Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

LUẬN VĂN: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian tới pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.93 KB, 88 trang )

LUẬN VĂN:

Phương hướng và biện pháp
thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản
trong thời gian tới


Lời mở đầu

Xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố đã ảnh hưởng toàn diện đến đời sống
kinh tế xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Nhận thức rõ điều này, tại Nghị Quyết Đại Hội Đảng lần
VIII đã nhấn mạnh :"giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là
chính đi đơi với tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu qủa". Vì vậy, để đẩy
mạnh xuất khẩu thuỷ trong thời gian tới, Việt Nam đã có chủ chương xuất khẩu
những mặt hàng có lợi thế so sánh, giảm tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu thô và tăng tỷ
trọng hàng xuất khẩu tinh, đã qua chế biến.
Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù gồm nhiều lĩnh vực:
khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại,...được phát
triển dựa trên lợi thế về nguồn lợi thuỷ sản đa dạng, phong phú, điều kiện khí hậu
nhiệt đới thuận lợi. Trong những năm qua ngành đã đạt được tốc độ tăng trưởng
cao, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản. Tại Nghị Quyết Đại Hội Đảng lần
thứ 5 khoá VII đã xác định : “thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn
của nền kinh tế đất nước”. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng đều qua các năm,
đến năm 2000 đã đạt 1,4786 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là
21,87%, chiếm tỷ trọng hơn 10,23% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hố cả nước,
thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Xuất khẩu thuỷ sản đã
đóng vai trò đòn bẩy tạo động lực phát triển cho nền kinh tế, giải quyết việc làm cho


hàng triệu lao động, đặc biệt là ngư dân vùng biển, đảm bảo an ninh xã hội, đáp ứng
nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của thị trường nội địa cũng như thế giới.
Nhận thức được vai trò quan trọng của xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
trong thời gian tới cũng như trước những đòi hỏi thực tế của việc nâng cao hiệu quả
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, cùng với những kiến thức được trang bị ở nhà
trường và những tìm hiểu thực tế ở trong đợt thực tập cuối khoá tại Vụ Tổng Hợp


KTQD, Bộ Kế Hoạch- Đầu Tư, em đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu : “phuong
huong va bien phap thuc day mat hang xuat khau thuy san cua viet nam thoi
ky 2001- 2010”. Mục đích nghiên cứu của đề tài này sẽ giúp em củng cố, bổ sung
và mở rộng những kiến thức thực tế,vận dụng những lý thuyết đã học vào giải
quyết một vấn đề của thực tiễn trong đời sống kinh tế-xã hội. Phân tích, đánh giá
hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua, qua đó chỉ ra được nhữnh thành
tựu đạt được và những tồn tại cần khắc phục. Từ đó tìm ra những phương hướng và
biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian tới.
Phương hướng nghiên cứu sử dụng trong luận văn này là các biện pháp biện
chứng, Mác xít, phương pháp hệ thống, phân tích thống kê, phân tích kinh tế-xã hội
và phương pháp so sánh để nghiên cứu.
Kết cấu của chuyên đề như sau : ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận,
phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu của đề tài còn gồm có 3 chương
như sau :
Chương I

: Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu thuỷ sản .

Chương II

: Phân tích thị trường thuỷ sản thế giới và thực trạng xuất


khẩu thuỷ sản của Việt Nam (giai đoạn 1991-2000).
Chương III : Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản
trong thời gian tới.
Đây là một đề tài rộng, do trình độ, thời gian, kinh nghiệm bản thân cịn hạn
chế và nguồn tài liệu thơng tin cịn hạn hẹp, chun đề này khơng tránh được những
khiếm khuyết. Vì vậy, kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo, bạn
bè và tất cả những ai quan tâm đến đề tài này.


Chương I
Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu thuỷ sản
trong nền kinh tế thị trường

I. Khái quát về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
1. Cơ sở khoa học của Thương mại Quốc tế và hoạt động xuất khẩu
1.1. Lý thuyết Trọng thương về Thương mại quốc tế
Học thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng lượng
tài sản mà quốc gia đó cất giữ, thường được tính bằng vàng. Nước nào xuất siêu
được nhiều hơn thì nước đó có lợi nhiều hơn.
Trường phái này ủng hộ sự kiểm sốt chặt chẽ của Chính phủ về các hoạt
động kinh tế và tăng cường chủ nghĩa dân tộc về kinh tế vì họ tin rằng một quốc gia
có thể thu được từ thương mại chỉ khi chiếm đoạt được từ nước khác.
Học thuyết này chưa giải thích các bản chất bên trong của các hiện tượng
kinh tế.
1.2.. Học thuyết " Lợi thế tuyệt đối " của Adam Smith
Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế cổ điển người Anh.Trong tác phẩm
"Sự giàu có của các quốc gia”-1776- ơng bày tỏ sự nghi ngờ về giả thuyết của
Trường phái Trọng thương cho rằng sự giàu có của các quốc gia chỉ phụ thuộc vào
số vàng tích trữ. Ơng lập luận rằng: hai quốc gia có thể thu được lợi ích từ thương
mại dựa trên lợi thế tuyệt đối, nghĩa là mỗi quốc gia nên chun mơn hố sản xuất

và xuất khẩu những hàng hố mà mình có lợi thế tuyệt đối hơn và nhập khẩu những
hàng hố mà mình kém lợi thế. Tóm lại, Adam Smith ủng hộ tự do hoá thương mại.
Lợi thế tuyệt đối, tuy vậy, chỉ giải thích được một phần nhỏ thương mại hiện
tại, như thương mại giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Hầu hết,
thương mại thế giới, đặt biệt là thương mại giữa các nước phát triển với nhau,
không thể giải thích được bằng học thuyết về lợi thế tuyệt đối. Vấn đề này được giải
quyết bởi nhà kinh tế học David Ricardo qua học thuyết về lợi thế so sánh phân tích
một cách thực tế cơ sở và thặng dư từ thương mại. Lợi thế tuyệt đối được xem xét
như trường hợp đặc biệt của học thuyết chung về lợi thế so sánh.


1.3. Học thuyết " Lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh" của David-Ricardo
David Ricardo (1772-1823) là nhà duy vật, nhà kinh tế học người Anh. Ông
được Các Mác đánh giá là người “đạt đến đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị cổ
điển”. Năm 1817, Ricardo xuất bản cuốn sách “những nguyên tắc của kinh tế chính
trị và thuế”, trong đó ơng trình bày quy luật về lợi thế so sánh.
Theo quy luật về lợi thế so sánh, thậm chí một quốc gia sản xuất cả hai hàng
hố đều có chi phí tuyệt đối cao hơn quốc gia kia vẫn có thể thu được lợi ích từ
thương mại. Quốc gia đó sẽ tập trung sản xuất và xuất khẩu những hàng hố chi phí
so sánh ít hơn, nhập khẩu những hàng hố có chi phí so sánh nhiều hơn. Các quốc
gia sẽ có lợi ích thương mại nếu quốc gia đó chun mơn hố vào sản xuất các hàng
hố mà việc sản xuất hàng hố đó có chi phí tương đối thấp hơn các nước khác.
Tóm lại, phát triển Thương mại Quốc tế có lợi cho tất cả các quốc gia tham gia vào
q trình phân cơng lao động quốc tế.
Tuy nhiên, học thuyết của David Ricardo còn có nhiều hạn chế như : các
phân tích của ơng chưa đề cập tới chi phí vận tải, hàng rào mậu dịch ngày càng
tăng. Lý thuyết của Ricardo không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi
của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên khơng giải thích triệt để
ngun nhân sâu xa của q trình Thương mại Quốc tế.
Kết luận: Thương mại Quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên

và xã hội giữa các quốc gia. Chính sự khác nhau nên đều có lợi là mỗi nước chun
mơn hóa sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất
khẩu hàng hố của mình, để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác từ nước
ngoài. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những mặt hàng nào mà
nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế, từ đó chun mơn hố vào
sản xuất để xuất khẩu.
2. Vai trị của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu
thơng hàng hố của một q trình tái sản xuất hàng hố mở rộng, nhằm mục đích
liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó khơng chỉ
diễn ra giữa các cá thể riêng biệt, mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế


với sự điều hành của Nhà nước. Xuất khẩu hàng hố là hoạt động kinh doanh bn
bán trên phạm vi quốc tế.
Xuất khẩu hàng hố có vai trị to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc
rất lớn vào lĩnh vực hoạt động xuất khẩu. Thơng qua xuất khẩu có thể làm gia tăng
ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh tốn, tăng thu cho ngân sách, kích thích
đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao
mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta,
những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố
thiếu hụt như vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu
về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của
nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên
thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn
khoảng cách với nước giàu.
Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trị
quan trọng, thể hiện :

2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất,
phục vụ cơng nghiệp hố đất nước
Cơng nghiệp hố đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để thực hiện
đường lối cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước trước mắt chúng ta cần phải nhập
khẩu một số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại từ bên ngoài, nhằm trang bị cho
nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: đi
vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu . Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả,
cịn viện trợ và đầu tư nước ngồi thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ
thuộc vào nước ngồi. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là
xuất khẩu. Thực tế là nước nào gia tăngđược xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng
tăng theo. Ngược lại , nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm cho thâm hụt cán cân
thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc dân.


2.2. Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vơ cùng mạnh
mẽ. Đó là thành quả của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong q trình cơng nghiệp hố phù hợp với xu hướng phát
triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn, khi phát triển xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành
sản xuất nguyên vật liệu như bông, đay, ... Sự phát triển ngành chế biến thực phẩm
xuất khẩu (gạo, cà phê...) có thể kéo theo của ngành cơng nghiệp chế tạo thiết bị
phục vụ nó.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất
phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.

2.3. Xuất khẩu có vai trị tích cực đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh trên phạm vi thị trường thế
giới, một thị trường mà sự cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt. Sự tồn tại và
phát triển hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả; do đó phụ
thuộc rất lớn vào kỹ thuật cơng nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh
nghiệp sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn cải tiến thiết bị, máy móc
nhằm nâng cao chất lượng sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh quyết liệt còn đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao tay nghề, trình
độ cho người lao động.
2.4.Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết cơng ăn việc làm và cải
thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết
thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã
thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp, tăng giá trị
ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân.


Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng thiết yếu,
phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước,
nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế..., xuất khẩu và
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải
quốc tế.... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo
tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói xuất khẩu khơng chỉ đóng vai trị chất xúc tác hỗ trợ phát triển
kinh tế, mà nó cịn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp
tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như : vốn, lao

động, kỹ thuật, nguồn tiêu thụ thị trường... Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất
khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại,
được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công
nghiệp hố đất nước, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công
nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế
giới. Kinh nghiệm cho thấy bất cứ một nước nào và trong một thời kỳ nào đẩy mạnh
xuất khẩu thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại, thơng qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội
bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và
cơ hội của đất nước. Nước ta đã thực hiện chính sách mở cửa giao lưu kinh tế với
nước ngoài, thúc đẩy xuất khẩu và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Việt Nam
đã từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.
II. Xuất khẩu thuỷ sản và vai trị của nó trong hệ thống các

mặt hàng xuất

khẩu chủ lực của Việt Nam
Trong nền kinh tế quốc dân, thuỷ sản là một trong những ngành có nhiều khả
năng và tiềm năng huy động để phát triển, có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao vào
những năm tới và tiến kịp các nước trong khu vực nếu có các chính sách phù hợp và
được đầu thoả đáng. Thuỷ sản từ lâu đã được coi là ngành hàng thiết yếu và được


ưa chuộng ở nhiều nước trên thế giới. Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện
tự nhiên ưu đãi, giúp thuận lợi cho việc khai thác hải sản và nuôi trồng thuỷ sản.
Thuỷ sản là một ngành sản xuất hàng hố có giá trị kinh tế cao, đã thu hút
trên 3,4 triệu lao động, cung cấp khoảng 40% đạm động vật cho đời sống xã hội và
là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Sản phẩm thuỷ sản
ln có nhu cầu cao trên thị trường trong nước và nước ngồi, ln chiếm tỷ trọng
đáng kể trong nền kinh tế quốc dân. Theo số liệu điều tra hàng năm, có thể khai thác

được từ 1,0-1,3 triệu tấn thuỷ sản các loại mà không ảnh hưởng đến tiềm năng
nguồn lợi thuỷ sản, trong đó cơng suất đánh bắt những loại hải sản có giá trị kinh tế
cao trên thị trường thế giới như tôm, mực, cá...Tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ
sản cũng rất lớn, có khoảng 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, trong đó có gần 30 vạn ha
bãi biển, gần 40 vạn ha hồ chứa, sơng, suối.... Ngồi ra, có hơn 80.000 ha eo, vùng
vịnh, đầm phá tự nhiên có thể sử dụng vào ni trồng thuỷ sản.Tóm lại, tiềm năng
nguồn lợi về thuỷ sản rất lớn của Việt Nam đã góp phần làm tăng nhanh nguồn
nguyên liệu cung cấp cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Những năm qua là giai đoạn tăng trưởng liên tục của ngành thuỷ sản trên mọi
mặt, từ khâu tạo nguyên liệu đến tiêu thụ. Tổng sản lượng hải sản khai thác trong 10
năm gần đây tăng liên tục (khoảng 6,6%/năm). riêng giai đoạn 1991-1995 tăng với
tốc độ 7,5%/năm; giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 9%/ năm. Năm 2000 tổng
sản lượng khai thác hải sản đạt 1.280.590 tấn. Trong đó mức tăng trưởng bình qn
hàng năm của sản lượng thuỷ sản xuất khẩu là 17,8%. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ
sản tăng liên tục tăng, năm 1990 mới đạt 205 triệu USD, thì đến năm 1999 đạt 971
triệu USD và năm 2000 đạt 1478,6 triệu USD. Tốc độ tăng trong 10 năm qua
(1990-2000) là 6,84 lần.
Từ những năm đầu của thập kỷ 80, với việc thử nghiệm cơ chế mở theo tinh
thần đổi mới, thực hiện “cơ chế tự trang trải”, cùng với sự đóng góp ngày càng tích
cực của khoa học kỹ thuật và cơng nghệ trong công nghiệp chế biến, nên đến nay
từ một lĩnh vực còn yếu về vật chất kỹ thuật, ngành thuỷ sản đã vươn lên đóng góp
ngày càng tích cực vào quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đa dạng hoá sản
phẩm xuất khẩu và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu thuỷ sản. Hiện nay, sản phẩm


thuỷ sản xuất khẩu của ta đã có mặt ở hơn 60 nước trên thế giới với những sản
phẩm đã có uy tín trên một số thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ...
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Chỉ tiêu


Năm 1999

Năm 2000

9236

11423

1. Lạc nhân

33

41

2. Cao su

147

166

3. Cà phê

585

501

4. Chè

45


70

5.Gạo

1025

668

6.Hạt điều

110

167

7.Hạt tiêu

137

147

8. Rau quả

105

214

9. Thuỷ sản

971


1478,6

10.Hàng dệt may

1747

1892

11. Hàng giày dép

1392

1465

12. Hàng thủ công mỹ nghệ

168

237

13. Hàng linh kiện điện tử

585

783

14. Dầu thô

96


94

15. Than đá

2091

3501

10,5

12,9

I.Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực (Tr.USD):

II. Tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu
các mặt khẩu xuất khẩu chủ lực (%)

Nguồn : Vụ Tổng hợp KTQD, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Nếu như năm 1991, Việt Nam chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu có giá trị kim
ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD (là dầu thô, thuỷ sản, gạo và hàng dệt may) thì
đến nay đã có thêm 11 mặt hàng nữa là: cà phê, cao su, lạc nhân, chè, hạt điều, hạt
tiêu, giày dép, than đá, hàng linh kiện điện tử , hàng thủ công mỹ nghệ và hàng rau
quả. Trong đó 4 mặt hàng có giá trị trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, dầu thô , hàng dệt
may và giày dép. Năm 2000, ngành thuỷ sản đã đạt được thành tựu đáng kể, kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đạt 1,4786 tỷ USD (chỉ sau dầu thô là 3,501 tỷ


USD và dệt may 1,892 tỷ USD) vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đặt ra là 179 triệu
USD (kế hoạch năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là 1,3 tỷ USD).

Mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản cũng chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng
kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam : năm 1999 chỉ
chiếm 10,5 % đến năm 2000 tăng lên là 12,9%. Mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản đã trở
thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Từ vị trí xếp thứ
5 vào năm 1999 (sau: dầu thô, dệt may, giày dép và gạo) thì đến năm 2000 nó đã
vươn lên xếp thứ 3( chỉ sau: dầu thơ và dệt may).
Tóm lại, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng liên tục với tốc độ hàng năm đã
thực sự đóng góp tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng và kim
ngạch xuất khẩu cả nước nói chung.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản ở Việt nam
Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản đều chịu sự chi phối bởi các nhân tố
bên trong lẫn nhân tố bên ngoài nước. Các nhân tố này thương xuyên biến đổi vì
vậy đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải nắm bắt và phân tích được
ảnh hưởng của từng nhân tố tới hoạt động xuất khẩu.
1. Môi trường quốc tế
Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến xu hướng phát
triển thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng là xu thế tồn cầu
hố, khu vực hố. Việt Nam đã tham gia các tổ chức: ASEAN, AFTA, APEC…,
điều này cho thấy Việt Nam đã bước đầu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nước ta. Trong thời gian qua ngành
thuỷ sản đạt được kim ngạch xuất khẩu là 1,4786 tỷ USD, do một phần có sự đóng
góp của việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút được nhiều nhà đâù tư nước
ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức như : khi gia nhập AFTA để
hưởng được ưu đãi thuế quan CEPT, Việt Nam cần phải tăng cường sản xuất hàng
xuất khẩu chế biến thay vì hàng xuất khẩu thơ. Thị trường EU và Mỹ cũng đặt ra
các điều kiện cho Việt Nam như HACCP (điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm).
Thị trường thuỷ sản thế giới trong những năm gần đây có nhiều biến động xu
hướng hiện nay của người tiêu dùng là giảm tiêu thụ thịt tăng tiêu thụ thuỷ sản, và
nhu cầu của thế giới về thuỷ sản lại tăng khá ổn định. Năm 1985, xuất khẩu thuỷ



sản thế giới đạt 17,2 tỷ USD, tới năm 1997 đạt 107,6 USD tăng bình quân trên 13%.
Giá thuỷ sản cũng tăng khá hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu
thuỷ sản, giá tăng xấp xỉ 6% trong khi nhu cầu trên tồn thế giới khơng giảm. Như
vậy, diễn biến nhu cầu và giá thuỷ sản trên thế giới cho thấy tiềm năng phát triển
thuận lợi cho Việt Nam trong việc xuất khẩu thuỷ sản.
Khu vực Châu á là thị trường có nhu cầu rất lớn về thuỷ sản, đặc biệt là thị
trường Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông. Đây là thị trường tiềm năng to lớn về
thuỷ sản cho những nước xuất khẩu thuỷ sản. Nhật Bản là nước tiêu thụ thuỷ sản
lớn trên thế giới, do đó là nước thống sối thị trường nhập khẩu thuỷ sản thế giới.
Các nước Châu á, trong đó có Việt Nam, là những nước cung cấp thuỷ sản chủ yếu
cho thị trường này.
Thị trường Mỹ và EU cũng là các thị trường tiêu thụ lớn thuỷ sản nhưng
đây là các thị trường đòi hỏi cao về chất lượng thuỷ sản và an toàn vệ sinh thực
phẩm. Mỹ là thị trường rộng lớn và khá thống nhất về thị hiếu tiêu dùng thuỷ sản so
với thị trường EU, nhưng hàng rào thuế quan lại khắt khe hơn. Đối với Việt Nam,
thị trường này đã có cải thiện đáng kể trong việc nhập khẩu tôm,cá ngừ và nhuyễn
thể hai mảnh vỏ... đặc biệt là khi EU công nhận Việt Nam được xuất khẩu thuỷ sản
và nhuyễn thể hai mảnh vỏ vào thị trường này.
2.Mơi trường văn hố xã hội
Mơi trường văn hoá xã hội được coi là một tổ hợp phức tạp gồm nhiều kiến
thức, tín ngưỡng, luật pháp, nghệ thuật, lý luận và tất cả những thói quen khác mà
con người đã thu nhận được vì là thành viên của xã hội. Vùng ảnh hưởng của một
nền văn hố có thể trải ra nhiều nước hoặc nhiều vùng.
Thị trường được xây dựng trước hết bởi khách hàng. Khách hàng và hành vi
ứng xử của họ trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào mơi trường văn hố xã hội (từ
cách sống, cách chi tiêu, lựa chọn sản phẩm...), cũng như các đối thủ cạnh tranh và
cách sử dụng của họ chịu ảnh hưỡng của mơi trường văn hố mà ho hoạt động.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản, do
khách hàng của họ là có quốc tịch khác nhau và do nền văn hố có đặc trưng riêng,

do vậy nhu cầu thị hiếu, thói quen , tập quán tiêu dùng ở các nước là khác nhau. Vì
vậy, Việt Nam muốn xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường nào thì phải nghiên cứu các


tham số như: dân số, thu nhập, phân phối thu nhập, tình hình chính trị, chính sách
thương mại...
3. Mơi trường kinh tế và công nghệ
Hiện nay, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Đảng và Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế và
mở cửa ra bên ngồi, tự do bn bán, kinh doanh xuất nhập khẩu theo khuôn khổ
pháp luật cho phép các doanh nghiệp tự giải quyết mọi vấn đề của mình cịn Nhà
nước chỉ đóng vai trị quản lý, định hướng. Điều này tạo cho doanh nghiệp quyền
chủ động sáng tạo nhiều hơn và kinh doanh có hiệu quả hơn.
Yếu tố tỷ giá là yếu tố tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến tới hiệu quả của
thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Tỷ giá hối đối
tăng sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Yếu tố lạm phát và khả năng
kiểm soát lạm phát của Chính phủ khơng chỉ là những nhân tố làm nảy sinh các vấn
đề xã hội mà còn tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu.
Thành công của ngành thuỷ sản bắt đầu từ đổi mới cơ chế đầu tư từ bao cấp
sang cơ chế tự cân đối, tự trang trải, lấy nguồn thu trong xuất khẩu thuỷ sản để đầu
tư lại cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành, gắn việc đầu tư với việc áp dụng cơng
nghệ mới, sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy việc tăng cường đầu tư của ngành
sẽ tạo động lực để phát triển ngành, thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản phát triển. Tình
hình đầu tư có tác động rất lớn đến ngành thuỷ sản xuất khẩu và chủ yếu tập trung
vào một số khâu như : khai thác hải sản, nuôi trồng thuỷ sản, đầu tư cho cơ sở hậu
cần dịch vụ nghề cá và cho nghiên cứu các loại giống mới,..., từ đó tạo nguồn
nguyên liệu đầu vào chất lượng tốt cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Bên cạnh đó,
tình hình đầu tư cịn tác động mạnh mẽ tới việc trang bị các thiết bị, máy móc, công
nghệ chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, nâng dần chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm hàng thuỷ sản xuất khẩu, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đòi hỏi của thế

giới và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam.
Khả năng cạnh tranh của thuỷ sản xuất khẩu là nhân tố quan trọng quyết định
tới sự phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Nếu sản phẩm có sức
cạnh tranh càng cao thì càng dễ được thị trường chấp nhận, cũng có nghĩa là ngành
thuỷ sản có triển vọng mở rộng và phát triển. Mà một trong những nhân tố tác động


trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu là công nghệ
chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Khoa học công nghệ tiên tiến tác động mạnh đến
ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam, chuyển sản phẩm xuất
khẩu thuỷ sản từ sản phẩm chế biến thô, sơ chế là chủ yếu sang những sản phẩm
được chế biến sâu, tinh chế.
4. Môi trường chính trị và luật pháp
Đây cũng là một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc mở rộng
hay kìm hãm sự phát triển, cũng như việc khai thác các cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản.
Nước ta có mơi trường chính trị ổn định, tạo điều kiện cho các đối tác của
doanh nghiệp tuân theo khn khổ pháp luật. Với chính sách đối ngoại: đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại
với trên 100 nước, trong vòng hơn 10 năm dã ký trên 60 Hiệp định thương mại với
các nước, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường.
Các luật điều chỉnh các quan hệ trong thương mại quốc tế, tạo hành lang
pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động.Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ
sản vừa phải tuân theo các thông lệ quốc tế, và luật của các nước nhập khẩu thuỷ
sản của Việt Nam, vừa phải tuân theo luật pháp trong nước. Tuy nhiên, luật pháp
nước ta chưa hoàn chỉnh, cụ thể, chi tiết; đang tiếp tục xây dựng và hồn thiện Luật
Thuỷ Sản. Hơn nữa, các chính sách, quy định ...đối với hoạt động xuất nhập khẩu
liên tục thay đổi, thêm vào đó đã có những cải cách tích cực nhưng thủ tục hành
chính vẫn cịn rườm rà, quan liêu, mất nhiều cơ hội kinh doanh của các doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, Nhà nước đã và đang thực hiện các biện

pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là từ khi ra đời Nghị Định 57/1998
NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính Phủ và các văn bản hướng đẫn thi hành quyền tự
do kinh doanh tất cả những gì mà luật pháp khơng cấm, tạo ra một môi trường kinh
doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Ngày 25/12/1998, Thủ tướng
Chính phủ đã ra quyết định số 251/1998/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình
phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005” đã tạo lực đẩy quan trọng cho việc
phát triển của ngành thuỷ sản xuất khẩu.


Như vậy, để thúc đẩy xuất khẩu thì nhà nước có vai trị rất lớn trong việc ổn
định chính trị, tạo sự ổn định cho các doanh nhiệp kinh doanh xuất khẩu yên tâm
sản xuất, thu hút đầu tư của nước ngồi nhằm nâng cao trình độ cơng nghệ trong
nước, ban hành các văn bản pháp luật và dưới luật nhằm giúp các doanh nghiệp
hoạt động theo đúng pháp luật.
5. Môi trường địa lý và cơ sở hậu cần nghề cá
Nước ta có bờ biển dài và điều kiện khí hậu thuận lợi, vùng biển có khả năng
tái tạo sinh học cao của vùng thái nhiệt đới, môi trường biển tương đối sạch, nguồn
lợi ven biển có khả năng phụ hồi nhanh,nguồn lợi khai thác xa bờ cịn có thể khai
thác thêm 300-400 nghìn tấn mỗi năm. Mặt khác, do mức độ cơng nghiệp cịn chưa
cao nên bờ biển Việt Nam chưa bị ơ nhiễm. Vì vậy, nguồn lợi hải sản Việt Nam
được đánh giá là là hợp vệ sinh và tốt cho sức khoẻ, điều này tạo điều kiện cho việc
khai thác và kinh doanh hải sản.
Khí hậu nhiệt đới, các loài động thực vật phong phú và đa dạng, diện tích
ni trồng ngày càng được mở rộng, cơng nghệ sản xuất giống và thức ăn ngày
càng được cải thiện, các hình thức ni quảng canh, thâm canh ...đã tạo thuận lợi
cho việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản. Tuy nhiên, chúng ta chưa có các vùng
ni quy mô lớn, nuôi công nghiệp hay nuôi quảng canh cải tiến để tạo ra sản lượng
thuỷ sản lớn, ổn định.
Cơ sở vật chất, hậu cần nghề cá ngày càng được nâng cấp : đội tàu thuyền
đánh bắt hải sản dần được nâng cấp và tăng công suất, các cơ sở bến cảng cá đang

được nâng cấp, hoàn thiện và đưa vào sử dụng,... đã tạo điều kiện cho việc đánh bắt
và khai thác hải sản.
IV. Kinh nghiệm xuất khẩu thuỷ sản của một số các quốc gia trên thế giới
1. Thái Lan
Trong hơn 10 năm qua, ngành thuỷ sản Thái Lan tăng trưởng mạnh mẽ, nhất là
xuất khẩua thuỷ sản. Giá trị xuất khẩu tăng từ 2,3 tỷ USD năm 1990
lên 4,2 tỷ USD năm 1998. Riêng năm 1995, Thái Lan còn là nước xuất khẩu thuỷ
sản và sản xuất tôm sú nuôi lớn nhất thế giới .


Bảng 2: Xuất khẩu thuỷ sản Thái Lan 1990 -1998
Năm

Sản lượng ( nghìn tấn )

Giá trị ( tỷ USD)

1990

1000

2,3

1991

1030

3,01

1992


1131

3,1

1993

1115

3,5

1994

1215

4,2

1995

1193

4,5

1996

1118

4,2

1997


1280

5

1998

1380

4,2

Nguồn :Tạp chí Thương mại Thuỷ sản 4/2000- Bộ Thuỷ Sản
Có được những thành công như vậy, trước hết phải kể đến những đặc điểm
tự nhiên thuận lợi của nước này như bờ biển dài, tiếp giáp cả Thái Bình Dương và
biển Andaman, khí hậu ơn hồ; ngư dân giàu kiến thức và kinh nghiệm sản xuất
thuỷ sản. Nhưng để đạt được thành cơng đó, là sự hợp tác tồn diện giữa Chính phủ
và khu vực tư nhân trong ngành thuỷ sản Thái Lan, thể hiện ở những điểm sau :
- Cục nghề cá Thái Lan đã thành lập phịng kiểm sốt chất lượng và thanh tra
thuỷ sản để thống nhất quản lý chất lượng thuỷ sản và vấn đề cấp chứng chỉ cho tất
cả các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Cục nghề cá là đơn vị duy nhất đủ thẩm quyền
cấp giấy phép xuất khẩu thuỷ sản Thái Lan sang các nước EU, cam kết bảo đảm tất
cả các cơ sở sản xuất thủy sản và các sản phẩm theo đúng quy định của EU và các
chỉ thị có liên quan khác.
- Vấn đề thực hiện chương trình kiểm sốt chất lượng theo HACCP. Thái
Lan là một trong số ít các nước trên thế giới bắt buộc áp dụng HACCP trong các cơ
sở chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Nhiều nhà máy chế biến hàng đầu không chỉ tuân
thủ hệ thống HACCP mà còn phấn đấu đạt chứng nhận chất lượng ISO 9000 nhằm
cải thiện hình ảnh và vị trí của doanh nghiệp trong kinh doanh.
- Chương trình hỡ trợ của chính phủ. Để đảm bảo sản xuất, ni trồng có
chất lượng cao, đảm bảo tính an tồn và phát triển bền vững, Cục nghề cá đã và

đang thực hiện nhiều biện pháp kiểm sốt và giám sát nghề ni, chú trọng đặc biệt


đến phịng ngừa dư lượng thuốc và hố chất cũng như khả năng nhiễm vi sinh, ngăn
chặn ô nhiễm môi trường và duy trì chất lượng nước ở các vùng nuôi thuỷ sản như
đăng ký trại nuôi, thanh tra và giám sát trại, đăng ký nhà máy sản xuất thức ăn cho
ni trồng thuỷ sản, quản lý sử dụng hố chất...
Tuy nhiên, Thái Lan hiện cũng đang phải giải quyết nhiều vấn đề trong phát
triển ngành thuỷ sản. Về khai thác, do chưa quản lý chặt chẽ và hướng dẫn cụ thể,
từ năm 1982 đến 1996, sản lượng khai thác giảm dần, bắt đầu có hiện tượng lạm
thác vì ngư dân chủ yếu khai thác bằng lưới kéo hoặc lưới rê khiến nhiều loại thuỷ
sản không thể phát triển được. Về sản xuất, do phát triển quá nhanh, vấn đề ô nhiễm
môi trường, dịch bệnh và lạm dụng thuốc đã xảy ra nhiều nơi, khiến sản lượng nuôi
trồng và diện tích ni trồng thuỷ sản giảm mạnh.
2. ấn Độ
ấn Độ là nước đứng thứ 7 trên thế giới về sản lượng thuỷ sản và là một trong
những nước xuất khẩu chính hàng thuỷ sản thế giới. Ngành thuỷ sản chiếm khoảng
3,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, là ngành lớn thứ 4 về đống góp ngoại tệ cho đất
nước, tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 6 triệu ngư dân và hàng triệu người trong
ngành công nghiệp thực phẩm thuỷ sản và các ngành truyền thống khác. Xuất khẩu
thuỷ sản ấn Độ tăng đáng kể trong 10 năm qua từ 97.179 tấn năm 1987-1988 lên
hơn 378.000 tấn năm 1996-1997, tăng 289%. Về giá xuất khẩu tăng từ 5,132 tỷ rupi
năm 1987-1988 lên 41,21 tỷ rupi năm 1996-1997, tăng 676%. Thành công đó của
ngành thuỷ sản phải kể tới sự tham gia của cơ quan quản lý phát triển xuất khẩu
thuỷ sản (MPEDA)- được chính phủ ấn Độ thành lập từ năm 1972 nhằm quản lý và
giám sát cả lĩnh vực trong ngành thuỷ sản, các tiêu chuẩn xuất khẩu, chế biến, mở
rộng thị trường và đào tạo.
Trước hết, về quản lý và chất lượng, Chính phủ ấn Độ đã ban hành một số
văn bản pháp lý để đảm bảo quản lý chất lượng và đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc đối
với một số loại thuỷ sản và sản phẩm thuỷ sản, quản lý kế hoạch kiểm tra trước khi

giao hàng, thành lập hội đồng thanh tra xuất khẩu từ những năm 1963. Hơn nữa, các
công ty ngay từ đầu cũng tự xác định và đề ra chính sách chất lượng cho mình. hầu
hết các Cơng ty ngay từ đầu cũng tự xác định và đề ra chính sách chất lượng cho
mình.


Hơn nữa, MPEDA từ khi được thành lập đã giúp cho ngành thuỷ sản tìm
hiểu thị trường, xúc tiến xuất khẩu, tìm hiểu các u cầu về bn bán và nhập các
mặt hàng thiết yếu của các nước. Cụ thể MPEDA đã thành lập hai văn phòng xúc
tiến thương mại ở nước ngoài : ở Tokyo năm 1978 và ở New York năm 1983. Các
văn phòng liên lạc chặt chẽ với các quan chức sứ quán ấn Độ, duy trì các mối quan
hệ cộng đồng ở các nước sở tại để cải thiện hình ảnh hàng thuỷ sản ấn Độ. Ngồi
ra, MPEDA cịn tiến hành một số chương trình hỗ trợ tài chính, khuyến khích, hỗ
trợ các nhà chế biến và xuất khẩu các mặt hàng theo định hướng xuất khẩu, đảm
bảo tiêu chuẩn chất lượng, phục vụ thị trường quốc tế; đưa ra các chương trình đào
tạo về ni, chế biến, bảo quản thuỷ sản một cách vệ sinh và nhiều vấn đề quan
trọng khác.
Tuy xuất khẩu khá phát triển ngành thuỷ sản ấn Độ cũng có một số yếu điểm
cần khắc phục:
Thứ nhất : sản lượng thuỷ sản chủ yếu dựa vào nghề đánh bắt. Nguồn lợi
ven bờ bị khai thác quá mức trong khi nguồn lực xa bờ đang chờ để khai thác. Vì
vậy, mục tiêu chính trong kế hoạch 5 năm lần thứ 8 nhằm vào phát triển khai thác
đại dương và nuôi trồng ven bờ.
Thứ hai : do thiếu kinh nghiệm phân tích các mối ngay và thiếu dữ liệu về
dịch tễ học, thông tin về kỹ thuật chế biến thực phẩm trong việc áp dụng HACCP,
việc áp dụng HACCP thiếu hiệu quả. Năm 1997, nhiều nước thành viên EU phát
hiện trong sản phẩm thuỷ sản ấn Độ nhập khẩu có Salmonella và Vibrio. Tháng 6
năm đó các thanh tra EU đã đi thăm ấn Độ và đến tháng 7, EU đã đưa ra quyết định
cấm nhập hàng thuỷ sản ấn Độ. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực của mình đặc biệt là
của MPEDA, tháng 12/1997, EU đã dỡ bỏ lệnh cấm với hàng thuỷ sản ấn Độ. Đây

không chỉ là bài học cho riêng ấn Độ mà cả cho các nước đang phát triển xuất khẩu
thuỷ sản như Việt Nam.
3. Trung Quốc
Từ đầu năm 1990 trở lại đây, Trung Quốc đã trở thành một trong các nước
xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thể giới với giá trị khoảng 3 tỷ USD và sản lượng thuỷ
sản vào loại cao nhất thế giới, khoảng 25-30 triệu tấn mỗi năm. Trung Quốc có
nhiều đặc điểm thuận lợi phát triển thuỷ sản như bờ biển dài và rộng, khí hậu khá


thuận lợi và nhân công Trung Quốc cần cù, chăm chỉ và giá lại rẻ- ưu điểm chính
của Trung Quốc so với các nước khác trên thế giới nhưng trên hết, ngành thuỷ sản
phát triển là nhờ Chính Phủ Trung Quốc đã có những quy định luật pháp rất chặt
chẽ, hợp lý.
Về nuôi trồng thuỷ sản phát triển theo định hướng và quy hoạch tổng thể,
không phát triển tự phát. Phát triển thuỷ sản phải đi đôi với việc bảo vệ mơi trường
sinh thái. Chính Phủ Trung Quốc quy định rõ chỉ có chính quyền từ cấp huyện mới
được cấp giấy sử dụng mặt nước nhưng hiện chính quyền đang uỷ quyền cho Cục
thuỷ sản các tỉnh, thành phố kiểm tra và cấp phép sử dụng (riêng mặt nước biển,
sông hồ lớn do nhà nước quản lý, còn lại do tập thể quy định). Chính phủ cịn miễn
thuế 1-13 năm cho các mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, người dân chỉ phải nộp phí sử
dụng mặt nước tuỳ theo vùng nước và đối tượng nuôi.
Về khai thác hải sản, Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ phát triển khai thác
xa bờ và viễn dương, sắp xếp hợp lý khai thác nội quỷ và biển gần. Khai thác thuỷ
sản nội thuỷ, biển gần phải xin giấy chứng nhận của cơ quan chủ quản nghề cá từ
cấp huyện trở lên, còn làm nghề khai thác hải sản xa bờ phải được sự cho phép của
cơ quan chủ quản hành chính nghề cá quốc vụ viện. Việc cấp giấy phép không được
vượt quá chỉ tiêu không chế về tàu thuyền, lưới công cụ, vạch ranh giới cấm nghề
lưới kéo đáy, không tăng số lượng tàu, cấm sử dụng chất nổ, chất đánh cá, quy định
thời gian được phép khai thác trên các vùng biển, khơng sử dụng ngư cụ có kích
thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, khơng khai thác con giống có giá trị kinh tế quan

trọng để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Riêng vùng biển Nam độ sâu 20 m trở vào, mọi
hoạt động khai thác hoàn toàn bị cấp để bảo vệ nơi sinh trưởng cho cá con, cá sinh
sản trừ nhuyễn thể có thể khai thác. Xử lý thật nặng các trường hợp gây ô nhiễm
môi trường.
4. Malaysia
Bờ biển dài 5000 km, nguồn lợi hải sản khá phong phú. Từ những năm 1970
trở đi lại đây, do nhận thấy sản lượng đánh cá hải sản nhanh và với số lượng tàu
thuyền nghề cá hiện có, nguồn lợi thuỷ sản rất dễ bị cạn kiệt. Chính phủ đã chuyển
sang áp dụng mơ hình quản lý tàu thuyền với nội dung là chia ngư trường đánh bắt
hải sản ra làm bốn vùng .


+ Vùng A (trong vòng 5 hải lý kể từ bờ ): ngư trường đánh bắt của các nghề
cá truyền thống. Loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích từ 0-19,9 TDK
(TDK = 2,83m3).
+ Vùng B (từ đến 12 hải lý ): loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích
từ 20-39,9 TDK, nghề lưới vây kéo, lưới vây rút chì.
+ Vùng C1 (12-30 hải lý ): Loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích
từ 40-69,9 TDK, nghề lưới vây kéo, lưới vây rút chì .
+ Vùng C2 (30 hải lý trở lên): loại tàu được phép khai thác có tổng dung tích
từ 70 TDK trở lên, nghề lưới kéo, vây rút chì hoặc câu khơi.
Trong vùng A và vùng B, người điều khiển phương tiện bắt buộc phải là chủ
tàu, nghĩa là trong vùng này một chủ tàu chỉ được phép sở hữu một con tàu duy nhất
để đánh hải sản trong vùng. Còn vùng C1 và C2 chủ tàu dược phép sử dụng một
lúc nhiều tàu. Kết quả trong một thời gian ngắn, Malaysia đã hạn chế đến mức thấp
nhất số phương tiện tàu nhỏ đánh bắt gần bờ và phát triển được nghề cá xa bờ.
Về quản lý tàu thuyền, Malaysia cũng làm rất chặt chẽ. Mọi dữ liệu tàu
thuyền, sản lượng đánh bắt được cập nhật thường xuyên qua đội ngũ nhân viên
thống kê ở các bang trong toàn quốc. Chỉ tiêu cấp phép theo vùng nước trên cơ sở
dữ liệu về tàu thuyền, số lượng đánh bắt sao cho mục đích cuối cùng đạt hiệu quả

cao mà vẫn bảo vệ được nguồn lợi thuỷ sản. Ví dụ tại một thời điểm nào đó sản
lượng đánh bắt của tàu thuyền vượt quá giới hạn cho phép chỉ tiêu cấp phép sẽ giảm
để nguồn lợi không bị khai thác qúa mức.
Đây là bài học cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển đội tàu lớn
đánh bắt xa bờ, hạn chế tàu nhỏ đánh bắt ven bờ, bảo vệ được nguồn lợi thuỷ sản
đang cạn kiệt ở Việt Nam.
V. Những vấn đề rút ra cho xuất khẩu thuỷ sản trong một nền kinh tế mở quy
mô nhỏ như Việt Nam
* Việt Nam cũng như các nước có quy mơ nhỏ là những nước chấp nhận
giá trên thị trường thế giới:
Nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả nước ta là những nước có quy mơ nhỏ
trên thị trường quốc tế, khơng có tác động nhiều đến giá cả của các hàng hố mà
những nước đó xuất hay nhập khẩu. Các nhà sản xuất Việt Nam không thể chi phối


giá cả bằng cách tăng lượng cung trên thị trường thế giới. Điều đó có nghĩa là, các
nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam bị chấp nhận giá thị trường xuất hay nhập khẩu
của thế giới.
Như vậy, tất cả những nước có nền kinh tế quy mơ nhỏ và hầu hết nền kinh
tế quy mô vừa, phải đối mặt với thị trường, đó là một nền kinh tế chấp nhận giá đối
với hàng xuất hay nhập khẩu trên thế giới.
* Xuất khẩu ở Việt Nam cũng như các nước có nền kinh tế quy mơ nhỏ :
Hàng hố có thể được chia làm hai loại là hàng hoá và dịch vụ mậu dịch và
phi mậu dịch :
- Hàng hoá và dịch vụ mậu dịch: là loại hàng hoá và dịch vụ tham gia vào
Thương mại Quốc tế. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ, giá cả của loại hàng hoá
này được xác định trước khi đưa chúng vào thị trường quốc tế.
- Hàng hoá và dịch vụ phi mậu dịch: là loại hàng hoá và dịch vụ được sản
xuất và bán trong nước không tham gia vào Thương mại Quốc tế. Giá của nó được
xác định trên thị trường bằng quan hệ cung cầu trong nước và chúng không bị ảnh

hưởng bởi điều kiện thị trường của cùng loại sản phẩm ở nước khác.
Đối với một nền kinh tế có qui mơ nhỏ, giá cả trên thị trường thế giới được
xác định trước và nước đó có thể mua bán mọi thứ mà nước đó muốn ở mức giá quy
định. Đương nhiên, kinh doanh Thương mại Quốc tế làm nâng giá của hàng xuất
khẩu lên trên mức giá của tình trạng tự cung tự cấp. Sự cân bằng đó sẽ khơng có
nữa khi mà lượng cầu vượt q lượng cung trong nước, thay vào đó, giá cân bằng là
giá quốc tế và lượng cung vượt quá lượng cầu, ở đó sẽ được xuất khẩu.
Trong nền kinh tế mở quy mô nhỏ, nếu mọi yếu tố khác cân bằng, thì sự thay
đổi về cung và cầu sẽ dẫn tới sự thay đổi về số hàng xuất khẩu hay nhập khẩu hơn
là sự thay đổi về giá trong nước.


Chương II
phân tích Thị trường thuỷ sản thế giới
và Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
(giai đoạn 1991-2000)

I. Khái quát tình hình xuất khẩu thuỷ sản thế giới và triển vọng xuất khẩu
thuỷ sản trong thời gian tới
1. Khái quát tình hình xuất khẩu thuỷ sản thế giới
1.1. Nhu cầu về thuỷ sản thế giới
Nhu cầu thuỷ sản thế giới ngày càng tăng trên phạm vi toàn cầu do nhiều
nguyên nhân nhưng chủ yếu là do các yếu tố chủ yếu sau:
- Dân số tăng: dân số thế giới tăng trung bình trên 2%/năm. Đặc biệt dân số
tăng nhanh ở các nước chậm và đang phát triển (LDCs). Với dân số thế giới hiện
nay khoảng 7 tỉ người thì nhu cầu thuy sản của thế giới sẽ cịn tăng nhanh.
- Thu nhập bình quân đầu người tăng: thu nhập tăng dẫn đến chi dùng cho
thực phẩm cũng tăng. Riêng ở các nước đang phát triển mức tăng tiêu thụ thuỷ sản
còn lớn hơn so với mức tăng thu nhập. Tại các nước đang phát triển, thuỷ sản được
xem như loại thức ăn lành mạnh hơn nhiều so với thịt lợn, thịt bò, thịt gà. Tại

LDCs, đặc biệt là Châu á, thuỷ sản là một nguồn cung cấp protein chủ yếu. Nhu cầu
thuỷ sản ở các nước phát triển cũng ngày càng tăng.
- Tốc độ đơ thị hố trên phạm vi toàn cầu tăng: dẫn tới xu hướng tiêu thụ
hiện nay của người tiêu dùng thường đòi hỏi những loại thực phẩm lành mạnh mà
khi sử dụng không tốn nhiều thời gian chế biến.
- Sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng: hiện nay người tiêu dùng đang
chuyển từ tiêu thụ thịt sang thuỷ sản. Khu vực Đông Nam á chiếm 50% tổng lượng
tiêu thụ của thế giới (trong đó Nhật Bản, Trung Quốc và các nước NICs đều là các
thị trường tiềm năng). Khu vực Tây Âu, Nga và các nước Đông Âu với lượng tiêu
thụ năm 1996 lần lượt là 11%, 7% và 9% tổng lượng tiêu thụ thuỷ sản của thế giới.

Bảng 3: Dự tính dân số và tiêu thụ thuỷ sản ở các châu lục năm 2001


Châu lục

Dân số

Tiêu thụ thuỷ sản

Triệu

% thế

Kg/ đầu

Triệu tấn

người


giới

người

Nam á

2100

33,8

31,4

30

Đông á

1470

24

32,6

21,8

Trung Quốc

1260

20,6


20

11,5

ấn Độ

962

15,7

7,0

3,1

Nhật Bản

128

2,1

140

8,1

Nơi khác ở

82

1,3


50

2,2

Châu Phi

877

14,3

31,9

12,7

Châu Âu

513

8,4

42,9

10

Nga

315

5,1


60

8,6

Bắc Mỹ

298

4,9

47,2

6,4

Châu úc

330

5,4

73,3

1,0

C.á

Nguồn: Thông tin chuyên đề ngoại thương thuỷ sản thế giới và

ASEANBộ Thuỷ Sản


Theo FAO (Tổ Chức Lương Nông thế giới) thì nhu cầu tiêu thụ trung bình
của mỗi người dân trên thế giới giai đoạn 1991-1997 là 14-15 kg/người/năm, nhưng
nhu cầu này sẽ tăng lên 18-19 kg/người/năm vào năm 2015-2020. Đây sẽ là cơ hội
tốt cho Việt Nam trong thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản.
1.2. Sản lượng thuỷ sản thế giới
Theo FAO, sản lượng thuỷ sản thế giới sau khi đạt mức tăng nhanh vào thập
kỷ 80 (đặc biệt là vào những năm 1980 là 72,3 triệu tấn, 1985 là 86,01 triệu tấn,
năm 1988 là 85,6 triệu tấn và năm 1989 là 86,5 triệu tấn). Từ năm 1980-1985 mức
tăng trung bình hàng năm đạt 18,96%. Sản lượng thuỷ sản thế giới tiếp tục tăng lên
120 triệu tấn năm 1996 và 122 triệu tấn vào năm 1997. Trong giai đoạn 1991-1997,
sản lượng thuỷ sản thế giới tăng ổn định với mức tăng trung bình là 3,86%/năm.


Bảng 4: Sản lượng thuỷ sản thế giới
( Đơn vị: triệu tấn)
Khu

vực

/nước

1980 1985 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995

SLTSTG

12,3 86,01 85,6 86,5 82,19 97,15 98,8 102,2 109,6 112,4

Trung Quốc

4,23 6,78 5,81 6,36 6,58 13,13 15,0 17,6 20,7 24,4


% so với Thế

5,85 7,88 6,79 7,35 7,94 13,52 15,18 17,22 18,89 21,71

giới
Peru
% so với Thế

2,74 4,13

5,1

6,83 6,54 6,94

3,79

4,8

6,66

7,9

2,81

4,8

5,21 6,45 4,97

6,9


8,5

11,6

8,9

7,89 7,14 6,98 8,32 10,58 7,92

giới
Chi Lê
% so với Thế

3,89 5,58 6,09 7,46

6,0

6,5

6,5

6

7,8

7,6

6,69 6,58 5,87 7,12 6,76

giới

Nhật Bản
% so với Thế

10,34 11,41 11,77 10,97 10,14 9,3

8,1

8,1

7,4

6,8

14,3 13,27 13,75 12,68 12,23 9,57

8,2

7,93 6,75 6,05

3,63 4,76 5,66 5,47

5,6

5,9

giới
Mỹ
% so với Thế
giới
ấn Độ

% so với Thế

5,6

5,49

5,9

5,6

5,02 5,53 6,61 6,32 6,76 5,65 5,67 5,77 5,38 4,98
2,44 2,82

1,8

2,26 2,31 4,04

4,2

4,3

4,5

4,6

3,37 3,28

2,1

2,61 2,79 4,16 4,25 4,21 4,11 4,09


giới
Indonexia
% so với Thế
giới

2,33 2,07 2,18 2,27 3,25 3,36

3,7

2,71 2,42 2,52 2,74 3,35

3,62 3,56 3,65

3,4

3,9

4,1

9,47 10,52 10,33 10,29 9,41 9,22 7,67

4,5

4,6

5,3

% so với Thế 13,1 12,23 12,07 11,9 11,35 9,49 7,76


4,4

4,2

4,72

CH CQGĐL


giới
Các

nước

khác
% so với Thế
giới

36,64 38,46 37,25 35,69 35,08 39,28 46,5 43,6

44

46,8

50,68 44,72 43,52 41,26 42,32 40,43 47,06 42,66 40,15 41,64

Nguồn: FAO-ASIA Yearbook 1993, Commodity Review Outlook 19901995 và FAO-Fishery yearbook 1980-1998
Ngơi thứ của các quốc gia có tổng sản lượng thuỷ sản thế giới lớn nhất đang
có sự thay đổi. Nhật Bản liên tiếp giữ số 1 thế giới trong hai thập kỷ qua nay tụt
xuống xếp thứ tư (sau Pêru, Trung Quốc và Chilê).

Theo thống kê FAO: từ năm 1988-1997, sản lượng thuỷ sản thế giới được
đem xuất khẩu tăng lên 1,4 lần nhưng sự tăng trưởng đó chỉ diễn ra những năm
1988-1994, còn từ những năm 1995-1997 dường như không chuyển biến. Tỷ trọng
của phần thuỷ sản đem xuất khẩu năm 1988 là 32,2% tăng lên 41,1% vào năm 1994,
sau đó giảm xuống cịn 37,5% vào năm 1997. Như vậy trong thập kỷ qua, mặc dù
tổng sản lượng thuỷ sản thế giới tiếp tục tăng trưởng nhưng tỷ trọng của phần sản
lượng phục vụ xuất khẩu lại hầu như khơng tăng.
1.3. Tình hình thương mại thuỷ sản thế giới
1.3.1.Cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu
Trong cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu của thế giới hiện nay, khoảng 75% là
dạng sản phẩm cá tươi, ướp đông, đông lạnh và giáp xác, nhuyễn thể tươi, ướp
đông, đông lạnh (riêng giáp xác và nhuyễn thể chiếm 33-35%); sản phẩm đồ hộp
thuỷ sản chiếm hơn 15%, cịn dạng khơ, muối, hun khói chiếm hơn 5%, dầu cá và
bột cá cộng lại chiếm xấp xỉ 5
1.3.2.Tình hình xuất khẩu thuỷ sản thế giới
Bảng 5: xuất khẩu thuỷ sản thế giới
Đơn vị : Triệu USD
Khu

vực

/nước
Thế giới
%tăng giảm

1980 1985 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995

1996 1997 1998

150981724931820 32031 357313891740215 41501 47418 52034 52800 55300 51200

-

12,5 45,8

0,7

10,4

8,2

3,2

3,1

12,5

8,9


×