúc đó sẽ được giải quyết theo pháp luật. Tuy nhiên, một di
chúc bất hợp pháp có thể khơng có hiệu lực pháp luật ở nhiều mức độ khác nhau. Di
chúc bất hợp pháp có thể bị coi là vơ hiệu tồn bộ nhưng cũng có thể chỉ vơ hiệu
một phần nên khi giải quyết một tranh chấp về thừa kế có liên quan đến di chúc
phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, vào các điều kiện mà di chúc đã vi phạm để
xác định mức độ vô hiệu của di chúc.
Một di chúc sẽ bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu di chúc đó do người khơng cịn minh
mẫn, sáng suốt lập ra hoặc di chúc đó khơng phải là ý chí tự nguyện đích thực của
người lập di chúc, do bị người khác cưỡng ép, ngăn cản hoặc lừa dối. Di chúc cũng
bị coi là vơ hiệu tồn bộ nếu do người dưới mười lăm tuôi lập ra hoặc do người đủ

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr277.
2

7


mười lăm ti lập ra nhưng khơng có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Ngoài ra, một di chúc dù không vi phạm các điều kiện trên vẫn có thể bị vơ hiệu
tồn bộ nếu nội dung của di chúc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Khi xác định di
chúc khơng có hiệu lực tồn bộ thì vụ thừa kế sẽ hồn tồn được giải quyết theo
pháp luật, nghĩa là toàn bộ di sản mà người lập di chúc để lại sẽ được chia cho
những người thừa kế theo pháp luật của họ.
Một di chúc đã đáp ứng được các điều kiện về năng lực hành vi, tính tự nguyện,
độ minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc nhưng nội dung của nó lại có một
phần khơng hợp pháp hoặc trái đạo đức xã hội và phần khơng hợp pháp đó khơng
ảnh hưởng đến hiệu lực đối với phần của lại của di chúc thì di chúc đó bị coi là vơ
hiệu một phần. Trong các trường hợp này, khi giải quyết tranh chấp về thừa kế thì
phần di sản có liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật sẽ áp dụng
thừa ké theo pháp luật để chia cho những người thừa kế theo pháp luật của người để
lại di sản, phần di sản liên quan đến phần di chúc có hiệu lực pháp luật sẽ được chia
cho những người thừa kế được xác định trong di chúc.3
1.1.2.3. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người
thừa kế theo di chúc chết trước hoắc chết cùng thời điểm với người lập di chúc,
cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở
thừa kế
Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người thừa kế là cá
nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trường hợp người thừa kế theo di chúc khơng là cá nhân thì phải tồn tại vào thời

điểm mở thừa kế”, thì người thừa kế nếu là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế, cơ quan, tơ chức được thừa kế. Vì vậy, khi giải quyết một vụ thừa
kế mà người chết có để lại một di chúc hợp pháp cần phải xác định cá nhân, tô chức
được chỉ định làm người thừa kế còn sống, còn tồn tại vào thời điểm người để lại di
sản chết hay khơng. Theo đó, nếu tất cả cá nhân được thừa kế theo di chúc đều đã
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, các cơ quan, tô chức
được hưởng di sản theo di chúc cũng khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
thì tồn bộ di sản của người chết để lại được chia cho những người thừa kế theo
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr278,279.
3

8


pháp luật của người đó. Nếu chỉ có một hoặc một một số người thừa kế theo di chúc
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, một hoặc một số cơ
quan, tơ chức khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ áp dụng thừa kế theo
pháp luật đối với phần di sản liên quan đến người thừa kế theo di chúc đã chết, cơ
quan, tơ chức khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế. Những người cịn sống, các cơ
quan, tơ chức cịn tồn tại vẫn được hưởng phần di sản đã được người để lại di sản
định đoạt trong di chúc. Tuy nhiên, trong những trường hợp này cần lưu ý ba vấn đề
sau:

4

Thứ nhất, nếu cá nhân là người được chỉ định trong di chúc khơng cịn vào thời
điểm mở thừa kế mà đã có con thì con của họ khơng được thế vị phần di sản mà nếu
còn sống, họ sẽ được hưởng theo di chúc nhưng sẽ được thế vị phần di sản mà nếu
còn sống, họ sẽ được hưởng theo pháp luật.

Thứ hai, nếu cá nhân là người thừa kế theo di chúc nhưng chưa được sinh ra vào
thời điểm người lập di chúc chết và cũng chưa sinh ra vào thời điểm vu thừa kế
được giải quyết thì phần di sản của cá nhân đó được dành ra và giao cho một người
quản lý để khi người đó được sinh ra nếu cịn sống sẽ được hưởng.
Thứ ba, các cơ quan, tô chức chỉ bị coi là khơng cịn nếu vào thời điểm mở thừa
kế các cơ quan, tơ chức đó đã chấm dứt sự tồn tại của mình một cách tuyệt đối do
giải thế hoặc tuyên bố phá sản. Nếu cơ quan tô chức được hưởng di sản thừa kế theo
di chúc bị chấm dứt do sát nhập, hợp nhất hoặc chia, tách được kế thừa quyền thừa
kế theo di chúc của cơ quan, tô chức cũ ( vì các điều 88, 89,90,91 của Bộ luật Dân
sự 2015 đều quy định rằng khi hợp nhất, sát nhập, chia, tách pháp nhân thì các
quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trước đó được chuyển giao cho nhân vật mới). Vì
vậy, phần di sản mà cơ quan, tơ chức cũ được hưởng theo di chúc vẫn được dịch
chuyển theo di chúc cho các cơ quan, tô chức mới được thành lập do hợp nhất, sát
nhập, chia, tách.5

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr278,279.
5
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr282-,283.
4

9


1.1.2.4. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng đối với phần di sản không
được định đoạt trong di chúc.
Trong trường hợp người lập di chúc chỉ mới định đoạt một phần di sản thì phần
di sản này được chia theo di chúc. Phần di sản chưa được định đoạt trong di chúc sẽ
áp dụng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Những người trong cùng

một hàng thừa kế sẽ được hưởng ngang nhau đối với phần di sản này. Vì vậy, một
người dù đã được hưởng di sản theo di chúc vẫn được hưởng một phần trong phần
di sản chưa được định đoạn nếu họ là người đứng trong hàng thừa kế được hưởng di
sản theo pháp luật, trừ trường hợp người lập di chúc đã nói rõ họ chỉ được hưởng
phần di sản theo di chúc.6
1.1.2.5. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người
thừa kế theo di chúc khơng có khơng có quyền hưởng di sản.
Người thừa kế theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản là những người được
người để lại di sản chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng chính họ lại có
một trong các hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 nên
đã bị pháp luật tước bỏ quyền hưởng di sản. Nếu toàn bộ những người thừa kế theo
di chúc đều khơng có quyền hưởng di sản thì áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với
toàn bộ di sản mà người thừa kế để lại. Nếu chỉ có một hoặc một số người thừa kế
theo di chúc khơng có quyền hưởng di sản liên quan đến người đó. Những người
thừa kế theo di chúc khơng có các hành vi nói trên được hưởng phần di sản mà
người để lại di sản đã xác định trong di chúc. Ngoài ra, nếu người thừa kế theo di
chúc đồng thời là người thừa kế theo pháp luật của người người để lại di sản còn
được cùng với những người thừa kế theo di chúc nhưng khơng có quyền hưởng.
1.1.2.6. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người
thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản.
Nếu người thừa kế theo di chúc thực hiện việc từ chối nhận di sản đúng với quy
định tại Điều 620 Bộ luật dân sự 2015 thì phần di sản liên quan đến họ sẽ được áp
dụng thừa kế theo pháp luật để giải quyết. Nếu người thừa kế theo di chúc không
đồng thời là người thừa kế theo pháp luật thì việc đồng thời họ từ chối nhận di sản
luôn chỉ là từ chối hưởng di sản theo di chúc. Nếu người thừa kế theo di chúc đồng
thời là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc thì cần phải xác định họ
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr282-,283.
6


10


từ chối toàn bộ (cả theo di chúc, cả theo pháp luật) hay chỉ từ chối nhận di sản theo
di chúc. Vì vậy, đối với những người này nếu họ chỉ từ chối quyền hưởng di sản
theo di chúc thì họ vẫn là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc nên
phần di sản được giải quyết theo pháp luật vẫn phải chia cho họ. Nếu họ đã từ chối
tịa bộ quyền hưởng di sản thì phần di sản đó được chia cho những người thừa kế
theo pháp luật khác của người để lại di sản.
Trong trường hợp toàn bộ những người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng
di sản thì áp dụng thừa kế theo pháp luật đối với tồn bơ di sản mà người lập di
chúc đã để lại. Theo đó tồn bộ di sản thừa kế được chia cho người chia cho người
thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Nếu chỉ có một hoặc một số người
thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản thì chỉ áp dụng thừa kế theo pháp
luật đối với phần di sản liên quan đến họ.7
1.2. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật
1.2.1. Căn cứ Diện thừa kế theo pháp luật
Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể được hưởng di sản
theo pháp luật của người chết nếu giữa họ với người chết đang tồn tại mối quan hệ
hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng cho đến thời điểm mở thừa kế hoặc giữa họ có
huyết thống trong phạm vi “hai đời bàng hệ”8 và “bốn đời trực hệ”9.

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr286.
8
Hai đời Bàng hệ: tức là khơng theo dịng trực tiếp, khơng phải theo quan hệ người này sinh ra
người kia, gồm anh, chị, em, chú, bác, cô, v.v.; phân biệt với trực hệ.
9
Bốn đời Trực hệ: tức là những người cùng dịng máu là những người có quan hệ huyết thống,
trong đó bốn đời này được hiểu người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.

7

11


.
Hình 1.1 Sơ đồ Diện thừa kế theo pháp luật
1.2.2. Hàng thừa kế theo pháp luật
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với
người chết và theo đó họ cùng đ hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người
chết để lại. Pháp Luật Việt Nam quy định về hàng thừa kế theo pháp luật theo
khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người
chết là cụ nội, cụ ngoại.
Theo quy định trên thì quan hệ thừa kế giữa những người trong cùng một hàng
thừa kế được xác định như sau:

12


Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế thứ nhất, có hai mối quan hệ thừa kế

sau đây:
+ Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Cơ sở để vợ, chồng được thừa kế tài sản
của nhau là quan hệ vợ chồng. Vợ - Chồng là mối quan hệ giữa một người dàn ông
và một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân mà Pháp luật công nhận. Quan hệ thừa kế
giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay cịn gọi là “thừa
kế đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó khi bên này chết thì bên kia là
người thừa kế ở hàng thứ nhất. Căn cứ xác định là quan hệ thừa kế giữa vợ và
chồng là quan hệ Hôn nhân. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 thì “Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”,
mặt khác, cũng tại khoản 5 Điều 3 luật này còn quy định “kết hôn là việc nam và nữ
xác lập mối quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của luật này về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hơn”. Như vậy, theo pháp luật hiện nay thì hơn nhân được pháp
luật cơng nhận phải là hơn nhân có đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Bằng chứng
của hơn nhân và từ đó là bằng chứng của quan hệ vợ/ chồng để được hưởng thừa kế
của nhau là giấy chứng nhận đăng ký kết hơn hợp pháp.10 Vì thế vợ - chồng được
thừa kế di sản của nhau khi một bên chết , nếu vào thời điểm mở thừa kế mà quan
hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại.
Khi xác định mối quan hệ này cần lưu ý những trường hợp tại Điều 655 Bộ luật
Dân sự 2015 quy định về việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản
chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác như sau:
1. Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hơn nhân cịn tồn tại mà sau
đó một người chết thì người cịn sống vẫn được thừa kế di sản
2. Trường hợp vợ chồng xin li hơn mà chưa được tịa án cho li hơn bằng bản án
hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người cịn sống
vẫn được thừa kế di sản.
3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì
dù sau đó đã kết hơn với người khác vẫn được thừa kế di sản.
Trong thực tế xảy ra những trường hợp vợ, chồng có mâu thuẫn, khơng muốn li
hơn mà muốn sống riêng nên chia tài sản chung. Sau đó một người chết, về mặt
pháp lí thì họ vẫn là vợ chồng, do đó người cịn sống vẫn được thừa kế di sản của

10

Nếu có khiếu nại về tính hợp pháp của đăng kí kết hơn, Tịa án phải xem xét lại đăng kí kết hơn.

13


người đã chết. Khi người chồng hoặc vợ chết thì người vợ hoặc người chồng là
người thừa kế hàng thứ nhất. Nếu họ khơng khước từ thừa kế thì đương nhiên có
quyền sở hữu đối với phần tài sản mình được thừa kế. Ở nước ta, do các điều kiện
khách quan mà pháp luật nước ta cịn thừa nhận hơn nhân thực tế của người chết.11
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con
- Cha mẹ đẻ, con đẻ của người để lại di sản.
Cha, mẹ là người thừa kế hàng thứ nhất của con đẻ và con đẻ là người thừa kế
hàng thứ nhất của cha, mẹ đẻ mình. Con đẻ của người chết được hưởng thừa kế của
người chết nên một người sinh ra baonhiêu người con thì các con đều là con đẻ của
người đó và được hưởng thừa kế. Điều đó có nghĩa là con trong giá thú hay ngoài
giá thú đều là người thừa kế của người sinh ra họ12 (không áp dụng đối với trường
hợp cho tinh trùng, cho nỗng, cho phơi13). Ở đây, con đẻ (ngay cả khi mới thành
thai ở thời điểm mở thừa kế14) được coi là người thừa kế di sản của cha mẹ không
phân biệt con trai hay con gái.15
- Cha mẹ nuôi, con nuôi của người để lại di sản.
Vấn đề thừa kế của con nuôi đã được các nhà làm luật quan tâm từ rất sớm.
“Theo luật cô Việt Nam, đại cương con nuôi nếu ở với cha mẹ ni thì được hưởng
bằng nửa phần di sản chia cho con do cha mẹ nuôi sinh ra; và khi được hưởng như
vậy thì phần hưởng trong gia đình sinh ra mình sẽ bị giảm”16.

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr311.
12

Sự bình đẳng giữa con trong giá thú và con ngồi giá thú đã được ghi nhận trong cơ luật Việt
Nam.
13
Đối với trường hợp cho tinh trùng, cho noãng, cho phôi theo Điều 21 Nghị định số 12/2003/NĐCP, “con được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu cầu quyền thừa
kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho trứng, cho phơi. Như vậy có thể suy
luận người cho tinh trùng, cho nỗn, cho phơi khơng có quan hệ cha, mẹ với người sinh ra từ tinh
trùng, nỗn, phơi được được cho và do đó khơng được thừa kế của nhau.
14
Điều 613 quy định về người thừa kế tại Bộ luật dân sự 2015 số: 914/2015/QH13 ban hành ngày
24/11/2015
15
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (tái bản lần thứ 4), Nxb. Hồng
Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội 2016, tr 223,224
16
Vũ Văn Hiền, Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, Hôn sản & tự sản - nxb Bộ Quốc gia
Giáo dục, Sàigòn - 1960, t2
11

14


Ngày nay, con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn
được thừa kế tài sản theo quy định về thừa kế thế vị và theo quan hệ thừa kế giữa
con nuôi và cha ni, mẹ ni và cha đẻ, mẹ đẻ. Về phía gia đình cha ni, mẹ ni,
con ni chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế
với cha mẹ và con đẻ của người nuôi con nuôi. Cha mẹ đẻ của người nuôi con nuôi
cũng không được thừa kế của người con ni đó.
Trường hợp cha ni, mẹ ni kết hơn với người khác thì người con ni khơng
đương nhiên trở thành con ni của người đó cho nên họ khơng phải là người thừa
kế của nhau theo pháp luật.17

Người đã làm con ni người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha, mẹ đẻ, ông
nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác, cơ, dì, chú, cậu
ruột như người không làm con nuôi của người khác.
Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như
cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau và cịn được thừa kế thế vị và
thừa kế theo quy định về Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và
cha đẻ, mẹ đẻ quy định tại Điều 653 Bộ luật dân sự 2015
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại.
Ở hàng thừa kế này con riêng của vợ và con riêng của chồng không phải là anh
chị em ruột của nhau, con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh, chị,
em của con đẻ người đó. Do đó, con ni và con đẻ của một người không phải là
người thừa kế hàng thứ hai của nhau vì họ khơng phải là anh, chị, em ruột.
Người làm con nuôi của người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của anh
chị em ruột của mình. Người có anh, chị, em ruột làm con ni của người khác vẫn
là người thừa kế hàng thứ hai của người đã làm con ni của người khác đó.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết
là cụ nội, cụ ngoại.

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr311.
17

15


1.3. Thừa kế thế vị

1.3.1. Khái niệm chung về thừa kế thế vị
Theo quy định Bộ luật dân sự 2015 tại Điều 652 đã quy định về thừa kế thế vị
như sau “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt
được hưởng nếu cịn sống.”
Trong cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” của Trường Đại học Luật Hà
Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1999 định nghĩa: “Thừa kế
thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế”.18
Thừa kế thế vị là trường hợp đặc biệt trong thừa kế theo pháp luật, là sự bảo
đảm việc truyền di sản của người chết xuôi xuống cho cháu, chắt theo trực hệ - là
quan hệ huyết thống - có tính chính thức và được coi trọng hơn cả so với các quan
hệ huyết thống khác trong ý thức và tập quán của nhân dân ta.19
1.1.2. Điều kiện hưởng thừa kế thế vị
Thứ nhất, con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản (cháu được thừa kế thế vị); cháu cũng chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người để lại di sản (chắt được thừa kế thế vị).
Thứ hai, những người thừa kế thế vị phải là người có quan hệ thuộc hàng thừa
kế thứ nhất và người thế vị luôn ở vị trí đời sau, tức là chỉ có con thế vị cha, mẹ để
hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ chứ không xảy ra trường hợp cha, mẹ thế vị
con để hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ.
- Thứ ba, giữa họ phải có quan hệ huyết thống về trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế
vị trí của cha, mẹ đẻ).
- Thứ tư, người thừa kế thế vị phải còn sống vào thời điểm người để lại di sản
chết hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước
khi người để lại di sản chết.
Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr323.
19

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr322-327.
18

16


- Thứ năm, khi còn sống, người cha hoặc mẹ của người được thế vị phải có
quyền được hưởng di sản của người chết (nếu bị tước hoặc bị truất quyền hưởng di
sản thừa kế thì con hoặc cháu của những người này không thể thế vị).
- Thứ sáu, bản thân người thế vị không bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 Điều
644 Bộ luật dân sự năm 2015. Thừa kế thế vị là trường hợp thừa kế đặc biệt. Do vậy,
những người thừa kế thế vị cũng rất đặc biệt. Khi xét về hàng thừa kế thì họ không
được hưởng di sản nhưng họ được nhận thay cho bố (hoặc mẹ) của họ (là những
người đáng ra được hưởng thừa kế nếu cịn sống). Theo quy định thì thừa kế thế vị
chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều kiện sau:
Những người thừa kế phải có quan hệ thừa kế thứ hai trong hàng thừa kế thứ
nhất (quan hệ thừa kế giữa cha mẹ, con), trong đó người thế vị phải là người ở đời
sau. Nghĩa là chỉ có con được thế vị cha mẹ mà khơng bao giờ có trường hợp cha,
mẹ thế vị cho con. Người được hưởng thừa kế thế vị có thể là con đẻ hoặc con nuôi.
Điều 653 Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa
kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều
677 của Bộ luật này.”
Thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người để lại di sản: Xét theo nguyên tắc thì khơng thể có trường hợp hai
người chết cùng một thời điểm. Nhưng trên thực tế xảy ra có những trường hợp
nhiều người chết trong một tai nạn mà không thể xác định được ai chết trước, ai
chết sau. Vì vậy, buộc phải suy đốn họ chết cùng một thời điểm. Nếu hai người
thừa kế tài sản của nhau mà được coi là chết cùng một thời điểm, thì họ sẽ không
được thừa kế của nhau, di sản của mỗi người được chia cho những người thừa kế

của họ. Pháp luật quy định như vậy để việc chia di sản thừa kế được tiến hành bình
thường, khơng ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế khác
Cháu, chắt của người để lại di sản phải còn sống hoặc chưa ra đời nhưng đã
thành thai vào thời điểm ông, bà, cụ chết mới được áp dụng chế định thừa kế thế vị:
Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của những người đã chết sang cho những người
còn sống. Do vậy, điều kiện để những người được hưởng thừa kế thế vị cũng là họ
phải còn sống hoặc đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế. Nếu thai nhi sinh ra và

17


cịn sống thì được hưởng phần di sản đó, nếu chết trước khi sinh hoặc ngay sau khi
sinh thì phần di sản được chia cho những người thừa kế khác.20
1.3.3. Các trường hợp thừa kế thế vị.
1.3.3.1. Cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà
Trong trường hợp cha đẻ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ơng nội thì
khi ơng nội chết con sẽ thay thế vị trí của cha đẻ để hưởng thừa kế từ di sản mà ông
nội để lại đối với phần di sản mà cha đẻ của mình được hưởng nếu còn sống. Nếu
cha đẻ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với bà nội thì khi bà nội chết con sẽ thay
thế vị trí của cha đẻ để hưởng thừa kế từ bà nội để lại đối với phần di sản mà cha đẻ
của mình được hưởng nếu cịn sống. Trong trường hợp mẹ đẻ chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với ơng ngoại thì khi ơng ngoại chết con sẽ thay thế vị trí của mẹ đẻ
để hưởng thừa kế từ di sản mà ông ngoại để lại đối với phần di sản mà mẹ đẻ của
mình được hưởng nếu còn sống. Nếu mẹ đẻ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
bà ngoại thì khi bà ngoại chết con sẽ thay thế vị trí của mẹ đẻ để hưởng thừa kế từ
bà ngoại để lại đối với phần di sản mà mẹ đẻ của mình được hưởng nếu cịn sống.
Trong trường hợp con ni chết trước cha ni mẹ ni thì con đẻ của người con
ni (tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi của người chết) được hưởng di sản mà đáng
lẽ cha, mẹ của cháu còn sống vào thời điểm mở thừa kế được hưởng. Nhưng nếu là
con ni của con đẻ thì trường hợp này lại không được thừa kế thế vị. Điều này

được giải thích như sau: con ni của một người khơng đương nhiên trở thành cháu
của cha, mẹ người nuôi con nuôi và quan hệ thừa kế theo pháp luật chỉ phát sinh
giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi mà không phát sinh quan hệ thừa kế giữa con
nuôi với những người thân trong gia đình cha, mẹ ni nên người con ni khơng
được nhận thay vào vị trí của cha, mẹ ni của mình mà nhận thừa kế thế vị di sản
thừa kế từ cha mẹ đẻ của cha mẹ ni mình. Vì vậy, con ni của một người không
được thừa kế thế vị di sản của cha đẻ, mẹ đẻ của người đó. Khi giải quyết việc thừa
kế thế vị ở trường hợp này cần lưu ý những vấn đề sau:
- Cháu phải còn sống vào thời điểm ông, bà chết mới là người thừa kế thế vị di
sản của ông, bà.

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr327-331.
20

18


- Cháu sinh ra sau khi ông, bà chết nhưng đã thành thai trước khi ông, bà chết
cũng là người thừa kế thế vị di sản của ông, bà.
1.3.3.2. Chắt được thừa kế thế vị di sản của các cụ
Trong trường hợp ông, bà, cha hoặc mẹ đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với cụ (người để lại di sản) thì người con của người cha hoặc mẹ đã chết đó (người
này là chắt của người để lại di sản) được hưởng phần di sản mà lẽ ra cha hoặc mẹ
của chắt (là cháu của người để lại di sản) được hưởng nếu còn sống vào thời điểm
người để lại di sản chết. Khi chắt thừa kế thế vị di sản của cụ thì phải đảm bảo là
chắt phải còn sống vào thời điểm cụ chết hoặc chắt sinh ra sau khi cụ chết nhưng đã
thành thai trước khi cụ chết cũng là người thừa kế thế vị di sản của cụ.21
1.4. Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế
1.4.1. Di sản thừa kế theo pháp luật

Hiện nay, theo qui định của pháp luật hiện hành, tại Điều 612 Bộ luật dân sự năm
2015 thì "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác". Như vậy, di sản thừa kế là toàn bộ tài sản
thuộc quyền sở hữu hợp pháp, quyền về tài sản của người đã chết (gồm cả quyền sử
dụng đất) mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của người đó và được chuyển
dịch hợp pháp cho những người thừa kế có quyền hưởng. Di sản thừa kế theo pháp
luật được xác định như sau:
Thứ nhất, tài sản riêng của người chết.Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự
năm 2015 thì "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản". Như vậy, thành
phần di sản bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau và không bị hạn chế về số lượng,
giá trị. Tài sản riêng là tài sản do người đó tạo ra bằng thu nhập hợp pháp, được
tặng cho, được thừa kế. Tài sản riêng thuộc quyền sở hữu độc lập của người đó khi
cịn sống, chẳng hạn như tiền lương, tiền thưởng, tư trang. Trong quan hệ hôn nhân,
tài sản riêng của vợ hoặc chồng bao gồm tài sản của vợ hoặc chồng có trước khi kết
hơn; tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ hoặc chồng được chia trong trường hợp chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân.

Phạm Văn Tuyết & Lê Kim Giang (2013) “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp”, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr327-331.
21

19


Thứ hai, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác. Di
sản của người chết khơng chỉ bao gồm tài sản riêng của người đó để lại mà còn bao
gồm cả tài sản trong khối tài sản chung với người khác. Trên thực tế, có nhiều
trường hợp tài sản là tài sản chung của nhiều người do được tặng cho chung, thừa
kế chung hoặc cùng góp vốn để hợp tác kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận… Do đó,

khi một đồng chủ sở hữu chết thì phần tài sản thuộc sở hữu của người đó có trong
khối tài sản chung được xác định là di sản. Theo qui định của pháp luật có hai hình
thức sở hữu chung đó là sở hữu chung hợp nhất và sở hữu chung theo phần. Tài sản
chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất và tài sản chung với người khác
là sở hữu chung theo phần.
Theo qui định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ
chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung; quyền sử
dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn; những tài sản không đủ chứng cứ để
xác định là tài sản riêng; tài sản riêng của các bên nhưng thỏa thuận nhập vào khối
tài sản chung. Đối với tài sản này, khi vợ hoặc chồng chết trước, phần di sản của
người chết trước được xác định bằng một nửa giá trị trong tông giá trị tài sản chung.
Trong trường hợp người để lại di sản khi còn sống là một trong những đồng sở
hữu chung theo phần, khi chết phần quyền tài sản của người này trong khối tài sản
chung sẽ là di sản thừa kế. Ngồi những trường hợp điển hình ở trên, Bộ luật dân sự
hiện hành còn quy định rõ các quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu trí tuệ, các khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tiền bảo
hiểm là di sản thừa kế của người chết để lại. Điểm đáng chú ý ở trường hợp này là
không phải tất cả các tài sản, quyền tài sản của người đã chết đều được coi là di sản
thừa kế. Quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân người để lại di sản
không được coi là di sản thừa kế như quyền nhận trợ cấp, quyền được nhận lương,
nghĩa vụ cấp dưỡng của người để lại di sản khi còn sống cho con chưa thành niên,
con đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao động vì đây là quyền dân sự gắn
liền với mỗi cá nhân không thể chuyển giao cho người khác.
1.4.2. Chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Người được hưởng thừa kế theo pháp luật có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại trong phạm vi di sản mà họ được hưởng. Sau khi đã thanh
toán xong nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo thứ tự ưu tiên và các khoản


20


chi phí liên quan đến thừa kế, phần di sản còn lại sẽ được chia cho những người
thừa kế. Phân chia di sản theo pháp luật dựa vào ý chí của Nhà nước đồng thời có
tính đến sự thỏa thuận của những người thừa kế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 660 Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi phân chia di
sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành
lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng. Nếu người này
được sinh ra và còn sống sau thời điểm người để lại di sản chết nhưng đã thành thai
trước khi người để lại di sản chết thì được hưởng phần di sản này. Trong trường hợp
người này được sinh ra mà chết ngay hoặc chết trước khi được sinh ra thì phần di
sản này sẽ được chia đều cho những người thừa kế khác ở cùng hàng. Quy định như
vậy nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quan hệ huyết thống gần
gũi sẽ được sinh ra.
Theo tinh thần tại khoản 2 Điều 660 Bộ luật dân sự năm 2015, khi tiến hành phân
chia di sản theo pháp luật, những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản
bằng hiện vật. Tuy nhiên, di sản để lại vô cùng đa dạng, gồm nhiều loại khác nhau
và không phải vật nào cũng chia được. Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật dân sự
năm 2005 thì:
- Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử
dụng ban đầu.
- Vật khơng chia được là vật khi bị phân chia thì khơng giữ ngun được tính
chất và tính năng sử dụng ban đầu. Khi cần phân chia vật khơng chia được thì phải
trị giá thành tiền để chia.
Giải pháp đặt ra đối với trường hợp vật khơng chia được thì những người thừa kế
có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật,
nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia. Nếu di sản là các quyền
tài sản như quyền sử dụng đất thì giá trị của quyền tài sản được xác định bằng
khoản tiền cụ thể sau đó chia đều cho những người được hưởng thừa kế.

Phương thức phân chia thừa kế theo pháp luật có ý nghĩa vơ cùng quan trọng bởi
khơng có di sản thừa kế thì sẽ khơng bao giờ phát sinh quan hệ thừa kế.
1.4.3. Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo pháp
luật
Chia di sản thừa kế theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền thừa kế của những người
có quyền hưởng thừa kế trong trường hợp không được định đoạt theo ý chí của
người để lại di sản trong di chúc. Trong cuộc sống mn hình, mn vẻ, có rất

21


nhiều tình huống mới phát sinh nên việc dự liệu các quy phạm pháp luật là hết sức
cần thiết. Liên quan đến vấn đề phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, theo quy
định tại Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đưa ra giải pháp giải quyết cho hai
trường hợp có thể phát sinh, đó là có người thừa kế mới hoặc người thừa kế bị bác
bỏ quyền thừa kế.
Thứ nhất, trường hợp có người thừa kế mới: Người thừa kế mới được hiểu là sau
khi di sản được phân chia mới xuất hiện người thừa kế này. Trước hết phải kể đến
trường hợp những người thừa kế dành lại một suất di sản cho người thừa kế cùng
hàng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết được sinh ra và còn sống sau
khi người để lại di sản chết, nhưng sau đó lại xảy ra sự kiện sinh đôi hoặc sinh ba,…
Hoặc trường hợp bản án, quyết định của Tòa án xác nhận một người là cha, mẹ, con
của người chết nhưng bản án, quyết định này có hiệu lực sau thời điểm phân chia di
sản thừa kế. Trong những trường hợp này, theo quy định tại khoản 1 Điều 662 Bộ
luật dân sự năm 2015, hướng xử lý như sau: không thực hiện việc phân chia lại di
sản bằng hiện vật nhưng những người đã nhận di sản phải thanh toán cho người
thừa kế mới khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia
thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận. Bên cạnh đó, những người
thừa kế có thể thỏa thuận với nhau theo phương thức nhất định nhưng không được
trái với pháp luật và đạo đức xã hội.Trên thực tế có thể phát sinh trường hợp cha,

mẹ, con của người để lại di sản bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết, sau khi
phân chia xong di sản, người đó lại trở về. Đối với tình huống này, theo khoản 3
Điều 73 Bộ luật dân sự năm 2015 thì "Người bị tuyên bố là đã chết mà cịn sống có
quyền u cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện
còn" Như vậy, người hưởng di sản thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết sau đó
lại trở về có nghĩa vụ hồn trả cho người trở về phần tài sản, giá trị tài sản hiện cịn.
Tài sản hiện cịn được hiểu là tài sản đó vẫn còn tồn tại ở dạng tài sản này hay dạng
tài sản khác đều mang giá trị tài sản. Trong trường hợp người thừa kế của người bị
tuyên bố là đã chết mặc dù biết người này còn sống nhưng vẫn cố tình giấu giếm tài
sản có được do được thừa kế thì phải hồn trả lại tồn bộ tài sản đã nhận bao gồm
cả hoa lợi, lợi tức và nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Thứ hai, trường hợp người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế: người thừa kế bị bác
bỏ quyền thừa kế được hiểu là người sau khi phân chia di sản họ mới được xác định
là khơng có quyền hưởng di sản. Người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế có thể là
người nhận di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

22


Khoản 2 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau: Trong trường hợp
đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải
trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được
hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
Người bị bác bỏ quyền thừa kế được xác định trong trường hợp họ khơng có
quyền hưởng thừa kế do vi phạm khoản 1 Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015 (được
phát hiện sau khi chia thừa kế) hoặc có thể xảy ra trong trường hợp người thừa kế
theo di chúc đã nhận di sản thừa kế được chia nhưng sau đó phần di chúc liên quan
đến người này bị xác định là vô hiệu. Người thừa kế đã nhận di sản mà sau đó bị
bác bỏ quyền thừa kế thì người này phải trả lại di sản hoặc thanh toán khoản tiền

tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những
người thừa kế hoặc phương thức trả lại được xác định theo sự thỏa thuận của những
người thừa kế và người bị bác bỏ quyền thừa kế. Phần di sản mà người thừa kế bị
bác bỏ quyền thừa kế hoàn trả sẽ được chia cho những người thừa kế trong cùng
hàng có quyền hưởng di sản.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc đã nhận phần di sản nhưng sau đó
bị bác bỏ quyền thừa kế do phần di chúc liên quan đến người này bị vơ hiệu, thì
người bị bác bỏ có nghĩa vụ thanh tốn như đã nêu ở trên và phần di sản này được
chia theo pháp luật cho những người thừa kế theo hàng có quyền hưởng thừa kế.22
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Như vậy, từ chương 1 có thể thấy rằng sự dịch chuyển di sản từ một người đã
chết sang người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật thì được gọi là thừa kế
theo pháp luật. Như vậy, được hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển di
sản của người chết sang người cho người cịn sống theo điều kiện, trình tự hàng
thừa kế.
Nội dung chính để xác định những người thừa kế theo pháp luật chính là việc xác
định diện và hàng thừa kế. Theo đó, pháp luật hiện hành quy định diện thừa kế dựa
trên quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người
thừa kế với người để lại di sản. Trên cơ sở diện thừa kế, pháp luật còn quy định cụ
Nguyễn Hương Giang, “Thừa kế theo Pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB. Đại
học Quốc Gia Hà Nội, 2014, tr70-76.
22

23


×