lời mở đầu
Khu vực hoá và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển
kinh tế thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào bằng
chính sách đóng cửa với nớc ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế
trong nớc. Muốn phát triển nhanh, mỗi nớc không thể đơn độc dựa vào nguồn
lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh
tế, khoa học kỹ thuật của loài ngời đã đạt đợc. Nền kinh tế mở cửa sẽ mở ra
những tiềm năng sẵn có của một nớc nhằm sử dụng sự phân công lao động
một cách có lợi nhất. Ngay cả một nớc nh Trung Quốc tự coi mình là một
quốc gia xã hội chủ nghĩa vĩ đại,... với nguồn lao động to lớn, với nguồn tài
nguyên thiên nhiên giàu có và một thị trờng trong nớc khổng lồ, có mọi phơng
tiện trong tay để xây dựng đất nớc và phát triển kinh tế từ bên trong coi
nguyên tắc độc lập và tự lực cánh sinh là nguyên tắc cơ bản cho xây dựng
kinh tế mà cuối cùng đã phải thốt lên rằng: chính vì sự biệt lập kéo dài đó
với thế giới bên ngoài, Trung Quốc đã lỡ mất nhiều cơ hội có lợi trong bối cảnh
quốc tế thuận lợi. Hố ngăn cách về công nghệ giữa Trung Quốc và các nớc
ngày càng tăng. Do thiếu sự cạnh tranh trên thị trờng quốc tế nên sản phẩm
nội địa của Trung Quốc ngày càng giảm sức cạnh tranh. Một số sản phẩm
công nghiệp không thể nâng cao đợc chất lợng và số lợng vì những hạn chế
của thị trờng trong nớc.
Tình trạng cấm chợ ngăn sông, hạn chế cạnh tranh kinh tế quốc tế, thực
hiện chế độ bảo hộ dới mọi hình thức khác nhau gây thiệt hai to lớn, lãng phí
cho nền kinh tế thế giới ở phơng diện tổng thể. Thật vô lý khi ngời ta phải
mua những hàng hoá đắt hơn hoặc chất lợng thấp hơn, xấu hơn trong khi
vẫn có ngời sẵn sàng bán những hàng hoá đó với giá rẻ hơn chất lợng tốt hơn.
Điều đó cũng có nghĩa rằng tham gia vào thị trờng thế giới, các nớc phải
chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt.
Với chính sách đổi mới mở cửa, Việt Nam sẽ trở thành thị trờng cạnh
tranh của các công ty đa quốc gia và Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các nớc
khác để đi ra thị trờng thế giới. Việt Nam là thành viên chính thức của
ASEAN. Tiến tới Việt Nam sẽ tham gia vào Hiệp định chung về thơng mại
và thuế quan (GATT) và tổ chức thơng mại quốc tế (WTO). Đó là những
thuận lợi và cơ hội rất tốt để Việt Nam hoà nhập vào kinh tế thế giới. Bởi vì,
nhờ tham gia vào các tổ chức này Việt Nam sẽ tham gia vào sự phân công,
1
hiệp tác quốc tế, sẽ mở rộng đợc thị trờng nớc ngoài, sẽ đẩy mạnh sản xuất các
mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh và nâng cao khả năng cạnh tranh các
sản phẩm của Việt Nam trên thị trờng thế giới.
Nhng hội nhập vào thị trờng thế giới và khu vực, Việt Nam phải đơng
đầu với thách thức lớn lao là: sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam phải cạnh
tranh gay gắt với hàng hoá nớc ngoài trên thị trờng quốc tế và ngay trên thị
trờng trong nớc. Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là phải nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu để đứng vững trên thị trờng, và ngày
càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Xuất phát từ đó, em chọn đề tài: Một số biện pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trờng thế giới làm đề tài
nghiên cứu.
Bố cục của Đề án gồm các phần sau:
Lời mở đầu
Phần I : Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong th-
ơng mại quốc tế.
Phần II : Vai trò của xuất khẩu gạo trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở việt nam. Đánh giá sức
cạnh tranh của gạo việt nam trên thị trờng gạo
thế giới.
Phần III : Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của xuất khẩu gạo Việt Nam.
Đây là đề tài nội dung nghiên cứu rộng, song với sự cố gắng của bản
thân, đề tài đã đợc hoàn thành nhng không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Em mong rằng sẽ nhận đợc nhiều sự đóng góp ý kiến của thầy cô cùng toàn
thể các bạn để Đề án đợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
Phần I
tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh
trong thơng mại quốc tế
1-/ Tính tất yếu của cạnh tranh trong thơng mại quốc tế:
Kinh tế thị trờng là nền kinh tế chủ yếu đợc điều tiết bởi thị trờng. Nền kinh tế
thị trờng đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất nh thế
nào, sản xuất cho ai, và nó đều chịu sự tác động của các quan hệ cung cầu, quan hệ
cạnh tranh và giá cả thị trờng.
Một điều tất yếu và là đặc trng cơ bản nhất của nền kinh tế thị trờng đó là: bất
kỳ một chủ thể nào tham gia vào thị trờng đều phải chấp nhận cạnh tranh. Khi nói tới
cạnh tranh là nói tới thị trờng và ngợc lại, nói tới thị trờng là nói tới cạnh tranh. Ngợc
lại, thị trờng mà không có cạnh tranh thì không còn là thị trờng nữa. Mặt tích cực của
thị trờng cũng là mặt tích cực của cạnh tranh. Mặt tiêu cực của thị trờng, tồn tại theo
quan niệm của nhiều ngời; cũng là mặt tiêu cực của cạnh tranh. ý đồ tạo thị trờng
không có cạnh tranh, thị trờng có tổ chức đã sụp đổ hoàn toàn vì nó không tạo ra
đợc cơ chế phân phối tối u các nguồn lực của xã hội. Triệt tiêu cạnh tranh là làm mất
tính năng động, sáng tạo của mỗi con ngời cũng nh của toàn xã hội, nền sản xuất xã
hội sẽ không còn hiệu quả - nguồn gốc của việc nâng cao đời sống nhân dân.
Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá t bản chủ
nghĩa. Vậy cạnh tranh là gì?
Theo Marx: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà t bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu
đợc lợi nhuận siêu ngạch.
Còn theo cuốn từ điển kinh doanh (xuất bản 1992 ở Anh), cạnh tranh trong cơ
chế thị trờng đợc định nghĩa là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh
nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình.
Nh vậy, hiểu theo một nghĩa chung nhất, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ
thể kinh doanh trong việc giành giật thị trờng và khách hàng.
Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
tham gia thị trờng. Đối với ngời mua, họ muốn mua đợc loại hàng hoá có chất lợng
cao, với một mức giá rẻ. Còn ngợc lại, ngời bán bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi
nhuận của mình. Vì mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí và tìm cách giành giật
khách hàng và thị trờng về phía mình. Và nh vậy cạnh tranh sẽ xảy ra.
Cạnh tranh là một điều tất yếu của thị trờng. Các chủ thể tham gia thị trờng bắt
buộc phải chấp nhận cạnh tranh ganh đua với nhau, phải luôn không ngừng tiến bộ
3
để giành đợc u thế tơng đối so với đối thủ. Nếu nh lợi nhuận là động lực thúc đẩy các
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh bắt buộc họ
phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả cao nhất
nhằm thu đợc lợi nhuận tối đa. Do vậy cạnh tranh là tất yếu của nền kinh tế thị trờng,
là một phơng thức vận động của thị trờng. Nói đến thị trờng cũng có nghĩa là nói tới
sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Do vậy, quá trình sản xuất và kinh doanh
buộc phải tuân theo những quy luật cạnh tranh.
Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trờng hay có thể nói. Cơ chế thị
trờng là vũ đài cạnh tranh, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh, mà kết quả sẽ là
một số bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trờng, trong khi một số khác vẫn tồn tại và
phát triển hơn nữa. Quy luật chọn lọc nghiệt ngã thông qua cạnh tranh của thị trờng
đã chia các chủ thể tham gia thị trờng thành hai nhóm: nhóm năng động và nhóm trì
trệ. Điều đó đặt ra cho những chủ thể đang yếu kém và lúng túng phải nhanh chóng
thích nghi, vì nếu thích nghi đợc thì đó là cơ hội để phát triển và ngợc lại, nếu không
thích nghi đợc thì đó là dấu hiệu của sự phá sản. Vì vậy, trong quá trình kinh doanh,
nâng cao đợc khả năng cạnh tranh là con đờng đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại và
phát triển của mỗi doanh nghiệp, mỗi đất nớc.
2-/ Vai trò của cạnh tranh:
- Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trờng. Cội nguồn của sự cạnh tranh
là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng kiểu dáng, nhiều chủ thể tham gia.
Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích. Ai cảm nhận thấy đích thì
ngời đó trở thành nhịp cầu cho các đối thủ vợt lên phía trớc. Chạy đua về mặt kinh tế
phải luôn luôn ở phía trớc để tránh những trận đòn của ngời chạy phía sau, và không
phải chỉ để thắng một trần tuyết giữa các đối thủ mà là để thắng trên hai trận tuyến.
Đó là cạnh tranh giữa những nớc mua với nớc bán và cạnh tranh giữa những ngời bán
với nhau.
- Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh giữ vai trò làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ
giảm xuống, nhng chất lợng hàng hoá dịch vụ ngày càng cao, phù hợp với mong
muốn của ngời tiêu dùng.
- Cạnh tranh sẽ loại bỏ các nớc có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh hàng
hoá và khuyến khích các nớc có chi phí thấp. Điều này đã tạo áp lực buộc các nớc
phải giảm chi phí đầu vào trong sản xuất kinh doanh.
Mặc dù điều này là phù hợp với lợi ích lâu dài của xã hội, song cũng làm cho
một số nớc thất bại đau đớn, nạn thất nghiệp, nghèo đói gia tăng.
- Cạnh tranh là công cụ để tớc quyền thống trị về kinh tế trong lịch sử.
- Cạnh tranh buộc các nớc phải không ngừng đầu t, nghiên cứu khoa học, công
nghệ để đa vào ứng dụng sản xuất. Đồng thời cạnh tranh cũng buộc các nớc phải
4
nghiên cứu thị trờng thế giới, nắm bắt đợc thông tin, bắt đợc những thời cơ hấp dẫn,
chú trọng công tác khuyếch trơng, quảng cáo sản phẩm và thanh thế nhằm mở rộng
thị trờng xuất khẩu vơn tới những thị trờng đầy triển vọng. Phải tham gia các hoạt
động trong hiệp hội ngành hàng để cập nhật thông tin mới về tình hình giá cả, cung
cầu trên thị trờng cạnh tranh.
Tóm lại, cạnh tranh không phải là huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những n-
ớc làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả, sử dụng lãng phí những nguồn lực của xã hội
bằng các nớc hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, thúc
đẩy sự phát triển của nhân loại. Có thể nói rằng cạnh tranh lành mạnh là động lực
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Trên thế giới các nớc tìm mọi cách để tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của
đất nớc mình bằng chất lợng sản phẩm, và giá cả. Nếu nh trớc kia, giá cả đợc coi là
yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó đã phải nhờng chỗ cho chỉ
tiêu chất lợng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là biện pháp nghèo nàn
nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu đợc, mà ngợc lại, cùng một loại sản phẩm, chất l-
ợng sản phẩm nào tốt đáp ứng đợc yêu cầu thì ngời tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với
một mức giá cao hơn một chút cũng không sao, nhất là trong thời đại ngày nay khi
mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh, đời sống của nhân loại
đợc nâng cao rất nhiều so với trớc.
Chất lợng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm đợc xác định bằng các
thông số có thể đo đọc hoặc so sánh đợc thoả mãn những điều kiện kỹ thuật và
những yêu cầu nhất định của ngời tiêu dùng và xã hội. Chất lợng sản phẩm đợc hình
thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và
chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu,
trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý,...
Chất lợng sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với một quốc gia, một khi chất
lợng sản phẩm không đợc đảm bảo thì cũng có nghĩa là họ đang đứng trớc sự đe doạ,
bị mất khách hàng, mất thị trờng. Hiện nay, khi nền kinh tế thế giới phát triển nh vũ
bão, một quan niệm mới về chất lợng đã xuất hiện: Chất lợng sản phẩm không chỉ là
tốt bền, đẹp mà nó còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lợng sản phẩm là yếu
tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng mang tính khách quan, ở đây nhân tố
khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan.
Đây là một quan niệm mới xuất phát từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị tr-
ờng thế giới ngày càng trở nên quyết liệt hơn.
Chất lợng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của một nớc ở chỗ:
+ Nâng cao chất lợng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối
lợng hàng hoá bán ra.
5
+ Sản phẩm chất lợng cao sẽ làm tăng uy tín, thu hút đợc khách hàng và mở
rộng thị trờng.
+ Chất lợng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, thu đợc nhiều ngoại tệ về
cho đất nớc.
3-/ Các hình thái cạnh tranh trong kinh doanh thơng mại:
(Phân loại thị trờng theo mức độ cạnh tranh)
Đây là dạng phân loại thị trờng gắn liền với phơng thức hình thành và vận động
giá cả thị trờng. Theo cách phân loại này có các dạng thị trờng sau:
3.1. Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo:
Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng mà ở đó có rất nhiều ngời bán mà không
có ngời nào có u thế để cung ứng một số lợng sản phẩm lớn ảnh hởng đến giá cả. Các sản
phẩm mua bán trên thị trờng này là sự đồng nhất, tức là nó rất ít khác nhau về quy cách,
mẫu mã, phẩm chất. Điều kiện tham gia và rút khỏi thị trờng rất dễ dàng. Những ngời bán
tham gia trên thị trờng chỉ có cách thích ứng với giá thị trờng. Họ không có khả năng định
giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trên thị trờng này chủ yếu tìm biện
pháp giảm thấp chỉ phí tới mức thấp nhất.
3.2. Thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo:
Đây là một thị trờng mà phần lớn sức mạnh thị trờng thuộc về một số doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trờng này kinh doanh hàng hoá và
dịch vụ khác nhau. Sự khác nhau giữa hàng hoá và dịch vụ này là ở nhãn hiệu. Mặc dù sự
khác biệt giữa các sản phẩm chỉ là sự khác biệt trong tâm trí của ngời tiêu dùng, nhng mỗi
nhãn hiệu hàng hoá đều mang hình ảnh với những uy tín khác nhau.
Có hai hình thái thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo sau:
a-/ Độc quyền tập đoàn:
Đây là một thị trờng mà ở đó có một vài doanh nghiệp đáp ứng hầu hết nhu cầu
về một loại hàng hoá dịch vụ cụ thể nào đó. Những doanh nghiệp này rất nhạy cảm
với các hoạt động kinh doanh của nhau. Thế nhng, một điều cần chú ý ở đây là các
doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau trong mức định giá, và lợng hàng bán ra. Bởi vì,
khi một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm giá hàng hoá bán ra thì họ không
bao giờ cảm thấy tin tởng rằng có thể đạt đợc kết quả lâu dài vì sẽ có một số doanh
nghiệp khác có thể sẽ giảm giá xuống mức thấp hơn; và ngợc lại khi một doanh
nghiệp tăng giá, các doanh nghiệp khác không tăng giá thì sẽ dẫn đến doanh nghiệp
tăng giá phải trở lại giá cũ hoặc có nguy cơ bị mất khách hàng.
b-/ Cạnh tranh độc quyền:
6
Chính vì đặc điểm của thị trờng độc quyền là số lợng doanh nghiệp tham gia
trên thị trờng này tơng đối lớn cho nên mỗi doanh nghiệp sẽ có ảnh hởng tơng đối
lớn đến các quyết định về sản xuất và kinh doanh của riêng mình.
Trên thị trờng cạnh tranh độc quyền, sản phẩm của các doanh nghiệp là khác
nhau, ngời tiêu dùng phân biệt đợc các sản phẩm của doanh nghiệp thông qua nhãn
hiệu, quảng cáo, bao bì và các dịch vụ khác.
Trên thị trờng này, doanh nghiệp có quyền định giá hàng hoá nhng không hoàn
toàn tuỳ ý của mình, và các điều kiện mua hàng hoá cũng khác nhau. Doanh nghiệp
có thể có uy tín độc đáo khác nhau đối với khách hàng.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trờng hiện nay, trạng thái thị trờng độc quyền hầu
nh rất khó đạt đợc và nếu nó xuất hiện thì xem xét nó nh trạng thái cạnh tranh độc
quyền để giải quyết. Và nh vậy là, mức độ khốc liệt của cạnh tranh giảm dần từ cạnh
tranh hoàn hảo đến cạnh tranh độc quyền.
3.3. Thị trờng độc quyền:
Thị trờng độc quyền là thị trờng mà ở đó có một hay nhiều ngời bán độc nhất có
thể kiểm soát thị trờng. Điều kiện gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trờng độc quyền có
rất nhiều trở ngại do đầu t vốn lớn hoặc do độc quyền kỹ thuật, công nghệ,... Vì vậy
mà thị trờng này không có cạnh tranh về giá mà ngời bán hoàn toàn quyết định giá.
Trên thị trờng độc quyền, đờng cầu của toàn xã hội về một loại hàng hoá dịch
vụ cũng chính là đờng cầu của hãng độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể chi
phối và quyết định giá cả và lợng hàng hoá bán ra trên thị trờng bằng các biện pháp
ứng xử của mình.
Để gây trở ngại cho ngời tiêu dùng, doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự
khan hiếm hàng hoặc bán hàng với giá cao. Do vậy, nhiều nớc đã có luật chống độc
quyền. Tuy nhiên, độc quyền cũng có mặt tích cực của nó, đó là độc quyền đem lại
lợi ích cho xã hội nhờ đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển. Doanh nghiệp
độc quyền thờng có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng đợc quy mô sản
xuất nên giảm đợc chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm.
7
Phần II
vai trò của xuất khẩu gạo, thực trạng xuất khẩu gạo
và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam
trên thị trờng gạo thế giới
1-/ Vai trò của xuất khẩu gạo trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội ở Việt Nam:
Việt Nam là một nớc nông nghiệp dựa vào sản xuất lúa gạo là chính. Nông
nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó đóng góp khoảng 42%
tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 71,9% lợng lao động của cả nớc hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp.
Đối với Việt Nam, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp nói chung, sản xuất lúa gạo
nói riêng là một lợi thế. Xuất khẩu nông sản là một trong những biện pháp nhằm khai thác
lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh để thu hút nguồn lợi trong thơng mại quốc tế.
Thơng mại quốc tế các sản phẩm nông nghiệp giữ một vị trí vô cùng to lớn đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nớc. Nó là bộ phận hết sức quan trọng trong lĩnh vực
kinh tế đối ngoại và chơng trình xuất khẩu của đất nớc. Trong suốt thời gian qua, khoảng
trên dới 50% sản phẩm quốc dân hàng năm đợc thực hiện thông qua con đờng xuất khẩu.
Xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thờng chiếm tỷ trọng cao từ 30-40% tổng kim
ngạch xuất khẩu của ngành. Trong đó xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng từ 40-50% tổng kim
ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Sản lợng gạo xuất khẩu bình quân hàng năm
kể từ năm 1990 đến nay là trên 2 triệu tấn và xuất khẩu gạo vơn lên chiếm một vị trí quan
trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng lên cả về chất lợng lẫn số lợng.
Do đó kim ngạch xuất khẩu gạo không ngừng tăng lên từ 274,6 triệu USD năm 1990
đến năm 1996 kim ngạch là 868,4 triệu USD, năm 1997 đạt 891,3 triệu USD năm
1998 lên đến trên 1 tỷ USD (1.006 triệu USD). Và tháng đầu năm 1999 kim ngạch là
750 triệu USD. Với lợng ngoại tệ này chúng ta đã nhập các loại máy móc thiết bị
hiện đại của nớc ngoài phù hợp với điều kiện của Việt Nam xây dựng các nhà máy
chế biến gạo, xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, đầu t nghiên
cứu các loại giống lúa cho năng suất cao, chất lợng tốt. Ngoài ra, xuất khẩu gạo tạo
ra ngoại tệ góp phần không nhỏ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nớc.
Mặt khác, cũng nhờ có xuất khẩu gạo bộ mặt nông thôn đã dần dần thay đổi:
một số ngành nghề mới xuất hiện nh thơng mại dịch vụ, công nghiệp chế biến... đã
tạo ra công ăn việc làm cho ngời dân, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp - nông thôn.
8
2-/ Vài nét về thị trờng gạo thế giới:
2.1. Xuất khẩu:
Gạo là lơng thực đợc tiêu dùng tại chỗ là chủ yếu. Những nớc sản xuất lúa gạo
nhiều cha hẳn đã là những nớc xuất khẩu lúa gạo lớn, mà đôi khi còn là nớc nhập
khẩu. Lợng gạo đa ra trao đổi trên thị trờng từ năm 1989 - 1998 dao động trên dới 15
triệu tấn, chiếm 4 - 5% sản lợng gạo trên thế giới. So với lúa mì và ngô, mậu dịch
buôn bán gạo thấp hơn nhiều, lúa mì chiếm từ 20 - 22% sản lợng và chiếm 50% tổng
kim ngạch xuất khẩu lơng thực ngô đa ra buôn bán chiếm từ 16 - 18% sản lợng. L-
ợng gạo đa ra trao đổi rất bấp bênh, năm thấp nhất có 11,4 triệu tấn đó là năm 1990.
Năm cao nhất là năm 1998 đạt 25,7 triệu tấn, đạt kỷ lục từ trớc đến nay.
Xuất khẩu gạo thế giới tập trung chủ yếu ở các nớc đang phát triển. Suốt thời
nhiều thập niên qua, các nớc đang phát triển vẫn thờng chiếm 75-80% tổng lợng xuất
khẩu gạo toàn thế giới. Từ năm 1994, phần gạo xuất khẩu của các nơng công nghiệp
phát triển có tăng lên nhng cũng chỉ ở mức 23,5%. Những năm gần đây xuất khẩu
gạo của các nớc đang phát triển chiếm trên 80% phần còn lại của các nớc phát triển
chiếm gần 20%.
Theo phạm vi từng đại lục thì Châu á trong thời gian gần đây xuất khẩu lớn
nhất, chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 75% so với tỷ trọng nhập khẩu trung bình
56%, thứ đến Châu Mỹ, xuất khẩu gạo chiếm trung bình trên 20% so với tỷ trọng
nhập khẩu trung bình trên 17%. Cả ba châu còn lại là Châu Âu, Châu Đại Dơng,
Châu Phi chỉ chiếm khoảng 5% tổng xuất khẩu gạo thế giới. Ngoài phần trao đổi nội
bộ Châu á xuất siêu lớn nhất, trung bình 3,5-4 triệu tấn hàng năm, Châu Mỹ có xuất
siêu nhng rất không ổn định. Châu Đại Dơng không đáng kể. Nh vậy hàng năm,
dòng gạo thế giới lớn nhất chảy từ Châu á sang Châu Phi, trung bình từ 2,5-3 triệu
tấn, sau đó là dòng gạo từ Châu á chảy sang Châu Âu, khoảng gần 1 triệu tấn.
Nếu xét chung tình hình xuất khẩu trong suốt giai đoạn 1989-1994, có thể xếp
đội ngũ các nớc xuất khẩu gạo theo trật tự sau: Thái Lan, Mỹ, Việt Nam, Pakistan,
Trung Quốc, ấn Độ. Từ năm 1995-1996 tơng quan lực lợng giữa các nớc xuất khẩu
gạo có sự thay đổi theo trật tự mới: Thái Lan, ấn Độ, Việt Nam, Mỹ, Pakistan. Năm
1996 đến 1997 Việt Nam đã vợt lên ở vị trí thứ hai sau Thái Lan và giữ vị trí đó cho
đến nay.
Thái Lan: với vị trí đứng đầu xuất khẩu gạo. Thái Lan hàng năm luôn luôn chi
phối sâu sắc tình hình biến động cung cầu và giá cả trên thị trờng gạo thế giới. Giá
chuẩn quốc tế thờng căn cứ vào giá gạo xuất khẩu của Thái Lan. Chất lợng gạo cũng
đợc khách hàng a chuộng tin cậy với nhiều cấp, loại, hạng: Gạo trắng 100% hạng
A,B,C nhng chủ yếu là hạng B, gạo trắng 5% tấm, 10%, 15%,... gạo tấm A1 super,
gạo đồ, gạo nức, gạo nếp, gạo thơm, đặc sản. Thái Lan rất quan tâm phát triển xuất
9
khẩu gạo đặc sản, loại Jasmine hay Dawk Mali. Gạo Thái Lan đã đợc xuất khẩu
đi hầu khắp các Đại lục á, Phi, Mỹ, Châu Đại Dơng trong đó Châu á vẫn là chủ yếu,
chiếm khoảng 60-70%, thứ đến là Châu Phi. Qua nhiều thập kỷ xuất khẩu gạo, Thái
Lan có nhiều khách hàng truyền thống gồm những nớc phát triển Tây Âu, Nhật
Bản,... cũng nh những nớc đang phát triển Châu á, Phi, Mỹ Latinh. Để đẩy mạnh sản
xuất trong nớc và không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu gạo ở nớc
ngoài. Thái Lan đã chú trọng nhiều chính sách nh bảo hộ nông phẩm cho ngời sản
xuất, điều hoà cung cầu khi giá cả gạo biến động, cho vay thế chấp bằng gạo khi giá
cả gạo trong nớc bị giảm mạnh để ngời nông dân giữ thóc chờ lên giá,... Bên cạnh
sản xuất Thái Lan còn có những chính sách hỗ trợ xuất khẩu nh cho nhà xuất khẩu
vay vốn dài hạn, lãi suất thấp; Nhà nớc mua lại gạo của các nhà xuất khẩu, chịu chi
phí lu kho, bảo quản, vận chuyển khi giá gạo thế giới giảm. Nhà nớc trực tiếp đàm
phán các hiệp định gạo với Chính phủ nớc ngoài nhằm mở rộng thị trờng. Để nâng
cao chất lợng gạo xuất khẩu Nhà nớc rất chú trọng tiêu chuẩn hoá các cơ sở xay xát,
đầu t công nghệ chế biến nh hệ thống kho tàng, bảo quản, bao bì, mã hiệu, vận
chuyển, cầu càng bốc xếp.
Mỹ: chỉ chiếm 1,5% tổng sản lợng lúa toàn cầu và đứng thứ 11 về sản xuất, nh-
ng Mỹ lại giữ vị trí xuất khẩu thứ hai trong suốt nhiều năm. Từ năm 1989 đến năm
1994 lợng gạo xuất khẩu trung bình của Mỹ đạt 2,6 triệu tấn/năm, bằng khoảng 53%
xuất khẩu gạo của Thái Lan. Năm 1989 và 1998 xuất khẩu của Mỹ đạt mức 3,0 triệu
tấn. Năm 1995 đạt mức cao nhất là 3,1 triệu tấn. Năm 1995 xuất khẩu gạo của ấn Độ
đã vợt Mỹ. Tiếp đó năm 1996 Mỹ lại tụt xuống hàng thứ t trong xuất khẩu gạo, sau
Thái Lan, ấn Độ, và Việt Nam. Cho đến năm 1997, 1998 thì Mỹ vợt lên đứng hàng
thứ ba sau Thái Lan và Việt Nam. Mỹ là nớc xuất khẩu gạo truyền thống từ nhiều
thập kỷ nay. Mỹ vẫn xuất khẩu gạo đi tất cả các thị trờng truyền thống Châu Mỹ
latinh và Châu á (Trung Đông và Đông Nam á), thứ đến Châu Phi và Châu Âu.
Tuy thị phần trong xuất khẩu gạo của Mỹ những năm gần đây chỉ đạt trên 13%
nhng khả năng chi phối của Mỹ đối với thị trờng gạo thế giới vẫn rất lớn. Mỹ cạnh
tranh và chi phối xuất khẩu gạo bằng chất lợng u việt so với gạo Thái Lan vì Mỹ có
lợi thế hơn hẳn về khoa học - công nghệ trong khâu chế biến và kho tàng bảo quản,...
hơn nữa, Mỹ sử dụng gạo xuất khẩu nh một vũ khí chính trị để thực hiện mục tiêu
đối ngoại của mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
ở Mỹ, gạo đợc coi là nông phẩm chính trị theo công luận 450 và đợc đặt
trong cơ chế bảo hộ với nhiều chính sách nh: chính sách trợ cấp thu nhập (khi có
thiên tai hay khi Nhà nớc yêu cầu thu hẹp diện tích canh tác để điều chỉnh quan hệ
cung cầu), chính sách trợ giá xuất khẩu, chính sách cấp tín dụng dài hạn u đãi xuất
khẩu gạo, chính sách viện trợ gạo nhằm thao túng các nớc tiêu thụ gạo của Mỹ,...
Với chiến lợc toàn cầu, Mỹ dùng ngân sách trợ cấp để có thể xuất khẩu gạo với giá
10
chỉ bằng 60% giá thành vì chi phí sản xuất gạo của Mỹ rất cao. Bình quân năm
1984-1986 khoản ngân sách dành cho cơ chế bảo hộ lên tới 66 tỷ USD. Tỷ lệ trợ
cấp của Chính phủ trong giá thành thờng rất cao đặc biệt đối với gạo. Năm 1988, tỷ
lệ trợ cấp này đối với gạo là 86%, còn đối với lúa mỳ và đậu tơng chỉ là 40% và 23%.
Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách can thiệp mạnh vào giá cả gạo, từ giá bán của
các trang trại đến giá của các nhà kinh doanh trong nớc và giá xuất khẩu. Riêng nông
dân Mỹ đã đợc hởng mức trợ cấp tối thiểu trên 100 USD/tấn gạo. Tóm lại xuất khẩu
gạo của Mỹ thờng không tách rời mục đích chính trị: nó không phải là hoạt động
kinh tế thơng mại thuần tuý.
ấ n Độ : xuất khẩu gạo phần lớn sang các nớc thuộc khu vực Châu á, Châu Phi,
thứ đến Châu Âu và Mỹ latinh, mức xuất khẩu gạo tăng vọt của ấn Độ năm 1995 là
4,2 triệu tấn đã góp phần quyết định đa tổng sản lợng xuất khẩu gạo thế giới từ 16,7
triệu tấn năm 1994 lên mức kỷ lục 21 triệu tấn vào năm 1995.
Xuất khẩu gạo của ấn Độ đã giảm khoảng 0,6 triệu tấn trong năm 1996 và giảm
tiếp 1 triệu tấn vào năm 1997. Năm 1998 xuất khẩu gạo của ấn Độ là 2,2 triệu tấn.
Cùng với gạo đại trà, ấn Độ còn xuất khẩu gạo thơm đặc sản Basmati. Tuy nhiên
theo FAO, chủng loại gạo thơm Basmati xuất khẩu của ấn Độ không bằng chất l-
ợng gạo thơm đặc sản của Thái Lan.
Pakistan: Trớc chiến tranh thế giới thứ hai, Pakistan đã có mặt trên thị trờng gạo
thế giới. Từ đó đến nay, Pakistan vẫn là nớc xuất khẩu gạo truyền thống mặc dù lợng
xuất khẩu hàng năm không lớn, trung bình trên 1 triệu tấn gạo. Kể từ năm 1989 xuất
khẩu gạo của nớc này vẫn duy trì tơng đối ổn định. Riêng năm 1991, Pakistan đã vợt
lên đứng vị trí thứ ba thế giới trong xuất khẩu gạo, sau Thái Lan và Mỹ. Suốt nhiều
năm qua, nớc này vẫn giữ đợc vị trí thứ năm của mình về xuất khẩu gạo. Năm 1998
xuất khẩu gạo của nớc này đạt mức 2 triệu tấn và dự đoán sẽ giảm xuống 1,75 triệu
tấn năm 1999. Với diện tích lúa trong nớc 2,2 triệu ha, sản lợng hàng năm 6 triệu tấn,
trong khi đó dân số là 141 triệu ngời (đang phải tiêu dùng lúa mì nhiều), Pakistan
khó có thể tăng xuất khẩu gạo nhiều hơn nữa.
Gạo của Pakistan chủ yếu đợc xuất sang các nớc bạn hàng truyền thống Châu á,
thứ đến Châu Phi. Pakistan xuất khẩu phần nhiều cấp loại gạo trung bình 15-20%
tấm. Ngoài gạo nói chung, Pakistan cũng xuất khẩu gạo thơm đặc sản Basmati.
Cũng theo FAO chất lợng gạo thơm đặc sản của nớc này đợc đánh giá gần bằng gạo
thơm của Thái Lan và tốt hơn gạo thơm đặc sản của ấn Độ.
Ngoài ra còn một số nớc khác cũng tham gia xuất khẩu gạo cụ thể: Ôxtrâylia
xuất khẩu 0,6-0,7 triệu tấn/năm, hiện đứng thứ sáu thế giới. Mianmar đứng thứ sáu
thế giới, năm 1995 cũng xuất khẩu với 0,7 triệu tấn gạo nhng đã giảm đáng kể.
Trung Quốc xuất khẩu 1,6 triệu tấn và xếp thứ 4 thế giới năm 1994. Dự đoán năm
11
1999 xuất khẩu gạo của Trung Quốc chỉ đạt 1 triệu tấn. Urugoay xuất khẩu 0,5 triệu
tấn/năm. Achentina: 0,4 triệu tấn. Ai cập 0,3 triệu tấn,...
2.2. Nhập khẩu:
Nếu căn cứ vào số liệu chính thức năm 1998, có thế xếp vị trí những nớc nhập
khẩu gạo lớn theo thứ tự sau: Inđonexia, Trung Quốc, Philippin, Iran, Bangladesh,...
Inđonexia: trớc năm 1989 nhập khẩu gạo của nớc này thờng tơng đơng với mức
nhập khẩu của Iran, dao động trên dới 1 triệu tấn/năm. Trong thập niên 70, mức nhập
khẩu đạt 1,66 triệu tấn năm 1973 và 1,45 triệu tấn năm 1977. Từ năm 1989 nhờ
những nỗ lực trong sản xuất nên nhập khẩu tiếp tục giảm và chỉ còn ở mức 0,1 triệu
tấn trong năm 1990. Tuy nhiên đầu thập niên 90, vì sản xuất lúa gạo giảm sút trong
những năm 1992-1994 do thiên tai nên Inđonexia phải tăng nhập khẩu với mức 0,6
triệu tấn/năm. Đặc biệt năm 1995 nhập khẩu gạo của nớc này tăng vọt tới mức 3,2
triệu tấn. Đến năm 1998 nhập khẩu của nớc này lên tới 5,7 triệu tấn. Nguyên nhân
chính của đột biến này một phần do dân số tăng nhanh ở một quốc gia gần 200 triệu
dân, phần quan trọng hơn là do Nhà nớc tăng cờng dự trữ trớc quan hệ cung cầu trên
thị trờng gạo thế giới đang căng thẳng. Số liệu năm 1998 đã khẳng định Inđonexia
đứng vị trí số 1 trong đội ngũ những nớc nhập khẩu gạo.
Trung Quốc: suốt nhiều năm qua, Trung Quốc vừa xuất khẩu đồng thời vừa nhập
khẩu gạo. Riêng năm 1995, buôn bán gạo của nớc này có biến động lớn: Trung Quốc
mất vị trí xuất khẩu thứ t sau Thái Lan, Mỹ, Việt Nam và trở thành nớc nhập khẩu thứ
hai sau Inđonexia. Đó cũng là mức nhập khẩu gạo kỷ lục (2 triệu tấn) của Trung Quốc
kể từ năm 1989 đến nay. Nguyên nhân chính của tình hình này là:
Thứ nhất: Trung Quốc tăng cờng dự trữ lơng thực do quan hệ cung cầu lơng
thực thế giới căng thẳng, an ninh lơng thực toàn cầu bị đe doạ.
Thứ hai: Dân số Trung Quốc tăng. Năm 1994 dân số Trung Quốc là 1.209 triệu
ngời, năm 1995:1.222 triệu ngời, năm 1996 là 1.232 triệu ngời.
Trên thực tế Trung Quốc đã huy động mọi khả năng có thể của mình trong sản
xuất. Do vậy năng xuất lúa năm 1995 đến năm 1999 đều đạt trên 60 tạ/ha. Tuy nhiên
diện tích lúa không tăng mà còn bị giảm. Sản lợng lúa tuy đứng đầu trên thế giới nhng
vấn cha đáp ứng đợc nhu cầu lơng thực ở quốc gia không lỗ về dân số. Về lâu dài Trung
Quốc vẫn phải duy trì nhập khẩu gạo nói riêng và lơng thực nói chung.
Iran: khác với 2 nớc trên, Iran nhập khẩu gạo khá ổn định trong nhiều năm nay,
trung bình đạt gần 1 triệu tấn/năm. Lợng nhập khẩu 1,1 và 1,3 triệu tấn năm 1993 và
1995 là những mức cao điển hình của nớc này. Từ năm 1990 - 1993, Iran thờng
xuyên đứng đầu thế giới trong nhập khẩu gạo. Ngoài hai năm 1994, 1995 nhập khẩu
gạo của Iran gần đây (1996, 1997, 1998) lại tiếp tục duy trì ở mức cao. Trong tơng
12
lai xét về sản xuất lơng thực và dân số trong nớc với gần 70 triệu ngời, Iran vẫn là n-
ớc nhập khẩu chủ yếu, tơng đối ổn định, khả năng thanh toán khá cao.
Bangladesh: Suốt 6 năm liên tục từ 1989 - 1994 do có những cố gắng trong sản
xuất, nớc này chỉ nhập khẩu trung bình từ 0,2 - 0,3 triệu tấn gạo mỗi năm. Do sản lợng
lúa trong nớc giảm trên 2 triệu tấn trớc đó nên năm 1995 nhập khẩu gạo của
Bangladesh tăng vọt lên mức 1,3 triệu tấn. Sang năm 1996 nhập khẩu gạo của nớc này
lại giảm nhiều chỉ còn 0,5 triệu tấn. Cho đến năm 1998 thì nhập khẩu lại tăng lên 1,8
triệu tấn và dự đoán sẽ giảm xuống còn 0,5 triệu tấn trong năm 1999.
Nếu xét chi tiết hơn về tình hình sản xuất lơng thực trong nớc và dân số, mức
nhập khẩu gạo trung bình hiện tại và trớc mắt của nớc này cũng chỉ ở mức 0,5 triệu
tấn. Nh vậy nếu nhìn chung các năm nhập khẩu gạo của Bangladesh vẫn đứng sau
Iran và cả ảrậpxêút.
ả rậpxêút : Suốt nhiều năm qua, nhập khẩu gạo của nớc này không khá ổn định
và có xu hớng tăng từ 0,7 đến 1 triệu tấn. Trong cơ cấu tiêu dùng lơng thực của
ảrậpxêút, lúa gạo (hầu hết nhập khẩu) chiếm khoảng 40%, còn lại lúa mì (tự sản
xuất) chiếm 60%. Với dân số gần 20 triệu ngời nhng diện tích canh tác lơng thực rất
hạn chế (dới 1 triệu ha), chủ yếu trồng lúa mì, sản lợng khoảng 2 triệu tấn, cho nên
nhập khẩu gạo của nớc này thể hiện tính phụ thuộc rất rõ nét và ít thay đổi. Mặt khác
khả năng tài chính cho việc nhập khẩu gạo đợc đảm bảo khá cao. Dự đoàn năm 1999
mức nhập khẩu gạo vẫn đợc duy trì từ 0,9-1 triệu tấn.
Braxin: Cùng với 5 nớc Châu á trên, Braxin là nớc duy nhất ở Tây Bán cầu có
mức nhập khẩu gạo khá lớn. Đặc điểm nổi bật của Baraxin là nhập khẩu gạo mang
tính ổn định và có xu hớng tăng. Sở dĩ nh vậy là do triển vọng sản lợng thu hoạch lúa
gạo và cả lúa mì năm nay ít khả quan, không đủ đáp ứng nhu cầu lơng thực cho mức
dân số là 164 triệu ngời.
Ngoài ra, một số đông những nớc khác cũng nhập khẩu gạo nhng số lợng nhỏ
hơn. ở Châu á có Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore (mức nhập khẩu 0,4-0,5
triệu tấn/năm). Xrilanca, lãnh thổ Hồng Công (0,3 triệu tấn/năm),... Châu Phi có
Cốtđivoa, Vênêgan với mức nhập 0,4-0,5 triệu tấn/năm,... ở Châu Mỹ, Mêhicô,
Pêru,... cũng nhập khẩu 0,2-0,3 triệu tấn/năm. Nhiều nơc Tây Âu-Đông Âu nhập
khẩu gạo hàng năm với số lợng ít hơn nh Anh, Pháp, Italia, Hungari, Rumani, Nga,...
3-/ Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam:
3.1. Sản lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam:
Từ năm 1989 đến nay lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng. Sản lợng
gạo xuất khẩu trung bình hàng năm khoảng trên dới 2 triệu tấn. Tốc độ tăng sản lợng
13
gạo xuất khẩu bình quân qua các năm là 0,17 lần (17%/năm). Tình hình này đợc thể
hiện qua biểu số liệu sau:
Biểu 1 - Sản lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1989 - 1999
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
9 tháng
1999
Sản lợng gạo
XK (1000
tấn)
1.372 1.478 1.061 1.954 1.649 1.962 2.020 3.050 3.680 3.800 3.750
Tốc độ tăng
sản lợng liên
hoàn (%)
100 107,73 71,79 184,17 84,39 118,98 102,96 150,99 120,66 103,26
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Từ năm 1989 - 1994 xuất khẩu gạo của Việt Nam luôn đứng vào hàng thứ ba
trong các nớc xuất khẩu gạo, sau Thái Lan và Mỹ. Đến năm 1995, Việt Nam vấn
đứng thứ 3 nhng đã vợt Mỹ chỉ sau Thái Lan và ấn Độ. Năm 1996, Việt Nam đã đuổi
sát ấn Độ và năm 1997 Việt Nam xuất khẩu 3680 nghìn tấn và vơn lên đứng thứ hai
sau Thái Lan. Tỷ trọng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm từ 10 - 19% lợng gạo
xuất khẩu của toàn thế giới. Dự đoán năm 1999, Việt Nam sẽ xuất khẩu đợc 4,4 triệu
tấn gạo, đạt kỷ lục từ trớc tới nay.
Nhìn vào biểu 1 có thể đánh giá một cách tổng quan rằng sản xuất lúa gạo của
Việt Nam từ năm 1989 đến nay đã chuyển từ một ngành sản xuất tự cấp tự túc sang
sản xuất hàng hoá, sản lợng xuất khẩu ngày một tăng. Sản lợng lúa gạo của ta không
chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nớc mà còn xuất khẩu trên dới 2 triệu tấn gạo. Tuy
nhiên sản lợng lúa gạo d thừa chủ yếu là ở Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ một phần
nhỏ ở đồng bằng sông Hồng. Các vùng khác sản lợng tuy có tăng nhng vẫn thiếu l-
ơng thực vì sản xuất ở các vùng này có nhiều khó khăn.
3.2. Chất lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Trong mấy năm gần đây, chất lợng gạo của Việt Nam đã tăng lên, gạo phẩm
cấp cao chiếm trên 40% tổng số gạo xuất khẩu. Tốc độ tăng của gạo có phẩm cấp cao
qua các năm không ổn định. Từ năm 1989 - 1994 tốc độ tăng bình quân năm là 0,53
lần (53%/năm). Từ năm 1995 - 1997 tốc độ này giảm xuống 0,14 lần (14%/năm) nh-
ng tốc độ tăng cả giai đoạn xuất khẩu (1989 - 1997) lại tăng lên 0,28 lần (28%/năm),
tốc độ tăng của năm 1998 là 0,30 lần (30%/năm). Trong khi đó, tốc độ tăng của gạo
phẩm cấp trung bình và thấp là 0,19 lần (19%/năm) tăng chậm hơn so với tốc độ tăng
của gạo có phẩm cấp cao.
14
Biểu 2 - Thực trạng chất lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam
Năm
Tỷ lệ (%) chất lợng gạo xuất
khẩu so với tổng số
Tốc độ tăng (liên hoàn) chất lợng
gạo xuất khẩu (%)
Cao TB Thấp Cao TB Thấp
1989 1,0 2,5 96,5 100% 100% 100%
1990 14,3 8,7 77,0 143,00 348,00 78,97
1991 35,1 10,0 55,0 245,45 119,94 71,43
1992 40,3 15,2 45,0 114,15 152,00 81,82
1993 51,2 21,4 28,0 127,05 140,79 62,22
1994 70,0 13,0 17,0 136,72 60,75 60,71
1995 54,8 22,7 22,5 78,29 174,62 129,41
1996 49,0 13,0 38,0 89,42 57,27 168,89
1997 44,0 8,0 48,0 89,80 61,54 126,32
1998 57,0 16,0 27,0 129,55 200,00 56,25
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
3.3. Giá cả và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
Giá cả và kim ngạch xuất khẩu gạo là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh
tế của toàn bộ quá trình từ khâu sản xuất đến khâu xuất khẩu gạo. Trong 10 năm
(1989 - 1998) và 9 tháng đầu năm 1999 tham gia xuất khẩu gạo giá gạo xuất khẩu
của Việt Nam có nhiều chuyển biến rõ rệt. Cụ thể đợc biểu hiện ở biểu số liệu dới
đây:
15
Biểu 3 - Giá cả và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (1989 - 1998)
Năm
Giá bình quân
(USD/tấn)
Kim ngạch XK
(triệu USD)
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
Giá bình quân Kim ngạch XK
1989 226,1 310,2 100% 100%
1990 176,3 275,4 77,97 82,78
1991 226,1 229,8 128,25 83,44
1992 207,6 405,2 91,82 176,33
1993 203,1 335,6 97,83 82,68
1994 217,2 420,8 106,94 125,61
1995 262,0 538,8 120,63 127,85
1996 285,0 868,4 108,78 161,36
1997 244,5 891,00 85,79 102,60
1998 265,2 1006,0 108,46 112,90
8 tháng/99 227,2 750,0
Năm 1989 giá gạo xuất khẩu của ta từ chỗ bình quân 226,4 USD/tấn năm 1995;
285 USD/tấn năm 1996. Tốc độ tăng bình quân năm là 2,25%/năm. Tuy chỉ tăng đợc
2,25%/năm nhng giá cũng phần nào phản ánh đợc sự tăng lên về chất lợng gạo xuất
khẩu của Việt Nam. Cơ cấu gạo xuất khẩu đã có sự thay đổi theo chiều hớng tốt. Gạo
có phẩm cấp cao (5-10% tấm) đã tăng lên. Bên cạnh đó, giá tạo tăng lên còn do
nhiều nguyên nhân khác chẳng hạn nh: sự đổi mới tích cực về cơ chế quản lý, giá đã
tránh đợc sự ép giá của bạn hàng và tránh đợc sự chèn ép giá giữa các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo của Việt Nam. Tuy vậy, vẫn còn một số nguyên nhân dẫn đến sự giảm
giá gạo chẳng hạn nh: năm 1997 giá gạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ còn là 244,5
USD/tấn thấp hơn so với năm 1996 là 40,5 USD/tấn. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự thụt giá này là do cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam á. Kim ngạch
xuất khẩu gạo cũng tăng lên đáng kể từ 310,2 triệu USD năm 1989 lên tới 1.006 triệu
USD năm 1998. Tốc độ tăng kim ngạch bình quân là 0,18%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu gạo tăng lên do sản lợng gạo xuất khẩu và giá gạo xuất khẩu tăng. Kim ngạch
xuất khẩu gạo đứng vị trí thứ hai sau kim ngạch xuất khẩu dầu mỏ. Đây chính là
thành công lớn trong giai đoạn đầu của quá trình xuất khẩu gạo.
Tuy nhiên, lợng gạo xuất khẩu trong 8 tháng đầu năm 1999 đã đạt 3,3 triệu tấn
nhng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 750 triệu USD và dự đoán cả năm 1999 có thể
xuất khẩu 4,4 triệu tấn đạt kim ngạch khoảng trên 1,1 tỷ USD. Sản lợng gạo xuất
khẩu lớn hơn năm 1998 là 0,5 triệu tấn nhng kim ngạch xuất khẩu lạ ít hơn năm 1998
là 26 triệu USD, sở dĩ nh vậy là do giá gạo thế giới bị suy giảm liên tục. Bởi hiện nay
các thị trờng xuất khẩu gạo lớn nh Pakistan, ấn Độ đã bắt đầu thu hoạch; trong lúc
16