TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
PHẠM CẨM TÚ
MUA CỔ PHẦN, PHẦN VỐN GÓP
TRONG DOANH NGHIỆP
CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------
----------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Đề tài:
MUA CỔ PHẦN, PHẦN VỐN GÓP
TRONG DOANH NGHIỆP CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN
KHĨA
: PHẠM CẨM TÚ
: 42
MSSV
: 1753801011210
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : THẠC SĨ LÊ NHẬT BẢO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Nhật
Bảo, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích
tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Phạm Cẩm Tú
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1.
Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 1
3.
Mục đích nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài .......................................................... 3
5.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu .................................................................. 4
6.
Bố cục tổng quát của khóa luận ....................................................................... 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA CỔ PHẦN,
PHẦN VỐN GÓP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM ................................................................................................ 5
1.1. Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài .................................................................... 5
1.2.
Khái niệm hoạt động mua cổ phần và mua phần vốn góp trong doanh nghiệp
1.3.
7
Quyền lợi nhà đầu tư nước ngồi có được khi đầu tư mua cổ phần, mua phần
vốn góp trong doanh nghiệp Việt Nam ..................................................................... 10
1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật điều chỉnh hoạt động mua cổ phần, mua phần
vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi trong doanh nghiệp Việt Nam ......................... 13
1.4.1. Đảm bảo quyền tự do đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam 13
1.4.2. Bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước trong hoạt
động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp........................................................................ 15
1.4.3. Các điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngồi............................. 17
1.5. Vai trị của hoạt động mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam........................................................................................... 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA CỔ PHẦN,
MUA PHẦN VỐN GÓP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ........................................................... 24
2.1. Về điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp trong
doanh nghiệp Việt Nam................................................................................................................... 24
2.1.1. Điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngồi.............................. 24
2.1.2. Bảo đảm quốc phịng, an ninh và quy định của pháp luật về đất đai................33
2.2. Các hình thức nhà đầu tư nước ngồi mua cổ phần, mua phần vốn góp trong
tổ chức kinh tế Việt Nam................................................................................................................. 36
2.3.
Thủ tục đầu tư theo hình thức mua cổ phần, mua phần vốn góp........................39
2.3.1. Thủ tục đăng ký mua cổ phần, mua phần vốn góp
...................................................................................................................................................................
39
2.3.2. Thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp
...................................................................................................................................................................
42
2.4.
Cơ chế bảo đảm các quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư nước ngồi...........44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................................................. 47
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 48
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Từ đầu năm 2020, các quốc gia trên toàn thế giới đã phải ứng phó với đại
dịch tồn cầu chưa từng có trong lịch sử, mà theo như tờ Nhân dân điện tử “thế giới
đã dành trọn 365 ngày để ứng phó với SARS-CoV-2, chủng virus corona mới gây
1
đại dịch Covid-19” . Dưới tác động của đại dịch Covid-19, đời sống con người trên
toàn thế giới đã buộc phải có những thay đổi sâu rộng, và hoạt động đầu tư nước
ngồi khơng phải là một ngoại lệ.
Các lệnh giới hạn nhằm kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh đã ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh trên toàn thế giới. Thiệt hại trong
kinh doanh đã khiến giá trị cổ phiếu và phần vốn góp trong doanh nghiệp sụt giảm
mạnh, mở đường cho các nhà đầu tư nước ngoài thu mua cổ phần, phần vốn góp của
tổ chức kinh tế Việt Nam. Hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua
phần vốn góp trong giai đoạn này giúp bù đắp thiếu hụt dòng vốn FDI, đồng thời
cũng là nguồn lực tiếp sức cho doanh nghiệp trong nước bước qua giai đoạn khó
khăn. Tuy nhiên hoạt động đầu tư này cũng đặt ra các nguy cơ thâu tóm, “đánh rơi”
các doanh nghiệp quan trọng vào tay nhà đầu tư nước ngồi. Cơ quan tham mưu
tổng hợp cho Chính phủ cịn đề cập nguy cơ những doanh nghiệp có vai trị dẫn dắt
nền kinh tế Việt Nam có thể bị thâu tóm bởi các nhà đầu tư nước ngồi là một trong
2
năm thách thức lớn của nền kinh tế trong những tháng cuối năm 2020 .
Bên cạnh đó từ ngày 01/01/2021 Luật đầu tư số 61/2020/QH14 ngày
17/6/2020 (Luật Đầu tư 2020) và Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày
17/6/2020 (Luật Doanh nghiệp 2020) có hiệu lực thi hành mang đến nhiều thay đổi
trong pháp luật điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngồi mua cổ phần, mua
phần vốn góp trong tổ chức kinh tế Việt Nam. Nhiều quy định đặt ra vẫn thiếu vắng
các văn bản hướng dẫn gây ra bối rối cho cả nhà đầu tư nước ngoài và cơ quan quản
lý nhà nước trong việc thực hiện pháp luật.
Nhằm làm rõ các quy định mới của pháp luật và tìm ra giải pháp cho chính
sách quản lý hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp.
Tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh
nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam” nhằm giải mã cơ sở lý
luận, phân tích thực trạng pháp luật và từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện
khung pháp lý cũng như thống nhất việc áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động của
nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp trong tổ chức kinh tế Việt
Nam.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp trong
doanh nghiệp Việt Nam khơng cịn là đề tài xa lạ trong nghiên cứu khoa học pháp lý.
Đây là một lĩnh vực được nhiều tác giả quan tâm với các nghiên cứu tiêu biểu như
1Nguyễn Sơn, Hồng Hà, “Nhìn lại năm 2020 qua biến cố Covid-19”, truy cập ngày 28/5/2021
2 Cục đầu tư nước ngoài, “Xu hướng mua bán sáp nhập (M&A): Cảnh báo các ngành công nghiệp trọng yếu
rơi vào tay đối thủ”, truy cập ngày 29/5/2021
1
“Pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh
nghiệp Việt Nam” của TS. Doãn Hồng Nhung và ThS. Nguyễn Thị Lan Anh (Nhà
xuất bản Tư pháp); “Một số vấn đề pháp lý về thủ tục gia nhập thị trường của nhà
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của ThS. Từ Thanh Thảo trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 4(288)/2021; “Hai nội dung phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài” của Luật sư Phùng Thanh Sơn trên tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 10(109)/2007; “Dự thảo luật đầu tư: đảm bảo bình đẳng trong hoạt
động đầu tư” của PGS TS. Đặng Văn Thanh trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
10(61)/2005; “Một số bất cập của luật đầu tư liên quan đến đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam” của TS. Cao Nhất Linh và TS. Hồ Đức Hiệp trên Tạp chí Tài chính số
728 tháng 5/2020; “Nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng trong giải quyết
tranh chấp đầu tư quốc tế giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu
tư” của Th.S Nguyễn Thu Dung và ThS. Cao Thị Lê Thương trên Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 8(352)/2017… Những cơng trình nghiên cứu trên là những thành
quả quý báu của hoạt động nghiên cứu pháp luật đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên các
đề tài trên chủ yếu nghiên cứu hoạt động đầu tư mua cổ phần và thiên về nghiên cứu
hoạt động mua cổ phần gắn với góp vốn vào tổ chức kinh tế, hoạt động mua phần
vốn góp vẫn chưa được đầu tư nghiên cứu. Hoạt động mua cổ phần, mua phần vốn
góp vẫn thiếu vắng các nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ hệ thống lý luận cũng như
thực trạng pháp luật mua cổ phần, mua phần vốn góp.
Bên cạnh đó các đề tài nghiên cứu hoạt động đầu tư nước ngoài phần lớn
nghiên cứu hoạt động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp dưới góc nhìn là hoạt
động đầu tư gián tiếp do đó vẫn chưa chỉ ra một cách tồn diện bản chất pháp lý của
hoạt động đầu tư này. Việc nhìn nhận trong nhiều trường hợp mua cổ phần, mua
phần vốn góp phải được xem là hình thức đầu tư trực tiếp có ảnh hưởng rất lớn đối
với tư duy pháp lý khi nghiên cứu hoạt động này, giúp đưa ra góc nhìn đa chiều hơn
và sâu sắc hơn.
Thêm vào đó việc nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời thay thế cho
văn bản cũ và bối cảnh đại dịch toàn cầu, khoa học pháp lý vẫn chưa có nhiều đề tài
nghiên cứu hoạt động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp trong hồn cảnh và
điều kiện mới để đưa ra những phân tích, đánh giá, bình luận và đề xuất để hồn
thiện pháp luật.
Do vậy, tác giả đã nghiên cứu đề tài “Mua cổ phần, phần vốn góp trong
doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài theo pháp luật Việt Nam” trên cơ sở kế
thừa các cơng trình q báu đi trước với góc nhìn mới mẻ hơn phù hợp với bối cảnh
mới để làm rõ hệ thống lý luận, thực trạng pháp luật đầu tư nước ngồi mua cổ
phần, mua phần vốn góp trong doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động đầu tư nước
ngoài, mở cửa thị trường mà vẫn bảo vệ được kinh tế nội địa.
3.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra góc nhìn pháp lý toàn diện về hoạt động
đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi, qua đó góp phần
hồn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư này. Các mục tiêu cụ thể được xác
định như sau:
2
Thứ nhất, giải mã cơ sở lý luận cho quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động
của nhà đầu tư nước ngồi mua cổ phần, mua phần vốn góp trong doanh nghiệp Việt
Nam. Đề tài làm rõ cách hiểu về hoạt động đầu tư này, các vấn đề xoay quanh đầu
tư mua cổ phẩn, mua phần vốn góp, cơ sở hình thành các hình thức đầu tư mua cổ
phần, mua phần vốn góp. Từ bản chất pháp lý của hoạt động đầu tư mua cổ phần,
mua phần vốn góp, đề tài lý giải quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như tác
động của hoạt động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài đến doanh nghiệp và kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động mua cổ phần,
mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi từ đó nêu đề xuất. Đề tài nghiên cứu
khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư mua cổ phần,
mua phần vốn góp và phân tích các quy định pháp luật hiện hành. Trên cơ sở hệ
thống lý luận đã làm sáng tỏ đề tài tìm ra cách hiểu và áp dụng đúng đắn của các
quy định pháp luật, bên cạnh đó bình luận tính phù hợp với lý luận và thực tiễn của
các chế định hiện hành. Ngoài ra đề tài cũng nêu ra các vướng mắc của pháp luật
điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước ngồi mua cổ phần, mua phần vốn góp và
đề xuất giải pháp trên cơ sở lý luận đã được giải mã và nghiên cứu kinh nghiệm của
pháp luật nước ngoài.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư
nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp trong doanh nghiệp Việt Nam. Doanh
nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam. Dựa vào cơ cấu tổ
chức quản lý, doanh nghiệp được phân loại thành doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Đề tài làm rõ hoạt động của nhà đầu tư
nước ngoài mua cổ phần trong công ty cổ phần và mua phần vốn góp trong cơng ty
trách nhiệm hữu hạn, cơng ty hợp danh. Với dung lượng có hạn, đề tài cũng sẽ
khơng đi sâu vào phân tích các doanh nghiệp đặc thù như doanh nghiệp nhà nước,
ngân hàng thương mại, cơng ty chứng khốn, cơng ty bảo hiểm,…
Hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp là hoạt
động đầu tư nhưng cũng đồng thời tạo nên những thay đổi trong tổ chức quản lý doanh
nghiệp nên chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật về đầu tư và pháp luật về doanh nghiệp.
Mua cổ phần, mua phần vốn góp cũng là một loại giao dịch dân sự nên chịu sự điều
chỉnh của pháp luật về dân sự. Bên cạnh đó việc mua cổ phần cịn chịu sự điều chỉnh
của pháp luật về chứng khốn. Việc mua cổ phần, mua phần vốn góp có thể dẫn đến tập
trung kinh tế nên chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh. Ngoài ra vấn đề tài sản
dùng để mua cổ phần, mua phần vốn góp, hay cách thức nhà đầu tư nước ngồi thực
hiện thanh tốn,… cịn có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng, sở hữu trí
tuệ, đất đai,…Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành trong phạm
vi pháp luật đầu tư, doanh nghiệp và dân sự điều chỉnh hoạt động của nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp.
3
5.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý để
tìm ra bản chất của vấn đề và đề xuất giải pháp. Tùy vào từng vấn đề mà tác giả lựa
chọn phương pháp phù hợp, bao gồm nhưng không giới hạn trong các phương pháp
sau đây:
Thứ nhất, phương pháp duy vật biện chứng. Pháp luật đầu tư mua cổ phần,
mua phần vốn góp được xem xét, nghiên cứu trong sự liên hệ, ràng buộc, tác động
lẫn nhau với các hiện tượng khác như cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp, nền
kinh tế của Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên,… Đồng
thời, pháp luật về hoạt động đầu tư này cũng được tác giả đặt vào quá trình vận
động và phát triển theo vận động xã hội của Việt Nam cũng như thế giới để đánh
giá, nghiên cứu.
Thứ hai, phương pháp phân tích và tổng hợp. Đề tài được chia thành nhiều
vấn đề trong mỗi vấn đề được chia thành nhiều nội dung để xem xét, nghiên cứu,
bình luận. Thơng qua việc chia nội dung thành các phần nhỏ, giản đơn hơn, cơ sở
hình thành, bản chất pháp lý của pháp luật đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp
được nhìn nhận một cách sâu sắc, đa chiều hơn. Từ kết quả phân tích những phần,
bộ phận, đề tài bao quát, đúc kết bản chất của pháp luật đầu tư mua cổ phần, mua
phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, phương pháp luật học so sánh. Đề tài nêu ra điểm giống, khác giữa
pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngồi, giải thích sự phát sinh, biến đổi các
quy phạm pháp luật trong bối cảnh kinh tế chính trị văn hóa lịch sử của mỗi nước để
hiểu giá trị, vai trò, ý nghĩa của các quy định pháp luật. So sánh và giải thích căn
nguyên để từ đó đưa đề xuất hồn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động mua cổ
phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài dựa trên học hỏi, tham khảo
pháp luật nước ngồi.
6.
Bố cục tổng qt của khóa luận
Nội dung đề tài được chia làm hai phần, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khái niệm, hình thức đầu tư mua cổ
phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động mua cổ phần, mua phần
vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi và một số kiến nghị.
4
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA CỔ PHẦN, PHẦN
VỐN GÓP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
1.1.
Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài
Theo học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo (năm 1817) mỗi quốc gia
sẽ hưởng lợi nếu chuyên mơn hóa sản xuất ra một hoặc một nhóm sản phẩm và tiến
3
hành xuất khẩu hàng hóa này với mức giá thấp . Đây chính là ngun nhân hình
thành quan hệ thương mại quốc tế. Trong quá trình phát triển, những trở ngại trong
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã xuất hiện. Quan hệ đầu tư giữa các quốc gia
đã hình thành như một lời giải đáp cho những trở ngại đó. Đầu tư nước ngồi cho
phép nước tiếp nhận đầu tư phát triển các ngành sản xuất khơng phải là lợi thế của
mình thay vì nhập khẩu, khắc phục được vấn đề thiếu vốn, công nghệ tiên tiến và
trình độ quản lý, đồng thời cũng tạo cơ hội cho doanh nghiệp đi đầu tư giảm chi phí
sản xuất, tăng tỷ suất lợi nhuận nhờ chuyển hướng vốn, công nghệ và tài sản ra môi
trường cạnh tranh kém hơn tức những nước kém lợi thế hơn về ngành sản xuất đó.
Đầu tư nước ngồi là một hiện tượng tất yếu của xã hội.
Song song với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đầu tư nước ngoài pháp
luật điều chỉnh hoạt động này cũng dần hình thành và phát triển. Nhằm mục đích
hoạch định chính sách và thực hiện pháp luật, Việt Nam đã đưa ra định nghĩa nhà
đầu tư nước ngoài tại Luật Đầu tư 2020. Định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài được
pháp luật đầu tư Việt Nam đưa ra phản ánh các dấu hiệu cơ bản của nhà đầu tư và áp
dụng tiêu chí quốc tịch của nhà đầu tư làm tiêu chí xác định tính chất “nước ngồi”
của chủ thể.
Theo quy định của Luật Đầu tư 2020, nhà đầu tư gồm hai nhóm đối tượng, là
cá nhân hoặc tổ chức, và có dấu hiệu hành vi “thực hiện hoạt động đầu tư kinh
4
doanh” . Ở góc độ chủ thể, nhà đầu tư có thể là một người hoặc một tổ chức, nhà
đầu tư không bắt buộc phải là pháp nhân. Ở góc độ hành vi, pháp luật đầu tư của
Việt Nam không liệt kê các hành vi được xem là thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh mà chỉ đưa ra dấu hiệu bản chất “đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ
5
vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh” . Như vậy có thể hiểu việc thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh bao gồm nhưng không giới hạn trong việc thành lập tổ
chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu
tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư. Bất kỳ hoạt động nào sử
dụng tiền và/hoặc tài sản khác để kinh doanh nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh
tế xã hội đều có thể xem là “thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh”. Một cách khái
quát, nhà đầu tư là một người hoặc một tổ chức người sử dụng tiền hoặc tài sản khác
để kinh doanh nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
3 Paul A.Samuelson and William D. Nordhaus (2009), Economics (Kinh tế học), McGraw-Hill, page 342:
“The principle of comparative advantage holds that each country will benefit if it specializes in the
production and export of those goods that it can produce at relatively low cost. Conversely, each country will
benefit if it imports those goods which it produces at reletively high cost.”
4 Khoản 18 Điều 3 Luật Đầu tư 2020
5 Khoản 8 Điều 3 Luật Đầu tư 2020
5
Định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư 2020 là các chủ thể
mang các dấu hiệu bản chất nêu trên của nhà đầu tư và là “cá nhân có quốc tịch
nước ngồi, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài”.
Đối với chủ thể là cá nhân, để được xem là nhà đầu tư nước ngoài cá nhân
này phải có quốc tịch và là quốc tịch của quốc gia không phải là Việt Nam. Trường
hợp một cá nhân đồng thời mang quốc tịch Việt Nam và quốc tịch nước ngoài, việc
áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường và thủ tục đầu tư như quy định áp dụng đối với
6
nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài là do chủ thể này lựa chọn . Có
thể xem việc xác định tư cách chủ thể là nhà đầu tư nước ngồi hay khơng phụ
thuộc vào ý chí của cá nhân đi đầu tư nếu cá nhân đó có cả quốc tịch Việt Nam và
quốc tịch nước ngoài.
Đối với chủ thể là tổ chức, pháp luật đầu tư Việt Nam xác định quốc tịch
nước ngoài theo tiêu chí pháp luật nơi thành lập (incorporation). Đây cũng là một
trong hai xu hướng xác định quốc tịch của tổ chức phổ biến trên thế giới, bên cạnh
xu hướng áp dụng tiêu chí trụ sở thương mại (siège social). Tiêu chí incorporation
là tiêu chí được sử dụng phổ biến trên thế giới nhờ tính chất minh thị, dễ xác định
của nó. Một tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngồi được xem là có quốc
tịch nước ngồi. Như vậy, ở góc độ chủ thể, việc xác định tư cách chủ thể nhà đầu
tư nước ngoài áp dụng tiêu chí incorporation để phân loại, nhà đầu tư nước ngoài là
nhà đầu tư được thành lập theo pháp luật của một quốc gia khác Việt Nam. Yếu tố
nguồn gốc của vốn góp khơng là tiêu chí xác định tư cách nhà đầu tư nước ngồi
của chủ thể đầu tư.
Có thể rút ra rằng, theo quy định của Luật Đầu tư 2020 để xác định một chủ
thể là nhà đầu tư nước ngoài cần xem xét chủ thể này phải có đầy đủ đặc điểm của
nhà đầu tư, tức là tổ chức hoặc cá nhân sử dụng tiền hoặc tài sản khác để sản xuất
kinh doanh trong một thời gian nhằm thu lợi, và chủ thể đó phải đáp ứng điều kiện
về quốc tịch, tức có quốc tịch hay thành lập theo pháp luật của quốc gia khác Việt
Nam.
Tuy nhiên bên cạnh định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài được đưa ra bởi Luật Đầu
tư 2020 vẫn tồn tại các văn bản pháp luật khác của Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa
nhà đầu tư nước ngồi. Thơng tư 06/2019/TT-NHNN ngày 26/6/2019 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngồi vào Việt Nam (Thơng tư 06/2019/TT-NHNN) quy định“Nhà đầu tư nước
ngồi” bao gồm: cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật
7
nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” . Quy định
này thống nhất với định nghĩa nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư 2020. Nhưng
bên cạnh đó, vẫn có văn bản quy phạm pháp luật đưa ra định nghĩa nhà đầu tư nước
ngoài mâu thuẫn với định nghĩa của Luật Đầu tư 2020. Nghị định 01/2014/NĐ-CP ngày
03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín
dụng Việt Nam (Nghị định 01/2014/NĐ-CP) định nghĩa nhà đầu tư gồm tổ chức nước
8
ngoài và cá nhân nước ngồi , trong đó tổ chức nước ngồi
6 Khoản 2 Điều 16 Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định 31/2021/NĐ-CP)
7 Khoản 1 Điều 3 Thông tư 06/2019/TT-NHNN
8 Khoản 3 Điều 3 Nghị định 01/2014/NĐ-CP
6
bao gồm tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của
các tổ chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam; và tổ chức, quỹ đóng, quỹ thành
viên, cơng ty đầu tư chứng khốn thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham
gia góp vốn của bên nước ngồi trên 49%.
Trong khi theo quy định của Luật Đầu tư 2020 chỉ tổ chức thành lập theo
pháp luật nước ngoài mới được xem là nhà đầu tư nước ngồi thì theo Nghị định
01/2014/NĐ-CP tổ chức thành lập tại Việt Nam có tỷ lệ vốn sở hữu của bên nước
ngoài trên 49% cũng xem là nhà đầu tư nước ngoài. Sở dĩ có sự tồn tại của định
nghĩa này là do hiện tượng “đầu tư chéo”, tức khi nhà đầu tư nước ngoài (A) thành
lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi (B) tại Việt Nam, sau đó dùng chính
doanh nghiệp B để đầu tư vào các ngành nghề bị hạn chế đối với nhà đầu tư nước
ngoài, do doanh nghiệp B được xem là doanh nghiệp Việt Nam nên không vướng
9
phải hạn chế đầu tư kinh doanh . Đây có thể xem như một nỗ lực để khắc phục việc
nhà đầu tư nước ngoài dùng thủ thuật “đầu tư chéo” để “lách” các hạn chế đầu tư
kinh doanh đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên cơ sở lý luận của biện pháp này không thực sự vững chắc. Bởi lẽ
như vậy sẽ liên tục làm thay đổi địa vị pháp lý của doanh nghiệp, việc thay đổi tỷ lệ
sở hữu vốn điều lệ không phải là hiếm trong doanh nghiệp, thậm chí việc này có thể
diễn ra thường xun, nếu tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài thay đổi đến mức dao động
liên tục giữa mức 49% địa vị pháp lý của doanh nghiệp sẽ thay đổi liên tục. Bên
cạnh đó, “địn phịng thủ” này sẽ trở nên vơ hiệu khi nhà đầu tư nước ngoài lại tiếp
tục dùng doanh nghiệp B (doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài) đi thành lập một
doanh nghiệp khác tại Việt Nam (C), khi đó C sẽ là doanh nghiệp hồn tồn có vốn
Việt Nam, không phải chịu các hạn chế đầu tư kinh doanh. Thêm vào đó, việc xác
định tư cách nhà đầu tư nước ngồi theo tiêu chí nguồn gốc vốn góp trong nhiều
trường hợp sẽ gây cản trở việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, gây tâm lý e ngại cho
nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp Việt Nam.
Do đó, định nghĩa về nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư 2020 vẫn là
cách hiểu hợp lý và phù hợp thực tiễn nhất cho đến thời điểm hiện tại. Xác định tư
cách nhà đầu tư nước ngoài cần căn cứ vào nơi thành lập, không thể căn cứ vào
nguồn gốc vốn. Để thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật và quản lý nhà nước cần
thống nhất cách hiểu, đối với trường hợp nhà đầu tư là tổ chức chỉ xem là nhà đầu
tư nước ngồi khi tổ chức đó thành lập theo pháp luật nước ngoài. Doanh nghiệp
thành lập theo pháp luật Việt Nam dù có tỷ lệ vốn nước ngồi là bao nhiêu cũng
phải công nhận đây là doanh nghiệp Việt Nam.
1.2. Khái niệm hoạt động mua cổ phần và mua phần vốn góp trong doanh
nghiệp
Theo quy định về cơng ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 2020, “vốn điều lệ
10
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần” . Từ quy định này có thể hiểu
cổ phần là phần vốn điều lệ bằng nhau, là phần vốn nhỏ nhất trong công ty cổ phần.
Việc sở hữu cổ phần làm phát sinh tư cách cổ đông công ty cổ phần. Cổ phần bao gồm
cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phần phổ thông là loại cổ phần bắt
9 ThS. Từ Thanh Thảo (2012), “Một số vấn đề pháp lý về thủ tục gia nhập thị trường của nhà đầu tư nước
ngồi tại Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 4 (288)/2012, tr. 24
10
Điểm a khoản 1 Điều 111 Luật Doanh nghiệp 2020
7
buộc phải có ở cơng ty cổ phần. Doanh nghiệp có quyền chào bán cổ phần và cổ
đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình theo quy định của pháp luật.
“Mua cổ phần” là việc nhà đầu tư trực tiếp đóng góp tài sản của mình vào
doanh nghiệp, tức góp vốn vào cơng ty cổ phần bằng cách mua cổ phần do công ty
phát hành; hoặc bỏ ra một số tiền hoặc tài sản nhất định để đổi lại nhận chuyển
nhượng quyền sở hữu vốn của công ty, tức nhận chuyển nhượng cổ phần từ cổ đông
công ty, xác lập tư cách cổ đông, cùng hưởng lợi và chịu rủi ro.
Theo định nghĩa tại Luật Doanh nghiệp 2020, phần vốn góp có thể hiểu là
tổng giá trị của tài sản mà một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào vốn điều lệ
11
của cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh . Phần vốn góp thể hiện quyền
sở hữu của thành viên đối với vốn chủ sở hữu, là tài sản của thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Thành viên cơng ty có quyền chuyển
nhượng phần vốn góp của mình theo quy định của pháp luật.
“Mua phần vốn góp” là hoạt động nhận chuyển nhượng phần vốn góp, nhà
đầu tư bằng việc bỏ ra một số tiền hoặc tài sản nhất định đổi lại nhận chuyển
nhượng giá trị tài sản mà bên chuyển nhượng đã góp vào cơng ty, từ đó xác lập tư
cách thành viên cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, cùng hưởng lợi
nhuận và chịu rủi ro.
Mua cổ phần, mua phần vốn góp, một cách khái quát, là việc nhà đầu tư bỏ ra
một số tiền hoặc tài sản nhất định đổi lại quyền sở hữu đối với một phần hoặc tồn
bộ cơng ty, cùng hưởng lợi và chịu rủi ro. Tuy nhiên, khác với việc xác lập quyền sở
hữu đối doanh nghiệp thơng qua góp vốn, tức đóng góp thêm tài sản vào doanh
nghiệp, luôn làm tăng vốn điều lệ, việc mua cổ phần, mua phần vốn góp có thể làm
tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp hoặc không. Chỉ khi mua cổ phần từ cơng ty, một
hình thức góp vốn vào công ty cổ phần khi công ty phát hành cổ phiếu để huy động
vốn, thì hoạt động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp mới mang đến hệ quả
tăng vốn điều lệ. Trường hợp mua cổ phần từ cổ đơng hay mua phần vốn góp từ
thành viên cơng ty, đây là hoạt động nhận chuyển nhượng phần vốn, chuyển quyền
sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác, khơng mang tính chất đóng góp tài sản vào
doanh nghiệp, do đó khơng làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp để tham gia quản lý
doanh nghiệp được xem là hình thức đầu tư trực tiếp. Việc mua cổ phần, mua phần vốn
góp mà chỉ nhằm mục đích sinh lợi thông qua chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp,
nhà đầu tư khơng trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư được xem là đầu tư gián
tiếp. Tuy nhiên chưa có quy định pháp luật xác định khi nào thì nhà đầu tư mua cổ
phần, mua phần vốn góp mới được tham gia quản lý doanh nghiệp. “Tham khảo thông
lệ quốc tế, nếu giá trị của khoản đầu tư nước ngồi khơng q 10% tổng số vốn đầu tư
thì được coi là đầu tư gián tiếp vì nhà đầu tư không đủ nhiều vốn để tác động đến
12
quyền quản lý công ty.” Đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp theo hình thức đầu
tư gián tiếp nhìn chung khơng phải lại nhiều tác động đến tổ chức kinh tế cũng như
quốc gia tiếp nhận đầu tư. Ngược lại, đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp ở theo
hình thức đầu tư trực tiếp có thể mang đến nhiều thay đổi trong cơ cấu tổ
11
12
Khoản 27 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020
TS. Doãn Hồng Nhung, ThS. Nguyễn Thị Lan Anh (2012), Pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu
tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, tr. 73
8
chức quản lý và vấn đề tài chính doanh nghiệp, hoặc thậm chí có thể tác động đến
nền kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Mua cổ phần, mua phần vốn góp trước hết và đơn thuần nhất là một hành vi
trong giao dịch mua bán. “Mua” là một dạng tìm kiếm trao đổi lợi ích nên điều kiện
tiên quyết khi thực hiện “mua” là phải có chủ thể sở hữu lợi ích mà bên mua đang
hướng tới. Trên cơ sở đó, trong giao dịch mua cổ phần, mua phần vốn góp phải có
một bên của giao dịch là chủ thể có quyền sở hữu hợp pháp đối với cổ phần, phần
vốn góp mà nhà đầu tư nước ngồi đang muốn sở hữu.
Cổ phần, phần vốn góp mang bản chất là vốn trong doanh nghiệp, chủ thể sở
hữu cổ phần, phần vốn góp trước hết phải xét đến là các chủ sở hữu doanh nghiệp. Các
chủ sở hữu trong công ty cổ phần là các cổ đông, là các cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất
một cổ phần của cơng ty cổ phần. Chủ thể có quyền sở hữu hợp pháp đối với cổ phần
chính là cổ đơng công ty. Đối với việc mua cổ phần, mua từ cổ đông công ty cổ phần là
một cách thức cho nhà đầu tư nước ngồi. Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một
thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty hợp danh là chủ thể có quyền
sở hữu hợp pháp đối với phần vốn góp trong cơng ty. Mua phần vốn góp từ thành viên
cơng ty là cách thức để nhà đầu tư nước ngoài mua phần vốn góp.
Cách thức mua cổ phần, mua phần vốn góp từ cổ đơng hay thành viên cơng ty
có thể làm phát sinh tư cách cổ đông, thành viên công ty cho nhà đầu tư nước ngoài với
tỷ lệ sở hữu cơng ty tương tương số cổ phần, phần vốn góp mua được. Nói một cách
đơn giản, lúc này nhà đầu tư nước ngoài được “chuyển giao” một phần hoặc toàn bộ
quyền của các chủ thể vừa chuyển nhượng đối với cổ phần, phần vốn góp trong tổ chức
kinh tế. Cách thức mua cổ phần, mua phần vốn góp này có thể tạo nên thay đổi về các
chủ sở hữu của công ty nhưng không tạo nên thay đổi về tổng số vốn.
Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản mà thành viên cơng ty góp hoặc cam kết
góp, nên sự tồn tại của phần vốn góp gắn liền với thành viên cơng ty khơng thể tách
rời. Phần vốn góp chỉ phát sinh khi có hành vi góp hoặc cam kết góp vốn vào cơng
ty, khi phát sinh sự tồn tại của phần vốn góp cũng sẽ phát sinh tư cách thành viên
cơng ty cho tổ chức, cá nhân góp vốn. Nên để mua phần vốn góp trong cơng ty trách
nhiệm hữu hạn, cơng ty hợp danh, khơng có cách thức nào khác ngồi mua từ thành
viên cơng ty.
Tuy nhiên, trường hợp tương tự không xảy ra đối với cổ phần. Phát hành cổ
phần là một cách thức để công ty cổ phần huy động vốn, cổ phần được phát hành
bởi cơng ty. Khơng như phần vốn góp chỉ tồn tại khi có sự tồn tại của thành viên
cơng ty, do nguồn gốc phát sinh là hành vi phát hành cổ phần của công ty nên cổ
phần tồn tại trước khi chủ sở hữu của nó có tư cách là cổ đông công ty. Cổ phần
trước khi thuộc sở hữu của cổ đơng thì đã tồn tại và được cơng ty cổ phần chào bán,
vậy nên ngoài mua từ cổ đơng, nhà đầu tư có thể mua cổ phần từ công ty cổ phần.
Cổ phần được công ty chào bán với mục đích huy động vốn, khi mua cổ phần
từ cơng ty, nhà đầu tư nước ngồi đã góp vào công ty giá trị tương ứng với giá trị tài
sản đã bỏ ra để mua cổ phần. Trong trường hợp này vốn điều lệ của công ty cổ phần
tăng và cơng ty có thêm cổ đơng là nhà đầu tư nước ngoài vừa mua cổ phần.
9
Vậy, các cách thức để nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn
góp gồm có: mua cổ phần nhà đầu tư nước ngồi từ cơng ty cổ phần hoặc cổ đơng
cơng ty; mua phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp
danh từ thành viên công ty. Trường hợp mua cổ phần từ công ty, vốn điều lệ và số
lượng cổ đông của công ty tăng. Vốn điều lệ công ty không đổi trong trường hợp
nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần hay phần vốn góp từ cổ đơng, thành viên công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.
1.3. Quyền lợi nhà đầu tư nước ngồi có được khi đầu tư mua cổ phần, mua
phần vốn góp trong doanh nghiệp Việt Nam
Xét từ góc độ cổ phần, phần vốn góp đơn thuần là một loại tài tài sản, việc
mua cổ phần, mua phần vốn góp mang lại cho nhà đầu tư nước ngồi các lợi ích
nhất định mà một tài sản mang lại, mà nổi bật là:
Thứ nhất, nhà đầu tư được quyền chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp.
Việc mua cổ phần, mua phần vốn góp, hiểu một cách bản chất nhất, mang lại cho
nhà đầu tư quyền sở hữu một loại tài sản, do đó đối với cổ phần, phần vốn góp đã
mua nhà đầu tư sẽ có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Vậy nên, với tư
cách là chủ sở hữu nhà đầu tư hoàn tồn có quyền chuyển giao quyền sở hữu số cổ
phần, phần vốn góp mà mình đã mua. Quyền lợi này góp phần đảm bảo tính thanh
khoản của hình thức đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp. Khi muốn giảm hoặc
rút vốn đầu tư, nhà đầu tư có quyền tự do chuyển nhượng phần cổ phần, phần vốn
góp mà mình sở hữu cho chủ thể khác.
Thứ hai, nhà đầu tư được sử dụng cổ phần, phần vốn góp để thế chấp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cổ phần, phần vốn góp là loại tài sản xác định được,
13
đáp ứng điều kiện để làm tài sản bảo đảm theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 .
Tài sản bảo đảm có thể được bên có nghĩa vụ dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối
với các biện pháp bảo đảm gồm: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ. “Cổ
phần trong công ty cổ phần hay phần vốn góp trong cơng ty trách nhiệm hữu hạn là
quyền tài sản (tài sản vơ hình) và do đó, khơng thể giao được về mặt vật chất cho
14
chủ nợ có bảo đảm” . Trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã liệt kê ở
trên, ngoài thế chấp các biện pháp còn lại đều đặt ra yêu cầu chuyển giao tài sản.
Vậy nên biện pháp bảo đảm thích hợp nhất mà có thể dùng cổ phần, phần vốn góp
có thể làm tài sản bảo đảm là thế chấp, bởi lẽ khi thế chấp, nhà đầu tư khơng cần
phải chuyển giao cổ phần, phần vốn góp. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền thế
chấp cổ phần, phần vốn góp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong thời gian
thế chấp nhà đầu tư vẫn có đầy đủ các quyền của thành viên, cổ đông công ty như
hưởng cổ tức, được chia lợi nhuận và quyền biểu quyết do tài sản không phải
chuyển giao tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên do tính chất của cổ phần, phần vốn góp khơng chỉ đơn thuần là một
loại tài sản mà cịn là vốn trong tổ chức kinh tế, nó mang lại cho chủ sở hữu những
quyền lực nhất định có khả năng tác động đến quản trị doanh nghiệp. Chính vì việc
thay đổi chủ sở hữu cổ phần, phần vốn góp sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh
13
14
Điều 295 Bộ luật dân sự 2015
TS. Bùi Đức Giang, “Nhận tài sản đảm bảo là phần vốn góp, cổ phần từ quy định pháp luật đến
thực tiễn”, truy cập ngày 21/5/2021
10
nghiệp nên Luật doanh nghiệp có xu hướng hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần,
phần vốn góp. Việc chuyển nhượng phần vốn góp trong cơng ty trách nhiệm hữu
hạn cho người khác chỉ được thực hiện sau khi chào bán phần vốn góp cho các
thành viên cơng ty. Việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập trong ba năm
kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập chỉ được chuyển nhượng
cho cổ đông không phải là cổ đông sáng lập khi được sự chấp thuận của Đại hội
đồng cổ đơng. Nhà đầu tư nước ngồi mua cổ phần hiển nhiên không phải là cổ
đông sáng lập của công ty nên việc chuyển nhượng cổ phần không chịu hạn chế nêu
trên, tuy nhiên nếu Điều lệ cơng ty có quy định về hạn chế chuyển nhượng nhà đầu
tư phải tuân thủ quy định này. Do vậy, để đảm bảo cho việc chuyển nhượng hay xử
lý thế chấp cổ phần, phần vốn góp có hiệu lực nhà đầu tư cần lưu ý tuân thủ các
điều kiện về hạn chế chuyển nhượng.
Ý nghĩa của cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp tạo nên một số hạn chế
trong việc sử dụng cổ phần, phần vốn góp như một tài sản thơng thường như đã trình
bày ở trên. Tuy nhiên, cũng nhờ vào ý nghĩa đó nó mang lại cho chủ thể sở hữu nhiều
quyền lợi khác trong doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp chính là động lực chính
để nhà đầu tư quyết định đầu tư theo hình thức mua cổ phần, mua phần vốn góp.
Xét từ góc độ cổ phần, phần vốn góp là vốn trong doanh nghiệp, việc sở hữu
cổ phần, phần vốn góp đem lại cho nhà đầu tư các quyền hành động trong doanh
nghiệp như một cổ đông hay thành viên công ty, mà nổi bật là:
Thứ nhất, hưởng cổ tức hay được chia lợi nhuận. Việc sở hữu cổ phần, phần
vốn góp làm phát sinh tư cách cổ đơng hay nói cách khác quyền sở hữu đối với
công ty cho nhà đầu tư nước ngồi, theo đó lợi nhuận của cơng ty sẽ được phân chia
cho nhà đầu tư nước ngoài theo tỷ lệ vốn mà họ sở hữu. Lợi nhuận này trong công
ty cổ phần sẽ được chia cho nhà đầu tư nước ngoài dưới dạng cổ tức. “Cổ tức trả
cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận ròng đã thực hiện và
khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữa lại của công ty. […] Cổ tức
trả cho cổ phần ưu đãi được thực hiện theo các điều kiện áp dụng riêng cho mỗi
15
loại cổ phần” . Đối với các quỹ đầu tư nước ngồi vào Việt Nam, có thể xem đây
là quyền lợi quan trọng nhất mà họ hướng đến. Các nhà đầu tư thường hướng vào
các doanh nghiệp tiềm năng kinh doanh tốt để đầu tư nhằm thu về lợi nhuận cao.
Thứ hai, quyền quản lý doanh nghiệp. Sở hữu cổ phần, phần vốn góp mang
lại cho nhà đầu tư nước ngoài quyền tham dự họp, quyền biểu quyết tương ứng với
cổ phần, phần vốn góp là mình sở hữu. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp
vào Việt Nam theo hình thức mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế
Việt Nam (theo thơng lệ quốc tế là dưới 10% vốn điều lệ tổ chức kinh tế) thì quyền
quản lý sẽ là một quyền lợi mờ nhạt với nhà đầu tư, do số vốn họ sở hữu không đủ
để tác động đến doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu đầu trực tiếp vào Việt Nam dưới hình
thức này, nhà đầu tư nước ngồi sở hữu một tỷ lệ vốn lớn, nhà đầu tư có thể can
thiệp vào các quyết định quản trị của doanh nghiệp.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngồi mua cổ phần trong cơng ty cổ phần để trở
thành cổ đông, lúc này nhà đầu tư nước ngoài sẽ trở thành thành viên Đại hội đồng
15
Đào Thị Thu Hằng, Lê Thị Hiền Hoa (2020), Sách hướng dẫn học tập môn Luật Doanh nghiệp,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.83
11
cổ đông. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của cơng ty cổ phần,
có quyền quyết định nhiều vấn đề quan trọng của công ty cổ phần, điển hình như
thơng qua định hướng phát triển của công ty; quyết định loại cổ phần và tổng số cổ
phần của từng loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hằng năm của từng
loại cổ phần; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát
viên; xem xét, xử lý vi phạm của thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên gây
thiệt hại; quyết định tổ chức lại, giải thể công ty và các quyền khác theo luật và
Điều lệ công ty.
Đại hội đồng cổ đông thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng hình
thức biểu quyết. Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông qua khi đạt tỷ lệ
tán thành trên 50% hoặc từ 65% tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp tùy
trường hợp. Việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu. Người trúng cử thành viên Hội đồng
quản trị hoặc Kiểm sốt viên được xác định theo số phiếu bầu tính từ cao xuống
thấp, bắt đầu từ ứng cử viên có số phiếu bầu cao nhất cho đến khi đủ số thành viên
quy định tại Điều lệ công ty. Việc sở hữu nhiều cổ phần sẽ giúp nhà đầu tư nước
ngoài có nhiều phiếu biểu quyết, từ đó có sức ảnh hưởng đến việc quyết định các
vấn đề quan trọng của công ty. Đặc biệt, sở hữu số phiếu biểu quyết cao nhà đầu tư
nước ngồi sẽ có khả năng lớn chi phối đến cơ cấu nhân sự của Hội đồng quản trị.
Hội đồng quản trị có quyền quyết định các vấn đề kinh doanh hằng ngày của cơng
ty. Từ đó nhà đầu tư nước ngồi có thể quản lý được hoạt động của công ty cổ phần.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngồi mua phần vốn góp từ thành viên cơng ty
trách nhiệm hữu hạn nhà đầu tư nước ngồi sẽ trở thành thành viên công ty, tham
gia vào Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất
của công ty. Hội đồng thành viên quyết định các vấn đề quan trọng của công ty như
chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm; quyết định tăng hoặc giảm
vốn điều lệ; quyết định dự án đầu tư phát triển; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch Hội đồng thành viên; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, ký và chấm
dứt hợp đồng lao động đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng,
Kiểm soát viên và người quản lý khác; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý công ty;
quyết định thành lập cơng ty con, chi nhánh, văn phịng đại diện và các quyền khác.
Hội đồng thành viên làm việc theo hình thức biểu quyết. Hội đồng thành viên
thơng qua nghị quyết, quyết định khi đạt tỷ lệ tán thành từ 65% hoặc 75% tùy
trường hợp. Sở hữu một tỷ lệ phần vốn góp lớn sẽ giúp nhà đầu tư nước ngồi có
thể chi phối được quyết định của Hội đồng thành viên. Khi đó nhà đầu tư nước
ngồi cũng có sức ảnh hưởng lớn đến các quyết định về nhân sự như đối với Giám
đốc hay Tổng giám đốc, là những người quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt
động kinh doanh hằng ngày của công ty. Điều này cho phép nhà đầu tư nước ngồi
có quyền quản lý hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn.
Vậy nên có thể nói nếu tỷ lệ sở hữu cổ phần hay phần vốn góp trong doanh
nghiệp lớn, nhà đầu tư nước ngồi có thể chi phối được các quyết định, hay thậm
chí có được quyền kiểm sốt doanh nghiệp. Lúc này nhà đầu tư nước ngồi có thể ra
quyết định tổ chức lại doanh nghiệp như chuyển đổi loại hình hay sáp nhập doanh
nghiệp.
12
Quyền lợi này của đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp cho phép nhà đầu tư
nước ngồi thực hiện các thương vụ mua lại và sáp nhập doanh nghiệp (M&A). Dựa
vào tỷ lệ cổ phần, phần vốn góp trong tổ chức kinh tế bị mua, nhà đầu tư nước ngồi
tăng sức ảnh hưởng của mình đối với tổ chức kinh tế, giành lấy quyền quản lý doanh
nghiệp. Một số trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thực hiện mua cổ phần, mua phần
vốn góp là để trở thành chủ sở duy nhất trong doanh nghiệp mà mình vốn là một trong
các chủ sở hữu, từ đó phục vụ cho xây dựng chiến lược quản trị, tối đa hóa lợi nhuận.
Một số trường khác mua cổ phần, mua phần vốn góp là cách thức để nhà đầu tư nước
ngồi từng bước thâu tóm một doanh nghiệp, mở rộng thị trường của mình.
Thứ ba, được hưởng quyền lợi như các nhà đầu tư trong nước khi tham gia
đầu tư. Xuất phát từ quyền quản lý doanh nghiệp đã được đề cập ở trên, nhà đầu tư
nước ngoài sau khi trở thành cổ đơng hoặc thành viên cơng ty có thể thực hiện các
dự án đầu tư dưới tư cách của tổ chức kinh tế mà mình sở hữu cổ phần, phần vốn
góp. Nhà đầu tư trong nước khơng phải thực hiện nhiều nghĩa vụ mà nhà đầu tư
nước ngoài phải thực hiện. Trở thành cổ đông hay thành viên của cơng ty trong
nước cho phép nhà đầu tư nước ngồi thực hiện được các dự án đầu tư với ít nghĩa
vụ phải thực hiện hơn. Đồng thời việc mua cổ phần, mua phần vốn góp trong doanh
nghiệp vốn đã có ngành nghề kinh doanh là ngành nghề mà nhà đầu tư nước ngồi
mong muốn đầu tư thì khi thực hiện dự án nhà đầu tư càng có thể tiết kiệm chi phí
đầu tư ban đầu so với việc thực hiện một dự án đầu tư mới hoàn toàn.
Đầu tư theo hình thức mua cổ phần, mua phần vốn góp mang lại cho nhà đầu
tư nước ngoài các quyền sở hữu đối với cổ phần, phần vốn góp, nhà đầu tư có thể
thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt như đối với các tài sản khác, và
ngoài ra còn mang lại đầy đủ các quyền lợi của một cổ đông hay thành viên công ty
cho nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển nhượng cổ
phần, phần vốn góp, có thể mang chúng đi thế chấp, được hưởng lợi nhuận hay cổ
tức, có quyền quản lý doanh nghiệp hay hưởng quyền lợi như nhà đầu tư trong
nước. Tùy vào mục đích đầu tư mà mỗi nhà đầu tư nước ngoài hướng tới các quyền
lợi khác nhau, trong đó hai quyền lợi đáng chú ý mà nhà đầu tư nước ngoài thường
hướng đến là hưởng lợi nhuận và mua lại, sáp nhập doanh nghiệp.
1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật điều chỉnh hoạt động mua cổ phần, mua
phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam
1.4.1. Đảm bảo quyền tự do đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một yếu tố không nhỏ làm nên mức tăng trưởng
của nền kinh tế Việt Nam. Sự phát triển của nền kinh tế có phần đóng góp quan
trọng của thương mại với các thị trường hiệp định thương mại tự do với mức tự do
hóa cao cho thương mại và đầu tư. “Các hiệp định này không chỉ mở ra các cơ hội
thương mại tiềm tàng với các nền kinh tế phát triển mà cịn góp phần quan trọng
thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, hồn thiện mơi trường thương mại và đầu
16
tư của nước ta” .
16
TS. Nguyễn Sơn, “Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững
của Việt Nam”, truy cập ngày 23/5/2021
13
“Tự do hóa đầu tư là q trình trong đó các rào cản đối với hoạt động đầu tư,
các phân biệt đối xử trong đầu tư được từng bước dỡ bỏ, các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ
dần dần được thiết lập và các yếu tố để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn của thị trường
17
được hình thành” . Ảnh hưởng của nội dung tự do hóa đầu tư trong các hiệp định
thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên đặt ra yêu cầu xây dựng chính sách đảm
bảo quyền tự do đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trong những năm qua Việt Nam đã tạo một môi trường pháp lý ngày càng
hấp dẫn và thơng thống hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo tinh thần của
Hiến pháp, mọi người đều có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
18
pháp luật không cấm , các chế định về đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp của
nhà đầu tư nước ngồi cũng được thiết kế theo tôn trọng quyền tự do này của nhà
đầu tư nước ngồi.
Nhà đầu tư nước ngồi khơng bị giới hạn ngành nghề đầu tư mua cổ phần,
mua phần vốn góp trong một số ngành nghề nhất định, tuy nhiên vẫn phải tuân thủ
quy định về các ngành nghề không được phép đầu tư hoặc được đầu tư nhưng phải
đáp ứng các điều kiện nhất định. Có thể nói điều này sẽ phần nào thu hẹp phạm vi
ngành nghề nhà đầu tư nước ngồi có thể bỏ vốn đầu tư. Tuy nhiên khơng thể khơng
đặt ra vấn đề có một số ngành nghề nhất định cần hạn chế sự tham gia của nhà đầu
tư nước ngồi. Các lĩnh vực có mối liên hệ mật thiết với an ninh quốc gia, chủ
quyền đất nước (đánh bắt hoặc khai thác hải sản; thăm dị dư luận;…), hoặc có ảnh
hướng lớn tới cuộc sống, sức khỏe con người, đạo đức công cộng (dịch vụ đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài; dịch vụ kiểm định và cấp Giấy chứng
nhận; dịch vụ giáo dục;…) cần phải có sự hạn chế tham gia đầu tư kinh doanh của
nhà đầu tư nước ngồi. Tùy tính chất từng ngành nghề mà cần không cho phép nhà
đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư hoặc cho phép đầu tư nhưng phải tuân
thủ một số điều kiện nhất định.
Quy định này không nhằm tạo ra công cụ để hạn chế vô lý quyền tự do đầu
tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài, mà nhằm đảm bảo an ninh và chủ quyền,
bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Vậy có thể nói, nhà đầu tư
nước ngồi được bảo đảm quyền tự do lựa chọn ngành nghề đầu tư trong phạm vi
không gây nguy cơ xâm phạm đến quốc gia, dân tộc Việt Nam.
Quyền tự chủ quyết định đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài cũng
được pháp luật Việt Nam tơn trọng. Khơng có quy định nào ngăn cấm hay hạn chế độc
đoán nhà đầu tư nước ngoài đưa ra các quyết định đầu tư kinh doanh nhằm mang về các
lợi ích hợp pháp. Việc quản lý vốn đầu tư, hoạt động đầu tư hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của nhà đầu tư, khơng có sự can thiệp bất hợp lý nào từ nhà nước.
Quyền tự do đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài được pháp luật Việt Nam đề cao và tôn trọng, tuy nhiên việc thực hiện quyền
tự do này phải trong khuôn khổ không xâm phạm chủ quyền, an ninh, lợi ích quốc
gia, dân tộc.
17 Đức Nhượng, “Tự do hóa đầu tư (Investment Liberalization) là gì? Nội dung và ý nghĩa”,
truy cập ngày 24/5/2021
18
Điều 33 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/11/2013
14
1.4.2. Bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngồi và nhà đầu tư trong nước trong
hoạt động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
cùng với việc chính thức trở thành thành viên, Việt Nam cũng chính thức phải thực
hiện các cam kết đã đưa ra với WTO. Và một trong những nguyên tắc nên tảng của
WTO là nguyên tắc “không phân biệt đối xử” (Non-discrimination). Theo nguyên
tắc không phân biệt đối xử nhà đầu tư nước ngoài được đối xử như nhà đầu tư trong
19
nước trong hoàn cảnh tương tự .
Cốt lõi của nguyên tắc khơng phân biệt đối xử là sự bình đẳng giữa các nhà
đầu tư, tuy nhiên không phải trường hợp nào có sự khác biệt trong đãi ngộ dành cho
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài cũng đều bị xem là vi phạm nguyên
tắc. Pháp luật WTO vẫn đưa ra các ngoại lệ về với bảo lưu rằng các nước thành viên
không tạo ra công cụ phân biệt đối xử độc đoán hay phi lý giữa các nước có cùng
điều kiện như nhau. Như vậy cần phải hiểu “không phân biệt đối xử” theo nguyên
tắc WTO là tạo ra sự môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư,
khơng hàm chứa những phân biệt đối xử bất hợp lý.
Với định hướng đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc
tế, Việt Nam ngày càng hoàn thiện khung khổ pháp lý, xóa bỏ các phân biệt đối xử
bất hợp lý đối với nhà đầu tư nước ngoài. Hầu hết các chế định pháp luật về đầu tư
của Việt Nam đều được thiết kế chung cho các chủ thể, không phân biệt nhà đầu tư
trong nước, nhà đầu tư nước ngồi.
Các hình thức đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp mà nhà đầu tư nước
ngồi có thể thực hiện để đầu tư vào Việt Nam không ít hơn các hình thức đầu tư
nhà đầu tư trong nước có quyền thực hiện. Nhà đầu tư nước ngồi được tự do lựa
chọn hình thức mua cổ phần, mua phần vốn góp trong tổ chức kinh tế như nhà đầu
tư trong nước mà không bị bất kỳ hạn chế hay áp đặt độc đoán nào gây ra bởi yếu tố
quốc tịch của mình.
Các bảo đảm đầu tư cũng được áp dụng chung cho cả nhà đầu tư trong nước
và nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được bảo đảm quyền sở hữu tài sản. Tài sản
hợp pháp của nhà đầu tư nước ngồi được bảo đảm khơng bị quốc hữu hóa hay tịch
thu bằng biện pháp hành chính, và được thanh toán, bồi thường trong trường hợp
Nhà nước trưng mua, trưng dụng. Quyền tự chủ quyết định đầu tư, bảo đảm đầu tư
trong trường hợp thay đổi pháp luật và giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt
động đầu tư kinh doanh cũng được bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngồi trên cơ sở
khơng phân biệt đối xử.
Tuy nhiên vẫn có sự khác biệt trong đối xử với nhà đầu tư nước ngoài so với
nhà đầu tư trong nước. Pháp luật Việt Nam quy định nhà đầu tư có quyền mua cổ
phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế. Tuy nhiên với nhà đầu tư nước ngồi,
khi thực hiện đầu tư theo hình thức này phải đáp ứng các điều kiện bảo đảm quốc
phòng, an ninh, các quy định của pháp luật đất đai về điều kiện nhận quyền sử dụng
19
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2002), Discrimination and Non-Discrimination
in Foreign Direct Investment: Mining Issues (Phân biệt đối xử và Không phân biệt đối xử trong Đầu tư trực
tiếp nước ngoài: Vấn đề khai thác mỏ), Paris, France, page 3: “The promotion of “non-discrimination”, the
treatment of foreign investors like domestic investors under like circumstances, is one of the fundamental
goals of any international investment regime”.
15
đất, điều kiện sử dụng đất tại đảo, xã, phường, thị trấn biên giới, xã, phường, thị trấn
ven biển và đáp ứng điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Sự khác biệt trong đối xử nhà đầu tư nước ngoài so với nhà đầu tư trong nước về
điều kiện tiếp cận thị trường thể hiện qua việc nhà đầu tư nước ngồi khơng được phép
đầu tư vào ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường và phải tuân thủ tỷ lệ sở hữu vốn
tối đa khi thực hiện mua cổ phần, mua phần vốn góp trong tổ chức kinh tế hoạt động
trong ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường. Ở góc độ kinh tế thuần túy việc đối xử
khác biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi khơng có
ý nghĩa. Bởi lẽ, trong kinh tế hiệu quả của việc sử dụng vốn mới là vấn đề đáng
20
quan tâm, không quan trọng đó là vốn của ai . Nhưng xét ở góc độ quản lý nhà
nước, những phân biệt này có ý nghĩa quan trọng.
Việc nhà đầu tư nước ngồi bị cấm hoặc bị hạn chế đầu tư trong một số lĩnh
vực nhất định cũng được quy định tại Luật Đầu tư nước ngồi của Cộng hịa nhân
dân Trung Hoa. Cụ thể, đối với các lĩnh vực mà danh mục hạn chế sự tiếp cận của
đầu tư nước ngoài (negative list for foreign investment access) quy định cấm đầu tư,
nhà đầu tư nước ngồi khơng được thực hiện đầu tư, đối với lĩnh vực mà danh mục
hạn chế sự tiếp cận của đầu tư nước ngoài quy định hạn chế đầu tư, nhà đầu tư nước
21
ngoài phải đáp ứng các yêu cầu mà danh mục hạn chế đưa ra khi thực hiện đầu tư .
Vì tính chất đặc thù có liên quan mật thiết đến an ninh, quốc phòng, cuộc
sống con người, mơi trường tự nhiên, lợi ích quốc gia, một số ngành nghề cần thiết
hạn chế đầu tư của chủ thể nước ngoài. Như đã đề cập ở mục trên sự hạn chế này
không nhằm tạo ra công cụ để hạn chế quyền tự do đầu tư kinh doanh của nhà đầu
tư nước ngoài, để giữ vững an ninh, bảo vệ chủ quyền cũng như lợi ích kinh tế, lợi
ích chính trị xã hội, lĩnh vực đầu tư của nhà đầu tư nước ngồi khơng thể tránh khỏi
phải có những hạn chế, kiểm soát nhất định. Đây là những phân biệt cần thiết, hợp
lý của mọi quốc gia có chủ quyền và được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia. nhằm
bảo vệ lợi ích đặc biệt của đất nước, bảo đảm an ninh và chủ quyền, bảo hộ hợp
pháp nền sản xuất trong nước. Những phân biệt đối xử này được giới hạn và sẽ
giảm dần theo lộ trình tại các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam
22
tham gia hoặc là thành viên .
Các nhà đầu tư nước ngoài cũng vấp phải sự đối xử khác biệt so với nhà đầu tư
trong nước do phải đáp ứng các điều kiện bảo đảm quốc phòng, an ninh, các quy định
của pháp luật đất đai về điều kiện nhận quyền sử dụng đất, điều kiện sử dụng đất tại
đảo, xã, phường, thị trấn biên giới, xã, phường, thị trấn ven biển. Các điều kiện này
được đặt ra với mục đích hợp lý là bảo vệ an ninh và chủ quyền đất nước. Về mặt
nguyên tắc việc đối xử khác biệt này không vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử
nhưng thực tế áp dụng pháp luật lại gây trở ngại lớn cho nhà đầu tư nước ngoài.
20
Quang Chung, “Vẫn phân biệt đối xử về quyền kinh doanh”,
truy cập ngày
17/5/2021
21
Điều 28, Luật Đầu tư nước ngoài 2019 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: “For fields in which the
negative list for foreign investment access provides that investment is prohibited, foreign investors must not make
investment. For fields in which the negative list for foreign investment access provides that investment is restricted,
foreign investors shall meet the requirements provided by the negative list in making investment.”
22 PGS TS Đặng Văn Thanh, “Đảm bảo bình đẳng trong hoạt động đầu tư”,
truy cập ngày 13/5/2021
16
Việc khơng có chính sách minh bạch, cơng khai khi xem xét yếu tố đảm bảo
an ninh, quốc phòng gây bối rối cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc hoạch định
chiến lược, thực hiện đầu tư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thu hút đầu tư nước
ngoài vào thị trường Việt Nam. Đồng thời điều này cũng dễ dẫn đến áp dụng pháp
luật không thống nhất, tạo môi trường cho tham nhũng và “lách luật”. Có thể thấy
đặt ra điều kiện về quốc phòng, an ninh là đúng đắn nhưng lại chưa thể công bằng
và hiệu quả khi thiếu chính sách cụ thể.
Việt Nam vẫn đảm bảo tuân thủ các cam kết WTO, không vi phạm nguyên
tắc không phân biệt đối xử. Các đối xử khác biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà
đầu tư trong nước được hoạch định trên cơ sở các ngoại lệ của nguyên tắc. Tuy
nhiên vẫn cần có các quy định cụ thể và minh bạch để vừa đảm bảo được lợi ích
quốc gia, dân tộc vừa đảm bảo hội nhập kinh tế quốc tế.
1.4.3. Các điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài
Tham gia các cam kết quốc tế, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường đối
với nhiều ngành nghề. “Nguyên tắc ''mở cửa thị trường'' hay còn gọi một cách hoa
mỹ là tiếp cận thị trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng
hố, dịch vụ và đầu tư nước ngồi. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi
tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó
23
đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa” . Theo
nguyên tắc này, Việt Nam gỡ bỏ rào cản đầu tư, cho phép nhà đầu tư nước ngoài
tiếp cận thị trường, hay nói cách khác là đầu tư vào thị trường Việt Nam. Có hai
phương thức tiếp cận về mở cửa thị trường phổ biến đó là “chọn-cho” (positive list)
và “chọn-bỏ” (negative list). Đối với cách tiếp cận “chọn-cho”, quốc gia cam kết
mở cửa ở mức độ thế nào thì nhà đầu tư nước ngoài phải chịu cách áp dụng như thế.
Còn với “chọn-bỏ”, cam kết chỉ quy định các vấn đề hạn chế đầu tư và nếu không
24
thuộc các vấn đề này thì nhà đầu tư được phép thực hiện . Điển hình cho hai
phương thức tiếp cận này có thể kể đến Biểu cam kết thương mại và dịch vụ của
Việt Nam trong WTO (Biểu cam kết WTO) và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Biểu cam kết WTO được tiếp cận theo
phương thức “chọn-cho”, quy định các ngành, nghề Việt Nam cam kết mở cửa và
mức độ mở cửa của từng ngành, nghề. Biểu cam kết của Việt Nam trong CPTPP
được tiếp cận theo phương thức “chọn-bỏ”, quy định phạm vi hoạt động không phù
hợp.
Mức độ mở cửa thị trường được thực hiện tùy theo nội dung cam kết, đối với
mở cửa hoàn toàn, nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện đầu tư kinh doanh tại thị
trường Việt Nam với các điều kiện tiếp cận thị trường mà không phải chịu các hạn chế
mà nhà đầu tư nội địa khơng phải chịu, hay nói cách khác nhà đầu tư nước ngoài sẽ
được hướng chế độ Đối xử quốc gia. Việc mở cửa thị trường hoàn toàn đối với một
ngành, nghề đồng nghĩa với sự cạnh tranh sẽ rất lớn, đòi hỏi kinh tế trong nước phải đủ
tiềm lực để cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngồi có lợi thế so sánh, nếu
23 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Tổ chức thương mại thế giới (WTO)”,
/>plomacyOrgId=125, truy cập ngày 10/6/2021
24
Phạm Quốc Tuấn, Hoàng Thanh Tuấn, “Điều kiện tiếp cận thị trường cho Nhà đầu tư nước ngoài theo
Luật Đầu tư 2020 và ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam”, hoatdong-cua-doanh-nghiep-viet-nam-n1028.html, truy cập ngày 03/6/2021
17
không nguy cơ thị trường sẽ do chủ thể nước ngoài chiếm lĩnh là rất lớn. Do vậy,
đối với các quốc gia đang phát triển việc mở cửa thị trường thường được thực hiện
theo lộ trình. Đây là một hướng đi bền vững cho các nền kinh tế vẫn chưa thật sự
mạnh mẽ, cần thời gian để phát triển kinh tế trong nước.
Là một nền kinh tế đang phát triển, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường
hoàn toàn đối với nhiều ngành, nghề. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, đối với các
ngành, nghề mà kinh tế Việt Nam chưa thật sự vững mạnh, việc mở cửa thị trường
hoàn toàn mang đến nhiều nguy cơ làm “chết yểu” các doanh nghiệp trong nước, dễ
làm nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài. Đây là một
trong những lý do cần phải đặt ra vấn đề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà
đầu tư nước ngồi.
Bên cạnh đó việc mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế vẫn có thể được
áp dụng các ngoại lệ chung như ngoại lệ liên quan đến bảo vệ đạo đức công cộng,
bảo vệ tính mạng và sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ tính mạng và sức
khỏe con người, động thực vật, bảo vệ các bảo vật quốc gia về văn hóa, lịch sử hoặc
khảo cổ…; và ngoại lệ về an ninh quốc phịng. Điều này cho phép quốc gia khơng
tiếp nhận đầu tư nước ngoài với một số ngành, nghề nhất định mà việc nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề này. Đây là nền tảng cho
các quy định về ngành nghề chưa được tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước
ngoài, cũng như tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài
trong một số ngành, nghề có khả năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia, an ninh,
quốc phòng của Việt Nam.
Tuy nhiên mục tiêu và định hướng của các cam kết vẫn là hướng đến mở cửa
hồn tồn thị trường, cắt giảm và xóa bỏ các rào cản đầu tư, hướng đến tự do hóa
thương mại khu vực và tồn cầu. Các quy định về hạn chế tiếp cận thị trường của
Việt Nam cũng phải theo xu hướng được cắt giảm dần và hướng tới xóa bỏ.
1.5. Vai trị của hoạt động mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư
nước ngồi trong doanh nghiệp Việt Nam
1.5.1. Đối với doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư
Hoạt động mua cổ phần, mua phần vốn góp trong tổ chức kinh tế Việt Nam
của nhà đầu tư nước ngồi dù là theo hình thức đầu tư gián tiếp, tỷ lệ vốn thấp,
không trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư; hay theo hình thức đầu tư trực tiếp, tỷ lệ
vốn cao và tham gia quản lý doanh nghiệp, không thể phủ nhận đều tạo nên những
thay đổi nhất định đối với tổ chức kinh tế có cổ phần, phần vốn góp mà nhà đầu tư
nước ngoài mua. Những thay đổi mà sự hiện diện của nhà đầu tư nước ngồi tạo nên
có thể chia làm hai nhóm chính.
Thứ nhất, đối với vốn và năng lực kinh doanh của tổ chức kinh tế. Trừ trường
hợp mua cổ phần từ công ty cổ phần, hoạt động đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp
của nhà đầu tư nước ngồi khơng tạo nên thay đổi về vốn đối với tổ chức kinh tế. Khi
mua cổ phần từ công ty cổ phần, do bản chất việc phát hành cổ phần của công ty cổ
phần là nhằm huy động vốn, hoạt động mua cổ phần từ công ty lúc này xem là góp vốn
vào cơng ty cổ phần. Nhà đầu tư nước ngồi có thể mua bằng nhiều loại tài sản khác
nhau nhưng kết quả chung vẫn là tăng vốn điều lệ cho công ty cổ phần. Đặc biệt, các
trường hợp mua cổ phần bằng quyền sở hữu trí tuệ, cơng nghệ, bí quyết kỹ
18
thuật mang lại ý nghĩa lớn cho doanh nghiệp. Các giá trị này mà nhà đầu tư nước
ngoài mang đến sẽ cho phép doanh nghiệp tạo ra sản phẩm có hàm lượng khoa học
cao, giảm chi phí sản xuất đồng thời kích thích tiêu dùng nhờ tính mới của sản
phẩm. Đối với mua cổ phần, mua phần vốn góp từ cổ đông hay thành viên công ty,
đây là giao dịch chuyển nhượng giữa nhà đầu tư nước ngoài và cổ đơng, thành viên
cơng ty, nhìn theo góc độ của doanh nghiệp, việc này khơng có ý nghĩa mang lại lợi
ích vật chất cho doanh nghiệp mà chỉ thay đổi cổ đông, thành viên này bằng cổ
đông, thành viên khác.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự hiện diện của nhà đầu tư nước ngồi tại
doanh nghiệp mới là hiện tượng có ý nghĩa quan trọng, dù cho tác động tăng vốn của
cơng ty hay khơng. Mua cổ phần, phần vốn góp mang đến cho nhà đầu tư nước ngoài
quyền tham gia quản lý doanh nghiệp. Việc có sự tham gia quản lý của một nhà đầu tư
sở hữu lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Nhà đầu tư nước ngoài sở hữu lợi thế cạnh tranh, họ sở hữu cơng nghệ và
trình độ quản lý cao hơn so với doanh nghiệp trong nước trong các ngành nghề lợi
thế. Việc có nhà đầu tư sở hữu lợi thế cạnh tranh là cổ đông, thành viên công ty sẽ
giúp công ty đưa ra các quyết định kinh doanh có ý nghĩa phát triển doanh nghiệp.
Nhà đầu tư nước ngồi thơng qua quyền tham gia quản lý doanh nghiệp của mình
giúp định hướng kinh doanh, vạch ra chiến lược phát triển và dùng kinh nghiệm của
mình trong lĩnh vực lợi thế để quản lý tốt hoạt động kinh doanh. Lúc này sự hiện
diện của nhà đầu tư nước ngồi có ý nghĩa như đơi cánh giúp doanh nghiệp phát
triển ngày càng lớn mạnh.
Thứ hai, về địa vị pháp lý của tổ chức kinh tế. Sự góp mặt của nhà đầu tư
nước ngoài trong doanh nghiệp sẽ tạo cho doanh nghiệp trong nước địa vị tổ chức
kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Tuy nhiên về bản chất, doanh nghiệp thành lập
theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam là doanh nghiệp Việt Nam,
tư cách tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi khơng phủ định tư cách doanh
nghiệp trong nước của tổ chức kinh tế.
Nhưng không thể phủ nhận rằng một tư cách pháp lý khác sẽ mang đến cho
doanh nghiệp các quyền và nghĩa vụ khác với trước khi có sự hiện diện của nhà đầu
tư nước ngoài. Đối với doanh nghiệp mà nhà đầu tư nước ngồi khơng lớn, ngồi
các tình huống có liên quan đến quốc phòng, an ninh, các quyền và nghĩa vụ hầu
như không khác với doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên với trường hợp nhà đầu tư
nước ngoài nắm giữa trên 50% vốn điều lệ, sự hiện diện này của nhà đầu tư nước
ngoài sẽ dẫn tới doanh nghiệp phải thực hiện một số nghĩa vụ như đối với nhà đầu
tư nước ngồi. Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trên 50% vốn điều lệ bị áp
dụng quy định về hạn chế tiếp cận thị trường, phải đáp ứng điều kiện và thực hiện
thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Trong một số trường hợp việc nhà đầu tư nước mua cổ phần, mua phần vốn góp
có thể dẫn tới sự chấm dứt tồn tại của tổ chức kinh tế. Khi nhà đầu tư nước ngoài mua
được một tỷ lệ cổ phần, phần vốn góp cao, đến mức có thể kiểm sốt được doanh
nghiệp hay thậm chí đạt tới mức trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp, khả năng sự
tồn tại của doanh nghiệp bị chấm dứt là rất lớn. Trong các thương vụ này, thơng thường
nhà đầu tư nước ngồi thực hiện mua cổ phần, mua phần vốn góp với định hướng sẵn là
tiến hành mua lại và sáp nhập (M&A). Khi đạt tới mức sở hữu vốn có
19
thể kiểm soát doanh nghiệp, với điều kiện tuân thủ quy định về kiểm soát tập trung
kinh tế, nhà đầu tư nước ngồi có thể thực hiện sáp nhập doanh nghiệp mà mình vừa
mua cổ phần, mua phần vốn góp vào một doanh nghiệp khác cũng thuộc sở hữu của
nhà đầu tư. Sự hiện diện tới mức đủ khả năng kiểm sốt này của nhà đầu tư có thể
khiến tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp chuyển
toàn bộ sang doanh nghiệp nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của mình.
Như vậy, sự có mặt của nhà đầu tư nước ngồi khơng chỉ làm phát sinh địa vị pháp
lý là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi cho doanh nghiệp mà cịn có thể làm
doanh nghiệp chấm dứt tồn tại.
Có thể thấy về mặt địa vị pháp lý, sự có mặt của nhà đầu tư nước ngồi
khơng đem đến cho doanh nghiệp thêm lợi thế, về mặt pháp lý, doanh nghiệp có nhà
đầu tư nước ngồi phải chịu nhiều sự kiểm sốt hơn hoặc cũng có thể mất đi tư cách
tồn tại độc lập của mình. Tuy nhiên lợi ích kinh tế mà nhà đầu tư đem lại cho tổ
chức kinh tế là không thể phủ nhận.
1.5.2. Đối với kinh tế - xã hội Việt Nam
Hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, mua phần vốn góp trong
doanh nghiệp trong nước đã mang đến nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế
Việt Nam. Dưới góc nhìn pháp lý có thể kể đến ba lợi ích cơ bản:
Thứ nhất, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Pháp luật về quản lý ngoại hối
trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài quy định đồng tiền định giá, thanh toán
giá trị chuyển nhượng vốn đầu tư, hay cụ thể ở đây là chuyển nhượng cổ phần, phần
vốn góp, trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giữa nhà đầu tư
nước ngoài và nhà đầu tư trong nước phải thực hiện bằng Đồng Việt Nam. Trừ
trường hợp nhà đầu tư có sẵn Đồng Việt Nam từ hoạt động đầu tư trước đó tại Việt
Nam, trong hầu hết các tình huống để đáp ứng nhu cầu sử dụng Đồng Việt Nam,
cách thức hợp pháp và phổ biến mà nhà đầu tư nước ngồi có thể áp dụng là chuyển
đổi ngoại tệ thành Đồng Việt Nam tại các ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động mua
cổ phần từ công ty cổ phần cũng thúc đẩy nhà đầu tư nước ngồi đưa dịng vốn
ngoại tệ vào Việt Nam. Ngoại tệ là một tài sản hợp pháp nhà đầu tư có thể dùng để
mua cổ phần từ cơng ty nước ngồi theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Hoạt
động của nhà đầu tư mua cổ phần, mua phần vốn góp trong tổ chức kinh tế Việt
Nam đưa dòng vốn ngoại tệ vào Việt Nam.
Tiền gửi ngoại tệ và vàng của các tổ chức tín dụng gửi tại Ngân hàng Nhà
nước là một trong các nguồn hình thành dự trữ ngoại hối nhà nước. Vốn ngoại tệ
của doanh nghiệp được gửi tại ngân hàng hoặc ngoại tệ ngân hàng sở hữu từ giao
dịch chuyển đổi ngoại tệ thành Đồng Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài mang gửi
tại Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở đó sẽ đóng góp vào dự trữ ngoại hối nhà nước.
“Dự trữ ngoại hối là một bộ đệm quan trọng giúp nên kinh tế chống đỡ lại các cú
25
sốc từ bên ngồi, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ” .
Thứ hai, góp phần quan trọng vào cơng cuộc hiện đại hóa cơng nghệ. Quyền
sở hữu trí tuệ, cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật là các loại tài sản nhà đầu tư nước ngồi
có thể dùng để mua cổ phần từ cơng ty cổ phần. Có được quyền sở hữu các tài sản
25
Nguyễn Vũ, “Dự trữ ngoại hối – nền tảng quan trọng giúp ổn định vĩ mô”,
truy cập ngày
26/5/2021
20