Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Luận văn chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.97 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

NGUYỄN DUY PHÚC

CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƯƠNG MẠI 2005

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN DUY PHÚC
Khóa: 2017 – 2021

MSSV: 1753801011150

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN HỒNG THÙY TRANG

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Hồng Thùy Trang, đảm
bảo tính trung thực và tn thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 06 năm 2021
Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BTHĐHĐ

Buộc thực hiện đúng hợp đồng

CISG

Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế


LTM

Luật Thương mại

PICC 2004

Nguyên tắc hợp đồng Thương mại
Quốc tế 2004 của Unidroit

PLHĐKT 1989

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG…………....................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng..............6
1.1.1.

Khái niệm chế tài trong thương mại................................................... 6

1.1.2.

Khái niệm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng..............................7

1.1.3.

Đặc điểm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng................................8


1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam............................................................................ 11
1.2.1.

Giai đoạn trước năm 1997................................................................ 11

1.2.2.

Giai đoạn từ sau năm 1997............................................................... 12

1.3. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.................................13
1.3.1.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường
hợp mà các bên đã thỏa thuận......................................................................... 13
1.3.2.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường
hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng.................................................................... 14
1.3.3.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hành vi vi
phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia.............................................. 15
1.3.4.
Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hành vi vi
phạm của một bên do thực hiện quyết định của của cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng……......................................................................................................... 16
1.4. Vấn đề giới hạn việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.........17
1.5. Vấn đề gia hạn thực hiện nghĩa vụ............................................................. 18
1.6. Hệ quả pháp lý của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. . .21
1.7. Ý nghĩa của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.................................... 22

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC
HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG.................................................................................... 24
2.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng..................................................................................................................... 26


2.1.1.
Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng......................................................................................... 26
2.1.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng......................................................................................... 31
2.2. Thực trạng pháp luật về cách thức áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng..................................................................................................................... 32
2.2.1.
Thực trạng quy định pháp luật về cách thức áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng................................................................................. 32
2.2.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về cách thức áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng......................................................................................... 37
2.3. Thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và một số chế tài khác trong thương mại.................................................... 41
2.3.1.
Thực trạng quy định pháp luật về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng và một số chế tài khác trong thương mại........................41
2.3.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng và một số chế tài khác trong thương mại........................45
KẾT LUẬN............................................................................................................ 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Phi thương bất phú” đó là câu thành ngữ được đúc kết cho thấy vai trò quan
trọng của thương mại đối với nền kinh tế. Vai trị đó trước hết được thể hiện ở việc
thương mại thúc đẩy q trình lưu thơng hàng hóa trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Tiếp theo đó là thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phân phối các nguồn lực của nền kinh tế đồng thời
là góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Theo báo cáo tổng kết công tác năm
2020 và 5 năm 2016 - 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021 ngành Cơng Thương thì
ngành thương mại và dịch vụ đóng góp 1,487,625.6 tỷ đồng trên tổng số 3,847,181.6 tỷ
đồng (xấp xỉ 38.67% - chiếm tỉ trọng cao nhất trong tất cả các ngành kinh tế) cho GDP
năm 2020 theo giá so sánh và có tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016
1

– 2020 là 106.20%/năm . Như vậy, thương mại là một trong những hoạt động quan
trọng của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, để điều chỉnh hoạt động thương mại ở
nước ta thì có các văn bản như LTM 2005, Luật Quản lý ngoại thương 2017,… cịn
trước đây thì có LTM 1997 hay xa hơn nữa là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 điều
chỉnh các hợp đồng kinh tế.
Do tính chất của các hoạt động thương mại là việc thực hiện các hoạt động
nhằm sinh lợi mà các hoạt động này có giá trị về kinh tế tương đối lớn, vì vậy để đảm
bảo việc sản xuất, kinh doanh diễn ra một cách trơi chảy thì giữa các chủ thể (chủ yếu
là các thương nhân) sẽ thường tồn tại các hợp đồng thương mại. Các hợp đồng thương
mại này có thể là hợp đồng đầu tư, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,… Để các hợp
đồng nói trên được thực thi một cách có hiệu quả, đảm bảo quyền lợi của các bên tham
gia hợp đồng thương mại thì ngồi thiện chí thực hiện của các bên thì việc quy định các
chế tài trong thương mại cũng là một công cụ hữu hiệu. Luật Thương mại 2005 ra đời

đã ghi nhận 6 loại chế tài trong thương mại và ghi nhận biện pháp mở do các bên tự
thỏa thuận. Một trong những chế tài thường được áp dụng nhiều nhất là chế tài buộc
2

thực hiện đúng hợp đồng . Tuy nhiên, do việc ra đời đã hơn 15 năm mà các yếu tố kinh
tế, xã hội luôn luôn vận động, biến đổi đã dẫn đến một số sự sai khác, bất cập giữa quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng của chế tài buộc thực hiện đúng

1 Bộ Công Thương(2020), Phụ lục I “Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020, triển khai
nhiệm vụ năm 2021 ngành Công Thương”.
2 Theo thống kê của tác giả, chỉ tính riêng đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa thì trong 04 tháng đầu năm

2021, trong tổng số 53 bản án, quyết định được công bố trên trang web [ />(truy cập lần cuối ngày 22/5/2021) thì có tới 42 bản án, quyết định mà nội dung có đề cập đến việc một trong
các bên đã áp dụng hoặc yêu cầu Tòa án áp dụng việc BTHĐHĐ. Con số này cao hơn rất nhiều so với các chế
tài Phạt vi phạm, Hủy bỏ hợp đồng (3 vụ), Đình chỉ hợp đồng (2 vụ).

1


hợp đồng theo Luật Thương mại 2005. Từ những lí do kể trên, tác giả lựa chọn đề
tài “Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại 2005” để thực
hiện cơng trình khóa luận.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong những chế tài quan trọng
của Luật Thương mại 2005. Trải qua thời gian dài được quy định trong các văn bản
pháp luật và được áp dụng trong thực tiễn thì việc nghiên cứu về chế tài này cũng đã
được thực hiện rất nhiều bởi nhiều tác giả khác nhau với nhiều cơng trình nghiên
cứu. Dưới đây tác giả khóa luận liệt kê một số cơng trình nghiên cứu nổi bật về chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng mà tác giả đã nghiên cứu để tham khảo trong việc
thực hiện Khóa luận tốt nghiệp.

Nguyễn Ngọc Hiếu (2011), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật
thương mại, luận văn Ths Luật học, Đại học Luật TP HCM. Đề tài này làm rõ cơ sở
lý luận, thực trạng pháp lý và áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong
thực tiễn xét xử. Qua đó cung cấp kiến thức pháp lý cần thiết cho các bên trong quá
trình thực hiện hợp đồng thương mại, góp phần hồn thiện quy định của pháp luật
về vấn đề này.
Đặng Hoa Trang (2014), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Cơng
ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật thương mại
Việt Nam, luận văn Ths Luật học, ĐH Luật TP HCM. Đề tài này nghiên cứu thực
trạng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam và
quy định của Công ước Viên 1980. Đưa ra những so sánh làm cơ sở khoa học đề
kiến nghị hoàn thiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng dưới khía cạnh giải thích
và áp dụng pháp luật.
Mai Bích Việt (2014), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của Bộ
luật dân sự Việt Nam 2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, trường đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh. Cơng trình chủ yếu nghiên cứu về vấn đề buộc thực hiện đúng
hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 và có khai thác thêm quy định của
pháp luật nước ngoài và thực trạng của quy định pháp luật đồng thời đưa ra các kiến
nghị để hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam về chế định này.
Mã Thị Bích Mai (2017), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân Luật, trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Đề tài này làm rõ chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng với cách tiếp cận những nội dung như khái niệm, đặc
điểm, cách thức áp dụng, các trường hợp không áp dụng, điều kiện áp dụng, chức

2


năng, vai trò, quan hệ và nghiên cứu việc thực thi pháp luật về chế tài, từ đó đưa ra
những kiến nghị.
Đỗ Văn Đại (2010), Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật

thực định Việt Nam, đề tài khoa học cơng nghệ cấp Bộ, TP.Hồ Chí Minh; Đỗ Văn
Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp
luật Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu độc lập, chun sâu về chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng thì đề tài này còn được nghiên cứu với tư cách là một bộ phận
của rất nhiều các cơng trình nghiên cứu khác nhau. Có thể kể đến đó là các cơng
trình như Nguyễn Hải Long (2017), Các chế tài đối với vi phạm hợp đồng song vụ
theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạ
Khánh Hà (2012), chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội;v.v…
Ngoài ra, cịn nhiều cơng trình khác là các bài viết có liên quan được đăng trên
các tạp chí khoa học pháp lý như bài viết “Bất cập trong việc áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương mại – một số
kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thanh Tùng đăng trên tạp chí Luật học số 7/2015; Bài
viết “Một số ý kiến liên quan đến các quy định về chế tài trong thương mại theo các
quy định của Luật Thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Khế đăng trên tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 01(237) năm 2018; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2021), “Bàn về cơ
sở tồn tại và vấn đề giới hạn phạm vi áp dụng của chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng” được đăng tải trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3(395),2021. Bên cạnh đó là
các bài viết trên internet có thể kể đến như “Một số quy định về chế tài của Luật
Thương mại năm 2005 cần được hoàn thiện” (2016) của tác giả Lê Văn Sua mà chế tài
BTHĐHĐ là một phần của bài viết; Hồ Ngọc Hiển, Đỗ Giang Nam, “Một số vấn đề về
biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”. Đồng
thời rất nhiều cơng trình nghiên cứu khác là nguồn tài liệu phong phú tạo điều kiện để
tác giả có cơ hội hồn thành tốt cơng trình khóa luận này.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn khóa luận có thể góp một
phần quan điểm, phân tích, tổng hợp các chế định của pháp luật có liên quan, cơ sở lý
luận về nhưng không giới hạn ở bản chất chế tài BTHĐHĐ, điều kiện áp dụng, cách

thức áp dụng, hệ quả pháp lý, mối quan hệ với các chế tài khác trong LTM nhằm giúp
các tổ chức, cá nhân quan tâm đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong Luật
Thương mại có thêm nguồn tư liệu tham khảo trong việc thực hiện chế tài cũng

3


như là hoàn thiện chế định nêu trên. Bên cạnh đó là đóng góp một cái nhìn ở góc độ
thực tiễn để nhận biết các vướng mắc, bất cập liên quan đến chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng để đưa ra những kiến nghị, hướng giải quyết trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản
quy phạm pháp luật, bản án, các quan điểm khoa học về chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng.
Về phạm vi nghiên cứu: Vì chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một vấn
đề pháp lý tương đối rộng, được ghi nhận, quy định ở trong nhiều văn bản pháp luật
ở trong nước như Bộ luật dân sự (BLDS) 2015, Luật Thương mại (LTM) 2005 và các
văn bản mang tính quốc tế như Cơng ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế
(CISG), Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit… Trong giới hạn
phạm vi Khóa luận tốt nghiệp, tác giả tập trung nghiên cứu trong khuôn khổ Luật
Thương mại 2005, có liên hệ với BLDS để làm sáng tỏ một số nội dung mà Luật

Thương mại không quy định. Ngồi ra, nhằm mục đích hồn thiện các quy định của
Luật Thương mại về chế tài thì tác giả cũng sẽ tham khảo một số quy định của các
văn bản quốc tế như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và Bộ
nguyên tắc Unidroit 2004.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khóa luận được tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
nhằm hiện thực hóa mục tiêu nghiên cứu, trong đó bao gồm các phương pháp sau:
-


Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử được áp dụng
xuyên suốt khóa luận nhằm tránh sự chủ quan, duy ý chí

-

Phương pháp phân tích – tổng hợp nhằm làm rõ các vấn đề lý luận chung về đề
tài được sử dụng ở trong chương 1 của khóa luận và dùng để làm rõ những quy
định cịn vướng mắc, bất cập khơng phù hợp của các quy định trong chế tài khi
áp dụng trong thực tiễn được nêu ở chương 2.

-

Phương pháp phân tích – bình luận dùng trong q trình xem xét các quy định
pháp luật ở Chương 1 và các bản án, quyết định của tòa án, trọng tài thương mại
ở chương 2.

-

Phương pháp suy luận – logic: được sử dụng trong tồn bộ khóa luận, giúp tiếp cận
các quan điểm, thơng tin liên quan có được trong q trình đánh giá các ý kiến của
các tác giả, chuyên gia, các quyết định của Tịa án trong q trình giải quyết các vụ
việc liên quan. Ngồi ra, phương pháp này cịn giúp liên kết, xâu chuỗi các lập luận,
thông tin trong các tài liệu tham khảo và thực tiễn. Qua đó, tác giả có thể

4


đưa ra những nhận định, đánh giá dưới góc độ cá nhân về mức độ thống nhất,
đồng bộ về nhận thức và vận dụng pháp luật.

-

Phương pháp so sánh - đối chiếu được sử dụng trong tồn khóa luận. Ở Chương
1 và Chương 2 tác giả có sự so sánh, đối chiếu giữa các quy định về chế tài
BTHĐHĐ trong pháp luật thương mại Việt Nam với các quy định về chế tài này
trong pháp luật quốc tế; Ngoài ra, ở Chương 2 tác giả còn sử dụng phương pháp
so sánh để làm rõ sự khác biệt trong việc giải quyết các tranh chấp có liên quan

đến chế tài BTHĐHĐ của các cơ quan tài phán, từ đó làm rõ sự không thống
nhất trong thực tiễn xét xử.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm 02 chương, cụ thể như sau:
-

Chương 1: Tổng quan về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

5


CHƯƠNG 1.

TỔNG QUAN VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG
HỢP ĐỒNG
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại

Khi một hợp đồng thương mại được xác lập thì mong muốn hay ý chí ban
đầu của các bên là hướng đến việc hợp đồng được thực hiện để đạt được các mục
đích giao kết của mình, mục đích đó có thể là mục đích bán được hàng, cung cấp
được dịch vụ để thu lại một khoản tiền hay mua được hàng, sử dụng được dịch vụ,
… Tuy nhiên, thực tế quan hệ thương mại không phải lúc nào cũng sẽ thuận lợi diễn
ra như mong muốn ban đầu của các bên mà trong rất nhiều trường hợp thì bởi nhiều
lý do, các bên vi phạm những nghĩa vụ hợp đồng của mình, dẫn đến nguy cơ, thiệt
hại cho đối tác. Vì vậy, chế tài thương mại ra đời như là phương pháp phòng ngừa
hay tạo niềm tin để các bên có thể tham gia vào quan hệ thương mại với ít sự lo lắng
nhất có thể, bởi khi có sự vi phạm hợp đồng thì các chế tài có thể được áp dụng để
đảm bảo hợp đồng được thực hiện trên thực tế, khôi phục và bù đắp thiệt hại cho
bên bị vi phạm hay chấm dứt hoặc tạm chấm dứt việc thực hiện toàn bộ hoặc một
phần hợp đồng.
Luật thương mại Việt Nam 2005 sử dụng nhưng không định nghĩa thuật ngữ
“chế tài trong thương mại”. Do đó, sau đây tác giả sẽ trình bày các khái niệm về
thuật ngữ này theo nhiều nguồn khác nhau từ đó rút ra khái niệm về chế tài trong
thương mại.
Về thuật ngữ “chế tài”, theo từ điển pháp lý Black, chế tài là hình phạt hoặc
các biện pháp thực thi khác được sử dụng để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật hoặc
3

các quy tắc, quy định .
Ở Việt Nam, theo Từ điển Luật học, chế tài được định nghĩa là một trong ba
bộ phận cấu thành một quy phạm pháp luật (bao gồm giả định, quy định, chế tài).
Trong đó, chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành
vi vi phạm với các quy tắc xử sự chung được ghi nhận trong phần quy định và giả
4

định của pháp luật .
Trong khi đó, “thương mại” tuy khơng được định nghĩa trong LTM 2005 nhưng

LTM 2005 có định nghĩa thuật ngữ “hoạt động thương mại” theo đó hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung

3 Black, Henry Campbell (1990), Black’s Law Dictionary, 6th ed, St.Paun, MN.: West Publishing, p. 1341.

ISBN 0-314-76271 -X.
4 Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, tr.130.

6


ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác.
Mối quan hệ giữa Luật Thương mại và Luật Dân sự là mối quan hệ giữa luật
chuyên ngành và luật chung. Xem xét BLDS 2005 thì khơng sử dụng thuật ngữ “Chế
tài” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm dân sự” để gọi các biện pháp xử lý hành

vi vi phạm hợp đồng. Xem xét tiếp quy định của BLDS 2015 có sử dụng thuật ngữ
chế tài tại Điều 10 về giới hạn việc thực hiện quyền dân sự, theo đó trường hợp cá
nhân, pháp nhân lạm dụng quyền dân sự của mình gây thiệt hại cho người khác, vi
phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục đích khác trái pháp luật thì Tịa án, cơ
quan có thẩm quyền khác có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định. Như vậy,
theo BLDS thì “chế tài” là biện pháp xử lý hành vi lạm dụng quyền dân sự gây thiệt
hại cho người khác hoặc hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Bên cạnh đó, BLDS còn sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm dân sự” để chỉ các biện
pháp xử lý hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể rút ra định nghĩa “chế tài trong thương
mại” theo nghĩa rộng đó là những hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại phải gánh
chịu. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại

có thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các bên trong quan hệ thương mại. Các
hành vi vi phạm có thể là các hành vi vi phạm các quy định về quản lý trong lĩnh vực
thương mại như hành vi vi phạm nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân,

vi phạm về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh,…(Điều 320 LTM 2005).
Ở phạm vi nghiên cứu của đề tài thì “chế tài trong thương mại” được hiểu theo
nghĩa hẹp, có thể hiểu đồng nhất với khái niệm chế tài đối với vi phạm hợp đồng
thương mại, đó là những hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
hợp đồng thương mại phải gánh chịu. Chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại ở đây
là các bên trong hợp đồng mà cụ thể là bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và hành

vi vi phạm ở đây là các hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng như vi phạm nghĩa vụ
giao hàng (Điều 34 LTM 2005), nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng (Điều 50 LTM
2005), nghĩa vụ nhận hàng (Điều 56 LTM 2005),…
1.1.2. Khái niệm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Điều 385 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khoản 1 Điều 275
BLDS quy định một trong các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ là hợp đồng. Mặt khác,
có thể hiểu rằng hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Như
7


vậy, hợp đồng thương mại là một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ hợp đồng
thương mại. Đây là sự cam kết của các bên khi tham gia vào quan hệ thương mại với
bên đối tác, theo đó khi tham gia vào quan hệ thương mại thì các bên phải tuân thủ các
cam kết của mình. Bởi lẽ, khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại thì mục đích của
các bên là đạt được lợi ích từ việc hợp đồng được thực hiện, bên bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ thì được thanh tốn từ hàng hóa, dịch vụ mà họ cung cấp, bên mua hàng
hóa, nhận cung ứng dịch vụ thì có được hàng hóa, được thực hiện công việc. Và như
vậy, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ra đời như là một hệ quả tất yếu của nguyên

5

tắc Pacta sunt Servanda – nguyên tắc giao ước cần được tuân thủ . Theo đó, ở góc độ lý
luận thì “buộc thực hiện đúng hợp đồng” là việc buộc bên vi phạm nghĩa vụ, cam kết
trong hợp đồng phải thực hiện các hành vi để hợp đồng được diễn ra đúng như cam kết,
mong muốn của các bên - được thể hiện trong hợp đồng.
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong các chế tài trong thương mại
6

được liệt kê ở Điều 292 LTM 2005 . Pháp luật thương mại Việt Nam đưa ra định nghĩa
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như sau: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp
7

khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh” . Như
vậy, theo định nghĩa này thì ta có thể rút ra các vấn đề chủ yếu như sau:

Thứ nhất, chủ thể áp dụng chế tài này là “bên bị vi phạm”, chủ thể bị áp dụng
chế tài là “bên vi phạm”.
Thứ hai, hình thức thực hiện chế tài bao gồm hai hình thức là “yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng” và “sử dụng các biện pháp khác để hợp đồng được
thực hiện”, bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
1.1.3. Đặc điểm chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một chế tài trong thương mại, do đó
nó có các đặc điểm chung của chế tài trong thương mại và đồng thời cũng có những
đặc điểm riêng của mình.

5Đặng Hoa Trang (2014), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế và pháp luật thương mại Việt Nam, luận văn Ths Luật học, Đại học Luật TP HCM, tr.16
6 Các chế tài được quy định tại Điều 292 LTM 2005 bao gồm: (1) Buộc thực hiện đúng hợp đồng, (2) Phạt vi


phạm, (3) Buộc bồi thường thiệt hại, (4) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng, (5) Đình chỉ thực hiện hợp đồng,
(6) Huỷ bỏ hợp đồng và (7) Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán
thương mại quốc tế.
7 Khoản 1 Điều 297 LTM 2005

8


Thứ nhất, chủ thể áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là các
bên của hợp đồng thương mại
Đây là đặc điểm chung của các chế tài trong thương mại. Đối với chế tài
BTHĐHĐ thì xuất phát từ định nghĩa của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng tại
điều 297 LTM 2005, buộc thực hiện đúng hợp đồng là bên bị vi phạm yêu cầu bên
vi phạm… Như vậy, chỉ có chủ thể của hợp đồng cụ thể là chủ thể bị vi phạm mới
có quyền áp dụng chế tài này với chủ thể vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm có thể
áp dụng hay khơng áp dụng chế tài này bởi đây là quyền của họ.
Ngoài bên bị vi phạm hợp đồng là chủ thể áp dụng chế tài BTHĐHĐ thì liệu
rằng Tịa án có là chủ thể áp dụng chế tài BTHĐHĐ hay không? Theo tác giả thì
việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng của Tòa án trong trường hợp này
không phải là một quyền trong hợp đồng thương mại. Bởi việc buộc bên vi phạm
thực hiện đúng hợp đồng của Tịa án được thực hiện thơng qua việc u cầu của bên
bị vi phạm, tức là Tòa án sẽ khơng có quyền này nếu bên bị vi phạm khơng thực
hiện nó. Như vậy, quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng của Tòa án chỉ
là quyền của chủ thể mang quyền lực nhà nước đứng ra xem xét, giải quyết tranh
chấp, xem xét sự hợp pháp, hợp lý đối với vi phạm và yêu cầu của các bên. Do vậy,
không thể xem xét rằng chủ thể áp dụng chế tài BTHĐHĐ là Tịa án mà chỉ có thể
là bên bị vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài cơ bản nhất để

các bên đạt được mục đích hợp đồng
Xuất phát từ việc “Hợp đồng sinh ra để đem lại cho các bên lợi ích hợp
8

pháp mà họ mong đợi thông qua việc thực hiện” , chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng giữ các bên tồn tại ở mối quan hệ mà các bên mong muốn ngay từ đầu – quan
hệ thương mại với các quyền, nghĩa vụ cụ thể, giúp các bên đạt được mục đích ban
đầu của mình khi tham gia giao kết chứ khơng phải là những lợi ích vật chất có
được từ bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm. Và do đó, đây là chế tài mà chức
năng của nó là đảm bảo quan hệ hợp đồng được thực hiện như thỏa thuận. Với chức
9

năng trên, chế tài này thường là chế tài được ưu tiên áp dụng .
Đặc biệt, tinh thần ưu tiên áp dụng của chế tài BTHĐHĐ cịn được thể hiện
thơng qua thứ tự liệt kê các chế tài trong thương mại, theo đó, tại Điều 292 LTM 2005
chế tài BTHĐHĐ được sắp xếp vị trí số một, ở trên các chế tài khác trong thương

8 Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.45
9Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật thương mại, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 454

9


10

mại . Xem xét các quy định của CISG thì tại Điều 45 quy định các biện pháp bảo
hộ pháp lý trong trường hợp người bán vi phạm hợp đồng thì biện pháp đầu tiên
được đề cập đó là quyền yêu cầu người bán phải thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng
(dẫn chiếu đến quy định yêu cầu người bán thực hiện đúng nghĩa vụ tại Điều 46

CISG) hay biện pháp bảo hộ pháp lý khi người mua vi phạm hợp đồng tại Điều 61
CISG thì biện pháp đầu tiên được đề cập cũng quy định dẫn chiếu đến quyền yêu
11

cầu người mua thực hiện đúng hợp đồng (Điều 62 CISG). Tương tự, Bộ nguyên
tắc về hợp đồng của Unidroit 2004 (PICC 2004) cũng dành những quy định đầu tiên
12

cho vấn đề buộc thực hiện hợp đồng . Như vậy, có thể nhận thấy được tinh thần ưu
tiên áp dụng chế tài BTHĐHĐ trong LTM 2005 của Việt Nam và một số văn bản
quốc tế như CISG và PICC 2004.
Ngoài ra, một biểu hiện của tinh thần ưu tiên áp dụng chế tài BTHĐHĐ trong
pháp luật thương mại Việt Nam mà mục đích cốt lõi là bảo vệ quan hệ hợp đồng của
chế tài BTHĐHĐ còn được thể hiện ở điều kiện áp dụng chế tài BTHĐHĐ (tác giả
sẽ phân tích chi tiết hơn tại phần 2.1.1 trong Chương 2 của khóa luận) là đơn giản
hơn rất nhiều so với các chế tài khác trong thương mại. Khái quát thì có thể nhận
thấy điều kiện áp dụng chế tài BTHĐHĐ chỉ bao gồm hợp đồng bị vi phạm là hợp
đồng có hiệu lực (i), tồn tại hành vi vi phạm hợp đồng (ii) và hành vi vi phạm không
rơi vào các trường hợp miễn trách (iii). Trong khi đối với các chế tài khác, chẳng
hạn chế tài phạt vi phạm thì ngồi các điều kiện nêu trên thì cịn phải đáp ứng điều
kiện là có thỏa thuận phạt vi phạm, hay chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện
hợp đồng thì điều kiện có hành vi vi phạm hợp đồng thì hành vi vi phạm phải là vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng hoặc vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện
áp dụng chế tài (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác), đối với chế tài buộc
bồi thường thiệt hại thì yêu cầu có thiệt hại xảy ra trên thực tế là điều kiện bổ sung.
Như vậy, có thể hiểu chế tài BTHĐHĐ có vị trí ưu tiên áp dụng so với các chế tài
khác trong thương mại và với tính chất ưu tiên áp dụng cùng với chức năng của
mình thì chế tài BTHĐHĐ là chế tài cơ bản nhất để bảo vệ quan hệ hợp đồng –
nhằm mục đích cuối cùng là để các bên đạt được mục đích giao kết hợp đồng.


10
Nguyễn Đăng Duy (2012), Chế tài thương mại trong luật thương mại Việt Nam 2005, Luận văn
ThS Luật Kinh tế, trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.17
11
Nguyễn Ngọc Hiếu (2011), Buộc thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật thương mại, Luận văn
Ths Luật học, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.25
12
Điều 7.2.1 PICC 2004 thực hiện nghĩa vụ thanh tốn “Khi bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa
vụ thanh tốn, bên có quyền có thể yêu cầu thanh toán”
Điều 7.2.2 PICC 2004 thực hiện nghĩa vụ phi tiền tệ: “Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ không
phải là nghĩa vụ thanh tốn, bên có quyền có thể u cầu nghĩa vụ phải thực hiện”
10


Thứ ba, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng có thể áp dụng đồng thời
với một số chế tài khác trong thương mại
Trong hoạt động thương mại, khi có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì các
bên có thể áp dụng chế tài để đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng của mình.
Đơi khi, việc chỉ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là không đủ để bên
bị vi phạm đạt được những lợi ích, mục đích của mình và do đó chế tài này có thể
được áp dụng đồng thời với một số chế tài trong thương mại. Tuy nhiên, không phải
mọi chế tài trong thương mại đều có thể áp dụng đồng thời với thời chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng. Cụ thể, LTM 2005 chỉ cho phép áp dụng đồng thời chế tài
BTHĐHĐ với chế tài phạt vi phạm, yêu cầu bồi thường thiệt hại mà không áp dụng
đồng thời với các chế tài hủy hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ
thực hiện hợp đồng và các biện pháp khác. Về nguyên nhân, tác giả sẽ phân tích chi
tiết tại Mục 2.3 trong Chương 2 của khóa luận.
1.2.

Quá trình hình thành và phát triển của chế tài buộc thực hiện đúng hợp

đồng trong pháp luật Việt Nam

1.2.1. Giai đoạn trước năm 1997
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam có thể coi là
được xuất hiện lần đầu tiên trong thời kỳ Pháp thuộc, được quy định thông qua một
số điều luật. Cụ thể như sau:
Ở Miền Bắc, Điều 912 Bộ dân luật Bắc kỳ quy định như sau: “Nếu người
bán không nộp trong thời hạn hai bên đã định với nhau, thì người mua có thể tùy ý
xin thủ tiêu việc mua bán, hay là nếu sự chậm trễ tại người bán, thì có thể bắt phải
giao nộp”. Như vậy, trong Bộ dân luật Bắc kỳ 1931 có quy định về việc cho phép
người mua được quyền buộc bên bán phải giao nộp vật bán.
Trong khi đó, trong Bộ Hồng Việt Trung kỳ Hộ luật (Bộ luật Dân sự Trung kỳ
1936) cũng ghi nhận về chế tài BTHĐHĐ, theo đó, tại Điều thứ 1040 ghi nhận “Nếu
người bán khơng giao-phó trong thời-hạn hai bên đã định với nhau, và nếu sự chậm
giao ấy chỉ do lỗi người bán thời người mua có thể tùy-ý hoặc xin thủ-tiêu việc mua
bán, hoặc bắt phải giao-phó vật đã bán”. Như vậy, cũng giống như Bộ luật dân sự Bắc
kỳ 1931, bộ Hoàng luật Dân sự Trung kỳ cũng có quy định về chế tài

BTHĐHĐ.
Sau cách mạng Tháng tám 1945 những quy định về chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng được tiếp tục sử dụng cùng với các bộ luật dân sự kể trên cho đến
năm 1959. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra chỉ
11


13

thị số 772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc” .
Trong thời kì này, tuy có các văn bản về chế tài thương mại song chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng đã khơng cịn được quy định.

Ở Miền Nam, trong Bộ luật Thương mại 1972 Việt Nam Cộng Hòa, chế tài
BTHĐHĐ được quy định tại Điều 353 với nội dung, “nếu đã có giao ước mà người
bán khơng giao hàng thì người mua, sau khi đốc thúc vô hiệu bằng văn thư ngoại tư
pháp, có thể mua một số hàng cùng loại để thay thế và xin Tòa buộc người bán phải
14

chịu phí tổn cùng giá sai biệt” .
Đến giai đoạn những năm từ 1989 đến trước 1997 thì các hợp đồng kinh tế được
điều chỉnh bởi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 (PLHĐKT 1989). Theo Pháp lệnh này
thì chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được quy định tại các Điều 31, Điều 32, Điều
15

34 . Theo đó, buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng khi sản phẩm, hàng hóa
khơng đúng chất lượng, cơng việc khơng đúng yêu cầu kỹ thuật đã thỏa thuận (Điều
31); Khi phát hiện sai sót thì các bên có quyền thỏa thuận thay thế việc sửa chữa sai sót
bằng cách giảm giá hoặc đổi lấy sản phẩm, hàng hóa khác (Điều 32); Khi một bên
khơng hồn thành sản phẩm, hàng hóa, cơng việc một cách đồng bộ theo thỏa thuận thì
bên bị vi phạm có quyền khơng nhận sản phẩm, hàng hóa, cơng việc đó cho đến khi
được hồn thành đồng bộ (Điều 34). Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn ở mức sơ
khai, chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, tại Điều 32 PLHĐKT 1989 khơng quy định về việc
một bên có quyền đơn phương thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách đổi lấy sản
phẩm, hàng hóa khác mà việc này phải được thực hiện thơng qua q trình thỏa thuận.
Việc quy định như vậy có thể dẫn đến sự chậm trễ, gây ra thiệt hại và có thể nhận xét là
“thiếu linh động” khi mà để cho thiệt hại xảy ra sau đó yêu cầu thực hiện các chế tài
khác là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.

1.2.2. Giai đoạn từ sau năm 1997
Sau một thời gian thực thi thì Luật Thương mại 1997 (LTM 1997) ra đời thay
thế PLHĐKT 1989, đánh dấu một bước phát triển về việc điều chỉnh các quan hệ
thương mại. Đặc biệt về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, LTM 1997 dành

16

khoản 1 Điều 223 để định nghĩa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng .

13
Luật dân sự Việt Nam, trang web: [ />truy cập lần cuối ngày 13/5/2021
14
Mã Thị Bích Mai (2017), Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo luật thương mại 2005, Khóa
luận tốt nghiệp cử nhân luật, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.8
15
Đặng Hoa Trang, tlđd (5), tr. 14

16
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng
hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.
12


Sau bảy năm được thực thi, LTM 1997 đã có nhiều đóng góp cho việc điều
chỉnh hoạt động thương mại nói chung và các chế tài trong thương mại cụ thể là chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên, nhằm đáp ứng hơn nữa các yêu
cầu cho công cuộc phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế thì Luật Thương mại 2005 (LTM
2005) ra đời, bên cạnh việc kế thừa LTM 1997 thì LTM 2005 bổ sung rất nhiều quy
định mới, trong đó là các quy định về chế tài trong thương mại và đặc biệt là sự hoàn
thiện đối với chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng hơn so với quy định của LTM 1997.
Đơn cử như việc quy định trong LTM về cách thức áp dụng chế tài BTHĐHĐ, trường
hợp bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì
theo LTM 1997 bên vi phạm phải “tìm cách loại trừ khuyết tật của hàng hố, thiếu sót
của dịch vụ”, trong khi đó LTM 2005 có sự hồn thiện hơn khi loại bỏ cụm từ “tìm
cách” trong câu trên. Như vậy theo LTM 2005 nghĩa vụ của bên vi phạm khơng chỉ

giới hạn ở việc “tìm cách” để khắc phục vi phạm mà nghĩa vụ của họ phải là loại trừ
khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ.

1.3.

Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

Theo Điều 294 LTM 2005 quy định về 04 trường hợp mà bên vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm. Quy định này cũng đồng thời áp dụng đối
với việc miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bởi vì lúc này bên vi
phạm hợp đồng có thể viện dẫn các quy định về miễn trách nhiệm để từ chối yêu
cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng của bên bị vi phạm. Cụ thể các trường hợp được
miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ được phân tích dưới đây.
1.3.1. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường hợp
mà các bên đã thỏa thuận
Một trong những nguyên tắc của pháp luật thương mại đó chính là ngun
tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận. Theo đó “các bên có quyền tự do thỏa thuận không
trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác
lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn
trọng và bảo hộ các quyền đó”. Tại điểm a khoản 1 Điều 294 LTM 2005 quy định
bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm khi xảy ra trường hợp miễn trách
nhiệm mà các bên đã thỏa thuận. Như vậy, bằng việc quy định thỏa thuận là một
trong các trường hợp miễn trách nhiệm khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại hay
trường hợp miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đã thể hiện sự tôn
trọng và bảo hộ quyền tự do thỏa thuận của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại.
Phân tích quy định về trường hợp miễn trách nhiệm do các bên đã thỏa thuận
có những điểm cần lưu ý như sau:
13



Thứ nhất, điều kiện để miễn trách nhiệm là các bên “đã” có thỏa thuận về
việc miễn trách nhiệm nếu xảy ra tình huống như các bên đã thỏa thuận. Như vậy,
xét về mặt thời điểm thì việc thỏa thuận này phải xảy ra trước khi bên bị vi phạm áp
dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Thứ hai, như thế nào được coi là “đã có thỏa thuận” về việc miễn trách
nhiệm hay hình thức của thỏa thuận này là gì? Pháp luật thương mại hiện khơng có
quy định rõ ràng về hình thức của thỏa thuận vấn đề miễn trách nhiệm này. Tuy
nhiên, tham khảo quy định tại Điều 24 LTM 2005 về hình thức của hợp đồng mua
bán hàng hóa, Điều 74 LTM 2005 về hình thức của hợp đồng dịch vụ thì những điều
luật này quy định nếu khơng có quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật khác thì
các hợp đồng này có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Xét về thỏa thuận trường hợp miễn trách nhiệm thì đây có thể
coi là một nội dung hợp đồng và do đó nó có thể được thể hiện dưới hình thức văn
bản, lời nói hay hành vi cụ thể.
Đối với hình thức văn bản thì thỏa thuận về trường hợp miễn trách nhiệm
hay miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ có thể được ghi nhận trong văn bản hợp đồng
hay phụ kiện hợp đồng (như phụ lục hợp đồng) với tư cách là bộ phận không tách
rời của hợp đồng hay trong một văn bản mà pháp luật chuyên ngành quy định là tài
17

liệu kèm theo hợp đồng .
Đối với hình thức lời nói hay hành vi cụ thể thì việc chứng minh có tồn tại
thỏa thuận về trường hợp miễn trách nhiệm hay trường hợp không áp dụng chế tài
BTHĐHĐ là vấn đề khơng dễ. Trên thực tế cũng rất ít khi xảy ra trường hợp có sự
thỏa thuận về việc miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ bằng lời nói hay hành vi cụ thể
bởi lẽ những hợp đồng thương mại được giao kết bằng lời nói hay hành vi cụ thể
thơng thường có giá trị khơng q lớn mà mang tính chất nhỏ lẻ do đó các bên sẽ
thường bỏ qua việc thỏa thuận những vấn đề như chế tài, miễn trách nhiệm…
1.3.2. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong trường hợp
xảy ra sự kiện bất khả kháng

Sự kiện bất khả kháng không được định nghĩa trong LTM 2005. Do đó, theo
nguyên tắc áp dụng luật chung vào giải quyết những vấn đề luật chuyên ngành không
18

quy định được ghi nhận tại khoản 3 Điều 4 LTM 2005 thì tác giả sẽ viện dẫn quy định
của BLDS để định nghĩa. Theo quy định của BLDS 2015, “sự kiện bất khả

17
18

Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, tlđd (9), tr.442
Khoản 3 Điều 4 LTM 2005: “ 3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương
mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.”

14


kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể
19

khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” .
LTM 2005 liệt kê sự kiện bất khả kháng vào một trong 04 trường hợp miễn trách nhiệm
đối với hành vi vi phạm. Và vì vậy việc áp dụng chế tài hay cụ thể là chế tài BTHĐHĐ
khi hành vi vi phạm của bên vi phạm là do xảy ra sự kiện bất khả kháng là không đúng
quy định của pháp luật. Một số sự kiện bất khả kháng có thể kể đến đó là thiên tai, hỏa
hoạn, chiến tranh, đình cơng… Tuy nhiên, để được miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp
đồng hay miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ thì các sự kiện mà các bên cho rằng đó là sự
kiện bất khả kháng thì phải thỏa mãn những điều kiện sau đây:

(i)

(ii)

Sự kiện xảy ra một cách khách quan;
Sự kiện xảy ra không thể lường trước được;

(iii)

Sự kiện xảy ra không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép và;

(iv)

Sự kiện nêu trên gây cản trở dẫn đến việc bên vi phạm không thể thực
hiện hay không thể thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng.

1.3.3. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hành vi vi phạm
của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Bên vi phạm được giải phóng khỏi trách nhiệm khi việc vi phạm hợp đồng của
mình xuất phát từ chính lỗi của bên kia.

20

Như vậy, khi một bên vi phạm hợp đồng

nhưng nguyên nhân là hồn tồn do lỗi của bên cịn lại thì bên vi phạm hợp đồng có
quyền từ chối việc bên bị vi phạm áp dụng chế tài BTHĐHĐ. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra
là xác định “lỗi của bên kia” là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến việc không
thực hiện đúng hợp đồng để bên vi phạm viện dẫn quy định miễn trách nhiệm hay từ
chối thực hiện chế tài? LTM 2005 khơng có câu trả lời song cách quy định chung là lỗi
thì có thể hiểu lỗi ở đây là bao gồm cả lỗi là nguyên nhân trực tiếp và lỗi là nguyên

nhân gián tiếp dẫn đến việc không thực hiện đúng hợp đồng. Đối với trường hợp lỗi là
nguyên nhân trực tiếp thì câu trả lời khá rõ ràng, bởi vì ở đây quan hệ nguyên nhân –
kết quả trực tiếp dẫn đến việc vi phạm thì “theo lẽ cơng bình người gây ra việc không
21

thực hiện đúng hợp đồng không thể viện dẫn việc này để đem lại lợi ích cho mình” .
Trong khi đó, trường hợp lỗi của bên bị vi phạm là nguyên nhân gián tiếp của việc
không thực hiện đúng hợp đồng thể hiện ở các hình thức như vi

19
20

Điều 156 BLDS 2005
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam tập II, Nhà xuất bản
Tư pháp, tr.310
21
Đỗ Văn Đại, tlđd(8), tr.221

15


phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ và từ việc này dẫn đến việc bên vi phạm
22

hợp đồng không thể thực hiện đúng hợp đồng .
Việc miễn trách nhiệm hay miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ trong trường hợp
này thường gặp ở tình huống một bên vi phạm nghĩa vụ của mình bên cịn lại áp
dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng thì việc áp dụng chế tài tạm ngừng hợp
đồng của bên bị vi phạm là một sự vi phạm hợp đồng nhưng sự vi phạm này xuất
phát từ lỗi của bên kia.

LTM 2005 và cả BLDS 2015 đều quy định trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi
“hoàn toàn” của bên kia. Như vậy, điều kiện để bên vi phạm hợp đồng viện dẫn quy
định này là lỗi phải “hoàn toàn” của bên bị vi phạm nhưng lại thiếu quy định về việc
lỗi xuất phát từ cả hai bên hay lỗi “một phần” của bên bị vi phạm. Theo tác giả, nên
theo hướng quy định miễn trách nhiệm hay miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ tương ứng
với mức độ, phạm vi lỗi của bên có lỗi dẫn đến hành vi vi phạm của bên còn lại.

1.3.4. Miễn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hành vi vi phạm
của một bên do thực hiện quyết định của của cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền mà các bên khơng thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng
LTM 2005 quy định một trong các trường hợp miễn trách nhiệm là khi hành
vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Căn cứ quan
trọng để bên vi phạm được miễn trách nhiệm này là nhằm mục đích đảm bảo tính
quyền uy phục tùng của mệnh lệnh hành chính. Khi một quyết định hành chính

được ban hành được đưa ra, bên vi phạm trong hợp đồng có thể bị cấm đoán thực
hiện một hành vi (như xuất khẩu, nhập khẩu) hoặc buộc phải thực hiện một hành vi
(như nộp hàng hóa cho quyết định trưng thu). Ở đây, bên vi phạm hợp đồng chỉ có hai
lựa chọn hoặc là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, tuân theo quyết định hành chính của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc là làm trái quyết định của cơ quan nhà
23

nước nhưng thực hiện đúng hợp đồng . Trên tinh thần thượng tôn pháp luật, bất kể
quyết định hành chính đó là hợp pháp hay khơng thì cách xử sự phải được ưu tiên đó là
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và tuân theo quyết định hành chính nhà nước. LTM

2005 quy định theo hướng khuyến khích các bên xử sự theo hướng tuân theo quyết
định hành chính nhà nước bằng việc quy định một trường hợp miễn trách nhiệm là

22
23

Đỗ Văn Đại, tlđd (8), tr.222
Nguyễn Thị Như Anh (2018), Miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại
2005 và Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân
luật,
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.32

16


do thi hành quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mặc dù có thể coi trường
hợp này như là một trường hợp của việc miễn trách do sự kiện bất khả kháng.

Phân tích quy định về miễn trách nhiệm hay miễn áp dụng chế tài BTHĐHĐ
khi hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng có thể thấy để bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng viện dẫn quy định này nhằm từ
chối việc thực hiện chế tài BTHĐHĐ thì cần thỏa mãn những điều kiện sau:
(i)

Nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm của một bên là do thực hiện
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

(ii)

Các bên không thể biết được quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền này tại thời điểm giao kết hợp đồng.


Tóm lại, Điều 294 LTM 2005 nêu ra 04 trường hợp bên vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng được miễn trách nhiệm, đồng thời đây cũng là 04 trường hợp mà bên vi phạm có
thể viện dẫn để từ chối tuân thủ chế tài BTHĐHĐ. Tuy nhiên, để được áp dụng quy
định miễn trách nhiệm thì bên vi phạm phải thực hiện các hành vi để chứng minh

vi phạm của mình rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm và chứng minh với bên
24

bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình . Ngồi ra, bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng cịn có các nghĩa vụ thơng báo cho bên bị vi phạm “bằng văn
bản” về trường hợp miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra. Đồng thời
khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm cũng phải có nghĩa vụ
thơng báo ngay cho bên kia biết, nếu không thông báo hoặc thông báo khơng kịp
thời thì phải bồi thường thiệt hại.
1.4.

Vấn đề giới hạn việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Như đã phân tích ở trên, hiện nay LTM Việt Nam có 04 trường hợp về việc giới

hạn áp dụng chế tài BTHĐHĐ. Ngoài ra, tại Điều 420 BLDS 2015 cịn có một quy định
về việc thực hiện hợp đồng khi có hồn cảnh thay đổi cơ bản xảy ra. Theo đó, khi có
hồn cảnh thay đổi cơ bản xảy ra bên có lợi ích bị ảnh hưởng có thể yêu cầu bên kia
đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Trường hợp các bên không thỏa
thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có
thể yêu cầu Tòa án chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định hoặc sửa đổi hợp
đồng để cân bằng lợi ích giữa các bên. Tuy nhiên, tại khoản 4 Điều 420 BLDS 2015 lại
quy định“Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ
việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo

24


Khoản 2 Điều 294 và khoản 3 Điều 295 LTM 2005

17


hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, mặc dù tinh thần tại Điều
420 BLDS 2015 là tiến bộ song khó có thể vận dụng vào thực tiễn miễn áp dụng chế
tài BTHĐHĐ.
Nhìn chung, những quy định về việc giới hạn áp dụng chế tài BTHĐHĐ nêu
trên là vẫn cịn nhiều thiếu sót, mang hơi hướng của việc bảo vệ bên bị vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng quá mức và đặc biệt ở góc độ so sánh luật thì số lượng cũng như phạm
vi các trường hợp giới hạn áp dụng chế tài BTHĐHĐ là còn khiêm tốn, chưa tính đến
các trường hợp đặc biệt để cân bằng lợi ích cũng như hậu quả kinh tế của các bên.
Tham khảo các quy định quốc tế chẳng hạn như Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại
quốc tế của Unidroit 2004 thì việc giới hạn áp dụng chế tài BTHĐHĐ đối với các nghĩa
vụ không phải là nghĩa vụ thanh tốn khơng chỉ dừng lại ở các trường hợp (i) và (ii) mà
25

còn mở rộng ra ở các trường hợp (iii), (iv) và (v) dưới đây :
(i)

Không thể thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hay trên thực tế

(ii)

Việc thực hiện nghĩa vụ hoặc, nếu có thể, các phương thức thực hiện
nghĩa vụ đòi hỏi cố gắng hoặc những khoản chi phí bất hợp lý

(iii)


Bên có quyền có thể nhận một cách hợp lý được việc thực hiện nghĩa vụ
bằng phương pháp khác
Việc thực hiện mang tính tuyệt đối cá nhân; hay

(iv)
(v)

Bên có quyền khơng u cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp
lý kể từ thời điểm bên này đã biết hoặc lẽ ra phải biết về việc khơng thực
hiện nghĩa vụ

Tóm lại, để đảm bảo sự cân bằng lợi ích của cả bên vi phạm và bên bị vi
phạm, tránh gây hậu quả nặng nề bất hợp lý cho bên vi phạm hợp đồng thì theo tác
giả nên thu hẹp phạm vi áp dụng chế tài BTHĐHĐ theo xu hướng quốc tế, mà cụ
thể là mở rộng các trường hợp giới hạn việc áp dụng chế tài BTHĐHĐ, có thể tham
khảo các quy định của Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế về vấn đề này.
1.5.

Vấn đề gia hạn thực hiện nghĩa vụ
Để áp dụng chế tài BTHĐHĐ, LTM 2005 cho phép bên bị vi phạm có thể “gia

hạn một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng” . Tuy nhiên, thế
nào là một khoảng thời gian “hợp lý” để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng?
LTM 2005 không quy định cụ thể và việc khơng quy định đó cũng là điều dễ hiểu. Bởi
lẽ, tùy từng quan hệ hợp đồng mà khoảng thời gian này sẽ khác nhau và

25 Điều 7.2.2 PICC 2004, bản dịch được tham khảo từ trang web:
[ truy cập lần cuối ngày 28/5/2021
18



hợp lý ở quan hệ hợp đồng này có thể sẽ không hợp lý ở quan hệ hợp đồng khác, vì
vậy khó có thể cơ đọng hay điều chỉnh tất cả các trường hợp để đảm bảo tính ổn
định lâu dài của luật . Đối với một số quan hệ hợp đồng mà đối tượng là hàng hóa
mang tính chất mùa, vụ, hay cơng việc mang tính chất thời điểm thì bên bị vi phạm
có xu hướng rút ngắn khoảng thời gian gia hạn này. Việc gia hạn thời gian thường
dựa vào thiện chí của bên bị vi phạm cũng như là sự đánh giá, cân nhắc của họ khi
xét đến lợi ích của việc hợp đồng được thực hiện. Trong khi đó, đánh giá mức độ
“hợp lý” của khoảng thời gian nêu trên nếu xảy ra tranh chấp dựa vào sự đánh giá
của cơ quan giải quyết tranh chấp trên cơ sở cân nhắc các yếu tố khác nhau chẳng
hạn như tính chất của đối tượng hợp đồng, mức độ vi phạm hợp đồng,… Có ý kiến
cho rằng việc gia hạn một thời gian để bên bị vi phạm khắc phục vi phạm và nếu hết
thời gian ấn định mà bên vi phạm khơng khắc phục vi phạm thì bên bị vi phạm có
quyền áp dụng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện khiến cho bản chất
chế tài BTHĐHĐ ở đây chuyển thành “việc các bên thỏa thuận gia hạn thời gian
26

thực hiện nghĩa vụ hợp đồng” . Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thì bản chất
chế tài này khơng phải là “thỏa thuận” gia hạn thời gian nghĩa vụ hợp đồng mà việc
“gia hạn” của bên bị vi phạm chỉ là một hành vi pháp lý đơn phương, thể hiện yêu
cầu, mong muốn bên vi phạm khắc phục vi phạm hợp đồng của mình. Ngồi ra, nếu
việc gia hạn mang tính chất “thỏa thuận” lại thời gian nghĩa vụ hợp đồng như quan
điểm nêu trên thì sẽ kéo theo việc thay đổi nội dung của hợp đồng về nghĩa vụ của
các bên được xác lập trước đó, trái với bản chất và hệ quả pháp lý của việc áp dụng
chế tài BTHĐHĐ (nội dung được trình bày tại Mục 1.6 của khóa luận).
Bên cạnh đó, quy định hiện nay của LTM 2005 tại Điều 299 LTM sử dụng cụm
từ “trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng” theo tác giả là
khơng hợp lý, dễ dẫn đến sự khó hiểu khi áp dụng. LTM nên sử dụng cụm từ “trong
thời gian gia hạn thực hiện nghĩa vụ” để đồng nhất với quy định tại điều luật trước đó

về quy định gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc sử dụng cụm “trong thời hạn mà bên bị vi
phạm ấn định” để phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 299 LTM 2005 nhằm giúp
việc xác định thời gian này dễ dàng hơn. Việc quy định theo hướng này cũng là phù
hợp với các quy định quốc tế, chẳng hạn là với Điều 47 CISG

27

khi mà khoản 1

26
Lê Hồng Hạnh (2002), Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hà Nội, tr.26
27 Điều 47 CISG: “1. Người mua có thể cho người bán thêm một thời hạn bổ sung hợp lý để người bán thực
hiện nghĩa vụ.
2. Trừ phi người mua đã được người bán thông báo rằng người bán sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình
trong thời hạn bổ sung đó, người mua khơng được sử dụng đến bất cứ biện pháp bảo hộ pháp lý nào trong
trường hợp người bán vi phạm hợp đồng trước khi thời hạn bổ sung kết thúc. Tuy nhiên ngay cả trong trường
hợp này người mua cũng không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại do người bán chậm trễ trong việc thực
hiện nghĩa vụ của mình.”
19


×