LUẬN VĂN:
Hoạt động xuất khẩu của công ty
ARTEX Thăng Long – Thực
trạng và giải pháp
Lời nói đầu
Một trong những hình thức kinh doanh cực kỳ quan trọng đối với phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia là xuất khẩu. Đối với Việt Nam xuất khẩu hàng hoá đang là
một vấn đề cấp thiết cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước cũng như góp phần nâng
cao đời sôngs nhân dân. Trong Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra việc sản xuất hàng
xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế quan trọng trong thời kỳ đổi mới của
Việt Nam ( ba chương trình đó là: sản xuất lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng, sản
xuất hàng xuất khẩu ). Và từ đó đến nay vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu cũng như
các hoạt đọng liên quan đến xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam đang là vấn đề được
nhiều doanh nghiệp quan tâmvới mục đích tim ra các biện pháp hữu hiệu nhất để
đưa hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam ngày càng có hiệu quả. Hiện nay, Việt Nam
đang đứng trước chiến lược thực hiện phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu " hướng
về xuất khẩu", thay thế nhập khẩu có chọn lọc những mặt hàng trong nước sản xuất
có hiệu quả nhằm tăng sản phẩm xã hội bình quân lên gấp đôi hiện nay. Với những
mục tiêu đặt ra, việc đẩy mạnh xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động, phát triển sản xuất hàng hoá, đồng thời mở rộng kinh tế và có khả năng
hội nhập kinh tế khu vực là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì vậy các
đơn vị xuất nhập khẩu trong nước phải hoạt động có hiệu quả hơn nữa trong tiến
xuất nhập khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước, nhập khẩu các hàng hoá tiêu dùng thiết
yếu.
Đồng thời muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
ngoài việc thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển thì việc tìm kiếm thị trường nước
ngoài là một trong những chiến lược lâu dài mà chúng ta cần phải chú trọng đến để
góp phần làm tăng tốc quá trình này. Do đó, hoạt đọng kinh doanh xuất khẩu ngày
càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia đặc biệt là những
nước đang phát triển như Việt Nam. Nó góp phần làm cân bằng cán cân thương mại,
tăng thu ngoại tệ về cho đất nước, thúc đẩy quá trình CNH-HĐH diễn ra nhanh
chóng và thuận lợi hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng này của hoạt đọng xuất khẩu, trong khoảng
thời gian thực tập từ 10/07/2002 tại công ty Xuất Nhập Khẩu Thăng Long (tên giao
dịch là ARTEX Thăng Long), em đã chọn đề tài : "Hoạt động xuất khẩu của công
ty ARTEX Thăng Long – Thực trạng và giải pháp" để góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới.
Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành luận văn, em xin trân thành cảm ớnự
giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Xuân và các cô, các bác phòng kinh doanh nghiệp
vụ I của công ty Xuất Nhập Khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long. Vì khả năng và thời gian
có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến
của thầy, cô và bạn đọc.
Nội dung luận văn bao gồm:
Chương I- Những vấn cơ bản về xuất khẩu
Chương II- Tình hình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty ARTEX
Thăng Long
Chương III- Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty ARTEX Thăng Long.
Chương I
Những vấn đề cơ bản của xuất nhập khẩu.
I. Xuất khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm chung về xuất khẩu .
Hoạt động xuất khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ của một
nước đối với một nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Sự trao đổi
này là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh
tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường .
2.1. Sự cần thiết của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là sự cần thiết vì lý do cơ bản là: nó khai thác
được lợi thế của nước xuất khẩu và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập
khẩu. Thực tế cho thấy mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt
lập với bên ngoài mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá
các mặt hàng tiêu dùng với khối lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn mức có thể
tiêu dùng với ranh giới khả năng sản xuất trong nước (nếu như thực hiện chế độ tự
cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài).
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày
càng tăng, số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một dồi
dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác,
chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu sản xuất dịch vụ và ngược lại, một quốc gia
không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với
các nước khác. Chính chuyên môn hoá quốc dân nông thôn là biểu hiện sinh động
của quy luật lợi thế so sánh, quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản
xuất, coi đó là phương thức của chìa khoá thương mại. Qui luật cũng khẳng định
rằng nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm mà nước đó có lợi htế so
sánh (hoặc có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại quôc tế có lợi cho
cả hai bên.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được phần nào về việc
buôn bán giữa các nước, vì điều kiện sản xuất có thể khác nhau giữa các nước, nên
sẽ có lợi nhiều hơn khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà
mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác.
Mặt khác chuyên môn hoá qui mô lớnlàm chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu
quả tuyệt đối. Hai nước giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác về
nhu cầu và sở thích.
Hoạt động xuất khẩu đối với nước ta là vấn đề quan tâm hàng đầu do tầm
quan trọng của nó. Do vậy Đảng và Nhà nước đã chủ trương mở rộng và phát triển
quan hệ, trong đó lĩnh vực quan trọng là vật tư thương mại hàng hoá, dịch vụ với
nước ngoài. Đó là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời đại, xu
thế phát triển của nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây. Một đất nước
không thể xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh trong điều kiện tự cung tự cấp, ngay
cả với quốc gia hùng mạnh, vì nó đòi hỏi rất tốn kém về vật chất và thời gian.
Chính vì lẽ đó cần phải nâng cao hiệu quả xuất khẩu, mở rộng ngoại thương
trên cơ sở hợp tác, bình đẳng không phân biệt chế độ và đôi bên cùng có lợi như Đại
hội VIII của Đảng ta qui định.
2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế.
*Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhâp khẩu phục vụ công nghiệp hoá
đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục đói nghèo, chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất
nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc,
thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Vốn nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn vốn sau đây:
- Đầu tư nước ngoài
- vay nợ, viện trợ
- Xuất khẩu lao động
- …
Các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ… tuy quan trọng nhưng
cũng phải trả bằng cách nay hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng
nhất để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu
quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
Nước ta vào những năm 1986-1990 nguồn thu tư xuất khẩu là ắ tổng nguồn
thu từ ngoại tệ và đảm bảo được 56% vốn nhập khẩu. Trong tương lai, nguồn vốn
bên ngoài tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài cũng như đầu
tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu (nguồn vốn duy nhất để xuất
khẩu ) trở thành hiện thực.
*Xuất khẩu góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ chế sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó
là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Sự chuyển
dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của thế
giới là tâts yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất thừa quá nhu cầu
trong nước. Trong trường hợp nền kinh tế còn lac hậu và chậm phát triển như nước
ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, do đó nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra
của sản xuất thì xuất khẩu cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm.
- Coi trọng thoả mãn mọi nhu cầu của thị trường (đặc biệt là thị trường của
thế giới) là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu. Điều đó tác động
tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
*Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt.
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào nơi làm
việc và có thu nhập khá, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật tư, thiết
bị sản xuất và vật phẩm tiêu dìng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng
phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
*Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển
kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
3.1. Công cụ chính sách vĩ mô của nhà nước.
Đây là các yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bắt buộc
phải nắm rõvà tuân thủ một cách vô ddiều kiện bởi nó thể hiện thiện chí của Đảng
và Nhà nước, sự thống nhất chung của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung của những
người xuất khẩu, lợi ích của các nước trên thương trường quốc tế.
Những chính sách này sẽ có tác động rất lớn đến hoạt động xuất khẩu, đặc
biệt là chính sách ngoại thương. Chính sách ngoại thương nước ta có nhiệm vụ là tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia vào sự pphân công lao động
quốc tế, mở mang hoạt động xuất khẩu và bảo vệ thi trường.
Để khuyến khích hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ, mở rộng hợp tác kinh tế
thương mại với nước ngoài chính phủ đã có những chính sách khuyến khích sau :
ở điều 9 – Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh
nghiệp phát triển mở rộng thị trường mới và xuất khẩu được những mặt hàng mà
nhà nước khuyến khích xuất khẩu.
Điều 10 – Nhằm khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp đã có giấy
phép kinh doanh xuất khẩu, nếu tìm được khách hàng và thị trường xuất khẩu có
hiệu quả với những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục hàng đã đăng ký trong giấy
phép kinh doanh xuất khẩu thì Bộ thương mại có trách nhiệm xét và giải quyết cụ
thể từng hợp đồng xuất khẩu đối với những mặt hàng mới.
Điều 9, 10 chương 4 nghị định 36 CP ngày 19/04/1999 về quản
lý Nhà nước với hoạt động nhập khẩu.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng sử dụng các công cụ quản lý khác như : thuế
quan, hạn ngạch… nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên.
3.2. Tác động của tỷ giá hối đoái và tỷ xuất ngoại tệ đến xuất khẩu.
Có thể nói tỷ giá hối đoái như là "chiếc gậy vô hình" điều chỉnh hoạt động
xuất nhập khẩu. Bởi vì tỷ giá hối đoái cảu đồng tiền thuận lợi cho hoạt động xuất
khẩu thì lại bất lợi cho nhập khẩu và ngược lại, sự biến động này sẽ gây ra tổn thất
lớn cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu.
Trong điều kiện nước ta hiện nay cần áp dụng tỷ giá thấp để đảm bảo xuất
khẩu có lãi, tất nhiên tỷ giá đó không thoát ly quá nhiều so với tương quan cung cầu
về ngoại tệ trên thị trường trong nước.
3.3. Tác động của hệ thống giao thông vận tải, liên lạc.
Việc xuất khẩu không thể tách rời công việc vận chuyển và các thông tin liên
lạc hiện đại này còn giúp cho việc thoả thuận giữa các bên có thể tiến hành nhanh
chóng và kịp thời.
Thực tế cho thấy sự phát triển của hệ thống thông tin hiện nay như: Fax,
Telephone, Telex, DHL, Internet. Đã đơn giản hoá công việc của hoạt động xuất
nhập khẩu rất nhiều, nó góp phần giẩm hàng loạt các chi phí và nâng cao tính kip
thời, chính xác và nhanh gọn.
Mặt khác, nước ta có hệ thống giao thông rất thuận lợi cho việc xuất khẩu, là
một trong những trung tâm vận hành đường biển ở khu vực Đông Nam á, rất thận
lợi cho hoạt động ngoại thương.Tuy nhiên, phương tiện vận chuyển, đường xá nước
ta còn lạc hậu vì vậy việc khắc phục, tu dưỡng và bổ xung hệ thống vận tải mới là
rất cần thiết.
3.4. Tác động cảu hệ thống tài chính ngân hàng.
Hệ thống tài chính và ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động
xuất khẩu nói riêng và thương mại quốc tế nói chung. Nó giúp cho việc quản lý,
cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách nhanh chóng, chính xác, thuận
tiện và an toàn cho các doanh nghiệp. Diều nay rất có ý nghĩa dối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay hệ thống ngân hàng đã phát
triển mạnh và có thể can thiệp đến tất cả các doanh ngiệp trong nền kinh tế thị
trường và làm chức năng cho hoạt động xuất khẩu phát triển mạnh.
3.5. Các nhân tố thuộc về môi trương doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước đều có một môi trường kinh doanh nhất định, nó tạo ra những tiền đề
thuận lợi cho việc kinh doanh và ngược lại nó cũng ảnh hưởng bởi những tác động
xấu đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Sự biến động của môi trường văn
hoá, chính trị, xã hội, công nghệ. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp.
Việt Nam bị ảnh hưởng lệnh cấm vận của Mỹ nên hoạt động ngoại thương rất
hạn chế. Bên cạnh đó sự phát triển vượt bậc của công nghệ tiên tiến trên thế gới làm
cho đa dạng hoá chủng loại hàng hoá cao cấp, tạo ra nhiều hàng hoá mới cũng như
sự hiện đại hoá các thông tin, giao thông, ngân hàng tài chính… ảnh hưởng mạnh
mẽ đến hoật động xuất khẩu của Việt Nam.
II. Các hình thức xuất khẩu và phương tiện, phương thức thanh toán.
1. Các hình thức xuất khẩu
1.1. Xuất khẩu trực tiếp.
Đây là hình thức doanh nghiệp đặt mua sản phẩm của các đơn vị sản xuất
trong nước (mua đứt), sau đó xuất khẩu những sản phẩm nay ra nước ngoài với danh
nghĩa là hàng của doanh nghiệp mình và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hàng hoá
của mình với khách hàng nước ngoài (bán đoạn).
Các bước tiến hành gồm có :
Ký hợp đồng ngoại : Cam kết bán hàng cho khách hàng nước ngoài với điều
kiện hai bên thống nhất thoả thuận theo luật quốc tế.
Ký hợp đồng nội : Mua hàng và trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất trong
nước.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà các đơn vị kinh doanh xuất khẩu
thu được thường cao hơn các hình thức khác. đơn vị ngoại thương đứng ra với vai
trò là người bán ra trực tiếp, do đó nếu hàng có quy cách, phẩm chất tốt sẽ nâng cao
được uy tín của doanh nghiệp. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp
xuất khẩu phải có vốn khá, vì trong điều kiện hiện nay thường các doanh nghiệp
ngoại thương phải ứng trước tiền hàng cho các đơn vị sản xuất trong nước, số tiền
này thường là lớn. Hơn nữa mức độ rủi ro của hình thức này cũng lớn (hàng hoá
kém chất lượng, quy cách, phẩm chất …) rất rễ bị khiếu nại, thanh toán chậm thậm
chí còn bị phạt. Bên cạnh đó hình thức này còn bị ảnh hưởng rất nhiều của tỷ giá hối
đoái, lãi xuất vay của ngân hàng… Do vậy, áp dụng hình thức này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nắm vững về nghiệp vụ, có bạn hàng tốt, lâu dài.
1.2. Xuất khẩu uỷ thác.
Trong hình thức xuất khẩu uỷ thác Doanh nghiệp thương mại với chức năng
được Nhà nước cho phép đứng ra với vai trò trung gian xuất khẩu, làm thay đổi cho
đơn vị sản xuất (bên co hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá và
hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng hoá xuất khẩu.
* Các bước tiến hành:
- Ký hợp đồng uỷ thác xuất khẩu cho đơn vị sản xuất trong nước.
- Ký hợp đồng với bên nước ngoài, làm thủ tục giao hàng và thanh toán tiền
hàng.
- Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất trong nước…
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít,
người đứng tên xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt
là không cần huy động vốn để mua hàng, vốn này do đơn vị sản xuất (có hàng hoá)
phải bỏ ra và họ tự chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, thời gian giao hàng…
Tuy nhiên, hình thức này hiệu quả kinh tế không cao, nếu đơn vị sản xuất làm hàng
không tốt, giao hàng không đúng thời hạn thì Doanh nghiệp Thương mại sẽ rất rễ bị
mất uy tín và dẫn đến mất dần khách hàng.
1.3. Xuất khẩu gia công uy thác.
Doanh nghiệp Thương mại đứng ra nhập khẩu nguyên liệu và bán thành
phẩm rồi đem cho đơn vị gia công sản xuất hàng hoá, sau đó thu hồi thành phẩm
xuất khẩu trả lại cho phía nước ngoài. Doanh nghiệp được hưởng phần trăm phí uỷ
thác gia công, phí này được thoả thuận trước với đơn vị sản xuất trong nước.
Các bước tiến hành chính gồm có:
- Ký hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị sản xuất trong nước.
- Ký hợp đồng gia công với bên nước ngoài và nhập nguyên vật liệu.
- Giao nguyên liệu gia công cho đơn vị sản xuất trong nước.( Định mức và cá
thông số kỹ thuật đã được thoả thuận giữa bên nước ngoài và bên sản xuất trong
nước).
- Xuất khẩu trả lại thành phẩm cho bên nước ngoài.
- Thanh toán phí gia công cho đơn vị sản xuất (do bên nước ngoài trả), và
hưởng phí uỷ thác gia công.
1.4. Buôn bán đối lưu (hàng đổi hàng).
Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương
đương nhau, ở đây mục đích xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ
mà nhằm thu về một lượng hàng có giá trị tương đương với giá trị mà Doanh
nghiệp đã xuất khẩu. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu: hàng đổi hàng (áp dụng
phổ biến hơn), trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ.
Trong hình thức hàng đổi hàng, hai bên trao đổi trực tiếp những hàng hoá
dịch vụ đổi 10 tấn cà phê lấy 01 ôtô.
Trong nghiệp vụ mua đối lưu, thường một bên giao thiết bị cho bên kia rồi
mua lại thành phẩm hoặc bán lại thành phẩm.
1.5. Xuất khẩu theo nghị thư.
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá ( thường là hàng trả nợ) được ký theo
nghị định tư của hai chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu
điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn, giá cả nhìn chung có lợi cho doanh
nghiệp xuất khẩu.
2. Các phương thức và phương tiện thanh toán.
2.1. Các phương tiện thanh toán thông dụng trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
a. Hối phiếu thương mại(Bill of exchange ) :
Hối phiếu thương mại là một phương tiện thanh toán quốc tế được sử dụng
rộng rãi nhất.
Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô diều kiện do một người ký phát cho một
người khác, yêu cầu của người này sau khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày
cụ thể nhất định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó
hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
b. Séc trong thành toán quốc tế ( Cheque)
Nếu như hối phiếu hình thành trên cơ sở lưu thông hàng hoá thì Séc hình
thành trên cơ sở lưu thông tín dụng ngân hàng.
Séc là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do khác hàng của ngân hàng ra lệnh
cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình từ ngân hàng để trả
cho người cầm Séc hoặc người được chỉ định trên Séc.
2.2. Các phương thức thường dùng trong thanh toán quốc tế.
Trong thanh toán quốc tế hiện nay người ta sử dụng rất nhiều phương thức
thanh toán khác nhau nhưng phổ biến và quan trọng hơn cả là một số phương thức
thanh toán sau đây:
a. Phương thức chuyển tiền.
Phương thức chuyển tiền là phương thức trong đó khác hàng ( người trả tiền)
yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (
người hưởng lợi) ở một thời điển nhất định băng phương tiện chuyển tiền do khách
hàng yêu cầu.
b. Phương thức nhờ thu.
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán hàng
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho khách hàng,
sẽ ký phát hối phiếu đòi người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên tờ
hối phiếu đó.
c. Phương thức tín dụng chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó ngân hàng
(ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở L/C) sẽ trả một số
tiền nhất định cho một số người khác (người hưởng lợi số tiền của L/C) hoặc chấp
nhận hối phiếu do người hưởng lợi thứ nhất ký phát (trong phạm vi số tiền nhất định
đó) khi người hưởng lợi xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ hàng hoá phù
hợp với quy định đề ra trong L/C.
III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu.
1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường và lập phương án kinh doanh.
Bất cứ một thương vụ nào đều đòi hỏi phải có quá trình chuẩn bị hết sức chu
đáo, đầy đủ, thận trọng. Nếu công tác đầu tiên này được thức hiện tốt sẽ tạo điều
kiện để thực hiện một cách có hiệu quả quá trình xuất khẩu tiếp theo. Việc nghiên
cứu tiếp cận thị trường bao gồm nhận biết về sản phẩm sẽ xuất khẩu, nghiên cứu thị
trường và tìm hiểu đối tác.
1.1. Nghiên cứu hàng hoá xuất khẩu.
Mục đích của việc nhận biết hàng hoá xuất khẩu là để lựa chọn mặt hàng kinh
doanh thích hợp mạng lại hiệu quả cao nhất. Trong trường hợp mà các nhà kinh
doanh phải bán các mặt hàng mà thị trường có nhu cầu chứ không phải cái mà minh
đã có. Do đó, khi sản xuất một mặt hàng nào đó để xuất khẩu nhà kinh doanh phải
nghiên cứu kỹ thị trường bán hàng xuất khẩu, từ đó tiến hành hoạt động sản xuất
hàng xuất khẩu theo nhu cầu của khác hàng mà mình nghiên cứu. Phải thực hiện
được tiêu đề sau tất cả những gì mà ngày hôm nay doanh nghiệp sản xuất ra thì
trong tâm trí của họ những mặt hàng đó phải được bán hết ngày hôm qua. Tức là cần
thoả mãn những yêu cầu sau:
- Mặt hàng mà thị trường đang cần là gì ? điều này nhà kinh doanh phải nhạy
bén biết sử dụng, thu thập, phân tích các thông tin về thị trường xuất khẩu, vận dụng
được các quan hệ bán hàng từ đó có được thông tin cần thiết về mặt hàng, quy cách,
chủng loại, chất lượng…
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào ? việc tiêu dùng các mặt hàng
không tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, phụ thuộc vào thời gian tiêu
dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu. Khi nắm vững
được tập quán tiêu dùng của thị trường người cán bộ kinh doanh sẽ dễ dàng hơn
trong việc nắm bắt và thoả mãn nhu cầu, có cơ sở tiến hành hoạt động xuất khẩu.
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Mỗi một mặt hàng đều
tồn tại ở một thời gian nhất định. Đó là bốn pha của chu kỳ sống của sản phẩm, các
nhà kinh doanh cần phải xác định được sản phẩm mà mình muốn xuất khẩu đang
nằm ở pha nào của chu kỳ để từ đó có các biện pháp thích hợp làm tăng doanh thu.
Ngoài ra, cần phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà mình định xuất khẩu:
khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, thời vụ sản xuất.
1.2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Trong công tác kinh doanh xuất khẩu việc nghiên cứu thị trường ngoài nước
phải trả lời được các câu hỏi sau:
Thị trường nước ngoài và dung lượng thị trường: nắm bắt các thông tin về
thị trường hàng hoá theo nhòm hàng và các điều kiện cần thiết để hiểu sâu về hàng
hoá đó trên thị trường. Những diễn biến trong quá trình tái sản xuất của ngành sản
xuất hàng hoá được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông thị trường của hàng
hoá đó. Nghiên cứu thị trường hàng hoá biểu hiện rõ quy luật vận động của chúng,
thể hiện qua các biến đổi về nhu cầu, điều kiện cung cấp, giá cả hàng hoá đó trên thị
trường. Từ đó người sản xuất có thể giải quyết hàng loạt các vấn đề như thái độ tiếp
thị, yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, các hình thức và biện pháp xâm nhập
thị trường.
Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chất chu kỳ: sự vận
động của tình hình kinh tế của các nước xuất khẩu các mặt hàng có tính thời vụ
trong sản xuất hàng hoá. Việc này rất quan trọng đối với việc quyết định thời gian,
địa điểm và đối tác giao dịch.
Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường. Đó là:
thành tưu khoa học kỹ thuật, các biện pháp, chính sách của chính phủ, các tập đoàn
tư bản lớn cũng có ảnh hưởng lớn tới sự thay đổi dung lượng của thị trường, thị hiếu
và tập quán tiêu dùng. Ngoài ra còn có các nhân tố về khả năng sản xuất thay thế.
Các nhân tố ảnh hưởng có tính chất tạm thời đến dung lượng của thị trường
đó là việc đầu cơ trên thị trường gây biến động về cung cầu và các biến động của
các chính sách, chính trị xã hội và các biến động của thiên nhiên.
Vấn đề biến động giá cả thị trường: Người xuất khẩu phải nắm vững và có đầy đủ
thông tin về sự biến động giá cả trên thị trường thế giới cũng như giá cả của nguồn
hàng cung cấp trong nước để có những biện pháp thích hợp tăng hiệu quả sản xuất.
Việc theo dõi nắm bắt được những biến động này sẽ giúp người xuất khẩu có được
mức giá tối ưu. Việc nghiên cứu giá cả trên thị trường là phương thức quan trong
trong việc thành hay bại của một phương án kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp cần
phải có các thông tin đầy đủ về nó và phân tích chính xác tỉ mỉ để xem xét thời điểm
nào là giá đó đem lại lợi nhuận cao nhất cho mình, hạn chế rủi ro.
1.3. Lựa chọn đối tác buôn bán.
Khi tiến hành xuất khẩu người kinh doanh có thể có được nhiều bạn hàng để
buôn bán, các nhà kinh doanh cần phải lựa chọn khách hàng tốt nhất để đảm bảo uy
tín và tính an toàn về hiệu quả kinh doanh. Căn cứ vào đó mà ta có thể lựa chọn đối
tác buôn bán tốt nhất đó là:
- Quan điểm kinh doanh cảu đối tác.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng về tài chính (vốn liếng và cơ sở vật chất).
- Uy tín và các mối quan hệ của đối tác kinh doanh.
- Những người đại diện của công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của
họ đối với công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện công ty.
Khi lựa chọn đối tác giao dịch phương án tối ưu là những người trực tiếp có
trức năng xuất nhập khẩu trực tiếp hạn chế những hoạt động trung gian. Các bạn
hàng có hợp đồng làm ăn lâu dài, quen thuộc cũng là những ưu tiên khi chọn đối tác.
Trong một số trường hợp có thể sử dụng các trung gian nếu xét thấy cần thiết và có
hiệu quả đó là khi thâm nhập vào thị trường mới, cần nắm bắt những thông tin về thị
trường mới.
Việc lựa chọn đối tác buôn bán sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để
có sự thành công cao nhất trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu.
Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu
hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân như mối quan hệ giữa cung cầu về hàng hoá, tích lũy-tiêu thụ, công
nghiệp-nông nghiệp. Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành
thị trường, giá cả luôn biến động và chịu tác đông của nhiều nhân tố. Để đạt được
hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu đòi hỏi mỗi nhà kinh doanh luôn phải theo dõi
chặt chẽ, nghiên cứu sự biến động của giá cả, đồng thời phải có những biện pháp để
tính toán, xác định giá cả một cách chính xác, khoa học để có mức giá tối ưu.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả hàng hoá được coi là giá gộp, trong đó gồm
giá nguyên thuỷ và cả chi phí, giá cả thay đổi tuỳ theo điêu kiện cơ sở tính giá. Giá
cả hàng xuất khẩu bao gồm các yếu tố:
- Giá trị hàng hoá đơn thuần.
- Bao bì.
- Chi phí vận chuyển.
- Thuế xuất khẩu.
- Chi phí bảo hiểm.
- Các chi phí khác của hàng hoá xuất khẩu.
Nghiên cứu giá cả của hàng hoá xuất khẩu bao gồm việc nghiên cứu mức giá
của hàng hoá xuất khẩu tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động của
giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá
cả mà nhà kinh doanh phải nghiên cứu đó là: Nhân tố chu kỳ, nhân tố cung cầu,
nhân tố lạm phát, nhân tố thời vụ. Ngoài ra, giá cả còn chịu sự tác động của nhiều
nhân tố khác như chính sách của nhà nước tư bản, xung đột xã hội, đình công…
Chính những nhân tố đó làm cho giá cả hàng hoá xuất khẩu luôn biến động
gây nên việc nghiên cứu rất kho khăn và đòi hỏi chi phí lớn về vật chất. Nhưng điều
này hết sức quan trọng trong công tác sản xuất và làm hạn chế rủi ro, đem lại hiệu
quả kinh tế cao.
1.5. Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở đã nghiên cứu vững chắc và các kết quả đã thu được qua các khâu
trên doanh nghiệp xuất khẩu đưa ra phương án kinh doanh cụ thể. Đây là bước
chuẩn bị trên giấy tờ dự đoán về diễn biến khi thực hiện quá trình xuất khẩu hàng
hoá, cũng như các mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Phương án kinh
doanh này là kế hoạch hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục
tiêu xác định của doanh nghiệp.
Để xây dựng được phương án kinh doanh tốt cần phải tiến hành theo trình tự
sau:
- Đánh giá tổng quát về thị trường và đối tác buôn bán. Dựa trên cơ sở
nghiên cứu phân tích về thị trường và đối tác nước ngoài rút ra được những kết luận
cơ bản về tình hình thị trường mà doanh nghiệp xuất khẩu. Từ đó phân tích để thấy
được những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện công tác xuất khẩu.
- Chọn mặt hàng và thời gian, địa điểm, điều kiện và phương thức kinh
doanh. Bước này đòi hỏi phải được chuẩn bị thật đầy đủ, kỹ lưỡng dựa trên cơ sở
phân tích thông tin có liên quan.
- Đề ra các mục tiêu cụ thể sẽ đạt được khi tiến hành kinh doanh, có thể là
các mục tiêu về lợi nhuận, doanh số, mục tiêu về uy tín. Đây là một công việc cần
thiết bởi vì phải xác định rõ ràng các mục tiêu thì từ đó mới có các cơ sở để xây
dựng các biện pháp cụ thể với các chỉ tiêu phù hợp với các mục tiêu đã đặt ra.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của quá trình kinh doanh.
- Đây là việc làm tất yếu và quan trọng bởi vì nếu không đánh giá được hiệu
quả kinh tế hoặc đánh giá sai, nâng cao hiệu quả kinh tế so với hiệu quả thực thì dễ
dàng dẫn đến rủi ro, thua lỗ khi tiến hành thực hiện. Hiệu quả kinh tế của một hoạt
động kinh doanh có thể đánh giá qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu tỉ xuất ngoại tệ.
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn.
+ Chỉ tiêu tỉ xuất doanh lợi.
+ Chỉ tiêu điểm hoà vốn.
Cùng với các mặt khác như uy tín của công ty mối quan hệ cũng được củng
cố và mở rộng với nhiều bạn hàng. Do vậy, mà công tác lập phương án kinh doanh
là một công tác quan trọng và cần thiết, một phương án kinh tế mà được lập một
cách khoa học, khéo léo dựa trên cơ sở các phân tích chuẩn xác và đúng đắn về thị
trường, bạn hàng cũng như về chúng tôi có ý nghĩa quyết định hêt sức quan trọng
đến sự thành hay bại trong kinh doanh.
2. Nội dung chủ yếu trong nghiệp vụ xuất khẩu hàng hoá.
2.1. Ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trong thương mại quốc tế có rất nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương
thức đều có đặc điểm riêng, cách thức tiến hành khác nhau cho nên đối với hoạt
động xuất khẩu hàng hoá chúng ta cũng có thể tuỳ ý lựa chọn các phương thức giao
dịch làm sao để đạt được hiệu quả cao nhất. Có thể đưa ra một số phương thức mà
thông thường hay được sử dụng trong hoạt động xuất khẩu, đó là:
- Giao dịch thông thường: Hai bên mua bán thoả thuận đàm phán trực tiếp
hay thông qua thư từ điện tử… đây là hình thức giao dịch được tiến hành phổ biến
hiện nay trong hoạt động thương mại, hình thức này tránh được hiểu lầm, giảm được
chi phí trung gian, bám sát được thị trường nhiều biến động.
- Giao dịch qua trung gian: là hình thức giao dịch mà người mua ( hoặc bán),
quy định những điều kiện trong giao dịch mua bán hàng hoá như giá cả hàng hoá,
điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán qua người thứ ba, đó là người buôn bán
trung gian. Hình thức này tận dụng khả năng hiểu biết của trung gian về thị trường,
giá cả, pháp luật, tập quán… Dùng hình thức này để thâm nhập thị trường mới. Đây
là hình thức phổ biến trên thế giới, nó chiếm hơn 50% kim nghạch buôn bán trên thế
giới hiện nay.
- Hình thức buôn bán đối lưu: Trong hình thức này, xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và ngược lại, lượng hàng hoá
dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương. Trong quá trình buôn bán, ký kết hợp đồng
thanh toán vẫn phải dùng tiền làm vật ngang giá.
- Giao dịch tại sở giao dịch: Hàng hoá dịch vụ có khối lượng lớn, có tính chất
đông loại, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau trên thị trường, đặc biệt là sở
giao dịch thông qua các trung gian môi giới do sở giao dịch chỉ định.
- Giao dịch tại hội trợ triển lãm: Đây là hình thức giao dịch mà việc mua bán
hàng hoá tại hội trợ triển lãm sau đó hai bên thoả thuận ký kết hợp đồng. Cần chú ý
hội chợ triển lãm là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời điểm, ở một
địa điểm nhất định. Sau khi tiến hành việc giao dịch, thoả thuận các vấn đề mấu
chốt, các bên tiến hành ký kết hợp đồng, qua đó tiếp súc với nhiều nhóm khác hàng,
hiểu hơn về nhu cầu của họ, hiểu thêm về đối thủ cạnh tranh, giá cả và giao dịch
kiểu này có hiệu qua cho quảng cáo mạnh.
Ngoài các phương thức kể trên còn có một số phương thức khác như: Đấu
thầu quốc tế, đấu giá quốc tế nhưng chúng ít được sử dụng trong hoạt động buôn
bán thông thường.
Trong kinh doanh nói chung, mặc dù đã bàn bạc thoả thuận nhưng nếu không
có bản hợp đồng thì nhiều khi vẫn có thể huỷ bỏ cam kết.
Hợp đồng trong buôn bán quốc tế lại càn cần thiết bởi vì trong kinh doanh
thương mại quốc tế giữa các nước khác nhau có sự khác nhau về ngôn ngữ, luật
pháp, tập quán kinh doanh … Do đó, nếu không có sự thống nhất bằng văn bản thì
rất dễ xảy ra những điều khó khăn, trục trặc, sinh sự tranh chấp kho giải quyết.
Nói chung lại thì hợp đồng kinh doanh gồm 3 phần cơ bản:
- Những căn cứ pháp lý: Đó là những văn bản quy định của pháp luật, giấy
phép kinh doanh xuất nhập khẩu, ngày giờ và địa điểm ký kết hợp đồng, tên, địa chỉ
người đại diện, các ban ký kết hợp đồng…
- Những thông tin có liên quan đến các bên ký hợp đồng như tên doanh
nghiệp, trụ sở, điện thoại, tài khoản của các bên.
- Những điều khoản chi tiết liên quan tới nội dung thương vụ như tên hàng,
giá cả, điều kiện bao bì, điều kiện vận chuyển …
- Để đảm bảo cho các bên ký kết hợp đồng nên khi ký kết hợp đồng cần lưu ý
các điểm sau:
- Hợp đồng được trình bầy sáng sủa, ro ràng, phản ánh được nội dung được
thoả thuận tránh tình trạng mập mờ, nhiều suy luận.
- Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để
giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập đến. Các điều khoản trong hợp đồng
phải tuân thủ đúng luật của các quốc gia, các bên tham gia ký kết.
- Ngôn ngư trong hợp đồng là thứ ngôn ngư hai bên thông thạo.
- Người ký kết phải có đầy đủ thẩm quyền và chịu trách nhiệm về mọi nội
dung ký kết.
2.2. Tổ chức thực hiện hợp đồng.
- Sau khi ký kết hợp đồng với các bên buôn bán, người xuất khẩu tổ chức
thực hiện hợp đồng mà mình đã ký, căn cứ vào các điều khoản đã ghi trong hợp
đồng, doanh nghiệp tiến hành các công việc phải làm ghi thành biểu bảng theo dõi
tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời nắm bắt diễn biến tình hình, các văn bản đã gửi
đi và nhận được để có thể có được các biện pháp giải quyết cụ thể. Các bước tiến
hành việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm:
- Xin giấy phép nhập khẩu: Sau nghị định 89/CP ngày 15/12/1995 của chính
phủ về bãi bỏ thủ tục giấy phép xuất khẩu hàng hoá cho từng chuyến. Hàng hoá xuất
khẩu được phát triển khá mạnh mẽ, thông thoáng và thuận tiện. Tất cả các doanh
nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu theo ngành hàng do Bộ thương mại
cấp dài hạn đều có thể tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá trong phạm vi của giấy
phép.
- Các bước khai thông đáng kể trong thủ tục xuất khẩu năm 1997 ( quyết
định 28 TTC ngày 31/01/1997 ) chính phủ đã ra chính sách khuyến khích xuất khẩu
hàng hoá ở phạm vị rộng kể cả ngoài phạm vi ngành hàng mà giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu quy định ( trừ những ngành hàng cấm hoặc có điều kiện ). Thực chất
đã tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu
khai thác được nguồn hàng xuất khẩu, chủ động trong kinh doanh. Năm 1998 chính
phủ đã tạo ra một bước tiến mạnh mẽ nữa là cho phép doanh nghiệp có đăng ký kinh
doanh và ký hợp đồng ngoại thương thanh toán qua ngân hàng đều dược phép xuất
khẩu không cần phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Bằng các bước cải cách hành chính về quản lý xuất nhập khẩu, chính phủ
đã thức chất tạo ra môi trường pháp luật thông thoáng để thu hút đầu tư và đặc biệt
là khuyến khích xuất khẩu. Vì vậy, khi xuất khẩu doanh nghiệp chỉ cần phải xin cấp
hạn ngạch cho những hàng hoá xuất có điều kiện như: Sản phẩm mỹ nghệ chế biến
từ gỗ rừng tự nhiên và rừng trồng, sản phẩm gia công may mặc.
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Thực hiện theo các cam kết đã ký trong hợp đồng
xuất khẩu, người xuất khẩu phải chuẩn bị hàng xuất khẩu. Công việc chuẩn bị hàng
xuất khẩu gồm 3 công đoạn sau:
+ Thu gom tập chung thành lô hàng xuất khẩu.
+ Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu.
+ Ký mã hiệu hàng xuất khẩu.
- Kiểm tra hàng xuất khẩu: Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công
việc cần thiết và quan trọng .
- Làm thủ tục hải quan: đây là quy định bắt buộc với bất cứ loại hàng nào.
Công tác này được tiến hành qua 3 bước sau:
+ Khai báo hải quan.
+ Xuất trình hàng hoá.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan.
Chương II
Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của
công ty ARTEX Thăng Long
I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long (tên giao dịch quốc tế là ARTEX
Thăng Long là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ thương mại. Công ty dược
thành lập theo quyết định số 859KTĐN- TCCB với trụ sở chính tại : 16A Tôn Đức
Thắng- Đống Đa- Hà Nội.
Tel: (04)-8237814 Fax: (84-04)- 8456731.
Kể từ khi ra đời công ty có một số mốc cần quan tâm sau đây:
Ngày 7/4/1989 xí nghiệp xuất nhập khẩu (XNK) mỹ nghệ Thăng Long được
thành lập trên cơ sở xác nhập xí nghiệp Hà Nội và bộ phận xản xuất phụ của tổng
công ty XNK mỹ nghệ (viết tắt là ARTEXPORT).
Ngày 7/5/1993 để phù hợp với cơ chế thị trường và tạo điều kiện thuận lợi trong
quan hệ buôn bán quốc tế. Bộ thương mại và du lịch quyết định đổi tên thành công
ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long.
Tháng 8 năm 1994 công ty tách một bộ phận may mặc xuất khẩu sang liên doanh
với hãng Marochi của Nhật Bản để thành lập nên liên doanh có tên là công ty may
mặc ARKSUN với tổng số vốn khoảng 1 triệu USD trong đó phía Việt Nam góp
49% tổng số vốn. Sản phẩm làm ra được phía Marochi chịu trách nhiệm bao tiêu.
Sản phẩm chủ yếu của liên doanh này là quần áo đồng phục để cung cấp cho thi
trường Nhật Bản và Hồng Kông. Việc liên doanh này đã giúp một lượng khá lớn
công nhân trong công ty co việc làm ổn định. Đến năm 1999 thì công ty ARKSUN
đã chuyển thành công ty có 100% vốn nước ngoài vì phía Việt Nam đã rút hết phần
vốn đóng góp và chỉ để lại những công nhân đang làm việc tại đó.
Đến nay, công ty đã có bề dầy chục năm hoạt động. Tuy kết quả thu được chưa cao
nhưng đến thời điểm hiện nay có thể khẳng định rằng ARTEX Thăng Long đã từng
bước vươn lên trụ cững trong cơ chế thị trường, tạo công ăn việ làm cho hàng trăm
lao động. Sản phẩm chính của công ty là thủ công mỹ nghệ thêu ren và mây tre nứa
lá. Sản phẩm được xuất đến những nước như: Đức, Italia, Nhật… sản phẩm mang
nét độc đáo truyền thống với nhiều mẫu mã hấp dẫn đáp ứng nhu cầu của khách
hàng về cả chất lượng, số lượng và giá thành.
Và cho đến nay công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long chỉ hoạt động trên
phương diện kinh doanh và các phân xưởng chỉ hoạt động trên phương diện kiểm tra
và thẩm định hàng hoá, sản xuất hàng mẫu.
Các nguồn lực của công ty
1. Về vốn : Khi mới thành lập công ty chỉ có số vốn khoảng 30 tỷ đồng trong đó vốn
ngân hàng do nhà nước cấp, chỉ có khoảng 3 tỷ đồng vốn tự có do sự xác nhập 2 xí
nghiệp lúc ban đầu, còn lại khoảng hơn 20 tỷ đồng công ty huy động được từ nhiều
nguồn khác nhau(vay ngoài, vay nội bộ). Với một công ty xuất nhập khẩu thì số vốn
nay quả thật là quá ít không đủ đáp ứng nhu cầu lâu dài.Và cũng chính bởi thiếu vốn
cho nên phần lớn số vốn có được công ty đều tập trung vào việc kinh doanh trực
tiếp. Số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng rất khiêm tốn, gây nhiều khó khăn cho công ty
đặc khi gặp trục trặc trong kinh doanh.
2. Về công nghệ : Vì là hàng thủ công mỹ nghệ nên việc đầu tư máy móc là rất tốn
kém, nên về mặt này công ty biết mình không đủ khả năngtài chính để đầu tư, một
mặt hàng là động chủ yếu của công ty bây giờ là kinh doanh chứ không sản xuất
nữa. Các máy móc mà công ty có thể đầu tư chỉ là các máy móc kiểm tra chất lượng
hàng hoá.
II. Cơ cấu tổ chức của công ty.
Sơ đồ cơ cấu của công ty
Giám
đ
ốc
Cơ cấu tổ chức của công ty.
Giám đốc công ty là người đứng đầu vận hành tổ chức công ty, trực tiếp điều hành
hoạt động kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước nhà nước về tài sản, quản
lý vốn nhà nước cấp, các khoản thuế …
Giúp việc hay làm trợ lý cho giám đốc là phó giám đốc.
Phòng tổ chức hành chính (TCHC) có chức năng tổ chức, quản lý, tuyển chọn đào
tạo nhân viên, nâng cao trình độ quản lý cho các cán bộ quản lý và nâng cao tay
nghệ cho công nhân viên.
Phòng tài chính kế toán (TCKT) có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện các nghiệp vụ
hạch toán quản lý vốn, các khoản thanh toán với ngân hàng,cấp phát vốn cho các
hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. Tổ chức công tác theo đúng thể lệ và pháp
lệnh về công tác kế toán mà nhà nước ban hành.
Phòng thị trường (T.T) tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển thị
trường, thực hiện các hoạt động đón tiếp khách hàng, tổ chức triển lãm…
III. Phân tích thực trạng xuất khẩu của công ty ARTEX Thăng Long.
1. Quy trình xuất khẩu hàng hoá của công ty ARTEX Thăng Long
Trước đây khi ta còn quan hệ chủ yếu với các nước khu vực I (khối XHCN), nhà
nước giữ độc quyền ngoại thương, việc kinh doanh xuất khẩu phần lớn là theo các
hiệp định, các thoả ước, thoả thuận mà nhà nước ta ký kết với các tổ chức, các quốc
gia khác. khi khối thị trường này tan vỡ, ta phải tìm kiếm khách hàng từ các nước
thuộc khu vực II ( các nước TBCN0 cùng với việc hình thành nền kinh tế thị trường
trong nước và phá bỏ độc quyền ngoại thương. Hiện nay, thị trường xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ chủ yếu của Việt Nam lại là các nước khu vực II. Đây là thị
trường có tiềm năng rất lớn nhưng khá khó tính và có trọn lọc, đặc biệt là với hàng
dệt may trong đó có nhóm hàng thêu ren. Chính do nhu cầu của thị trường này tăng
lên nhưng lực lượng lao động lại giảm đi hoặc chuyển sang những lĩnh vực khác do
việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều lao động không
thích hợp với nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Vì vậy, hiện tại thị trường này đang có
xu hướng xuất khẩu hàng thêu. Rẻ, đẹp, chất lượng - đó chính là yếu tố chính quyết
định thị trường nào sẽ là nguồn cung cấp hàng thêu cho khu vực này.
Công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long hiện tại cũng chủ yếu là thực hiện
các hợp đồng gia công xuất khẩu hàng thêu, mây tre lứa lá…Việc gia công xuất
khẩu này thông thường là do bên đặt hàng chủ động giao nguyên phụ liệu( vải, chỉ,
nhãn mác, túi đựng ), mẫu mã cho công ty, công ty tiến hành sản xuất theo mẫu đặt.