Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

TIỂU LUẬN: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty CEMACO pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.34 KB, 74 trang )















TIỂU LUẬN:

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hoạt động nhập khẩu ở Công ty
CEMACO






Lời nói đầu
Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, lúc này nhìn lại hơn 10 năm đổi mới, bộ
mặt nước ta đã có nhiều thay đổi đáng kể đó là đời sống nhân dân dã được cải thiện,
các doanh nghiệp trong nước đã thích nghi được với nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế cũng thay
đổi theo hướng tăng tỷ trọng trong công nghiệp và dịch vụ. Đảng và Nhà nước ta


đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hóa. Chính sách mở cửa của Nhà Nước đã góp phần đẩy mạnh trao đổi hàng hoá,
khuyến khích xuất khẩu, nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Nhà nước đồng thời mở
rộng sự quan hệ hợp tác kinh tế với tất cả các nước khác trên phạm vi toàn thế giới.
Tuy nhiên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên là tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống
pháp luật chưa đồng bộ, chưa thực sự thúc đẩy được nội lực cũng như ngoại lực cho
sự phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế và hội nhập thế giới nó là xu hướng
khách quan của thời đại ngày nay, nó là mục tiêu của bất cứ quốc gia nào. Thương
mại quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đưa nền kinh tế tăng trưởng phát triển.
Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như nước ta thì việc tiếp thu khoa học
tiên tiến thế giới qua con đường nhập khẩu là không thể thiếu được hàng hoá nhập
khẩu là nguồn bổ sung và thay thế những mặt mất cân đối của nền kinh tế, bảo đảm
một sự phát triển kinh tế ổn định đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế .
Nhận thức được tầm quan trọng như vậy, đặc biệt là đơn vị kinh doanh nhập
khẩu hàng nguyên vật liệu để phục vụsản xuất nên việc hoàn thiện nhập khẩu là
điều hêt sức cần thiết vì nó vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước, vừa
mang lại hiệu quả cao cho Công ty. Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu tại Công ty
CEMACO, kết hợp với tình hình thực tế về hoạt động nhập khẩu ở công ty, nhận
thức được ý nghĩa to lớn của hoạt động nhập khẩu đối với sự phát triển hoạt động



kinh doanh của công ty nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nói chung
đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Bùi Huy Nhượng, em đã chọn
đề tài "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty
CEMACO"

Đề tài gồm 3 chương:
Chương I :Một số lý luận cơ bản của hoạt động nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu ở Công ty CEMACO trong
những năm qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công
ty CEMACO .



Chương I
MộT Số Lý LUậN CƠ BảN Về HOạT Động nhập khẩu


I.Vai trò của hoạt động nhập khẩu
1. Khái niệm và vai trò của hoạt động nhập khẩu .
Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh
buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đó không phải là những hành vi riêng lẻ mà là cả một
hệ thống các quan hệ mua bán trong phạm vi một nền thương mại có tổ chức cả các
bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển,
chuyển đổi cơ cấu trong nước, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân
dân. Do đó, xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh tế
đem lại những hiệu quả đột biến rất cao nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải
đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham
gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, không có một quốc gia nào trên thế giới
phủ nhận vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế của quốc gia mình.
Dưới đây, em xin đề cập tới vai trò của hoạt động nhập khẩu, đó là:
Thứ nhất, nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh
tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối ổn định, khai thác tối đa tiềm năng của nền
kinh tế vào vòng quay kinh tế.

Thứ 2, Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước.
Thứ 3, nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho
người lao động góp phần cải thiện và nâng cao mức sống nhân dân.



Thứ 4, nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Thứ 5, nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế
đóng cửa, chế độ tự cung, tự cấp.
Thứ 6, nhập khẩu tác động trực tiếp vào sản xuất và kinh doanh Thương mại
Quốc tế làm cho khối lượng và giá trị hàng nhập khẩu ngày càng gia tăng cùng với
sự phát triển kinh tế. Nhập khẩu giúp cho sản xuất được liên tục và ổn định
Thứ 7, nhập khẩu có vai trò thúc đẩy sản xuất góp phần nâng cao chất lượng
hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước
ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
Thứ 8, nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng sản xuất trong nước và hàng
ngoại nhập, tức là tạo ra động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không
ngừng vươn lên và hoàn thiện sản phẩm của mình để có chất lượng tốt, giá rẻ, phù
hợp với nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
2. Vai trò của việc hoàn thiện hoạt động nhập khẩu.
Trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay việc hoàn thiện nhập khẩu
có vai trò hết sức quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất
nước theo hướng mở rộng sản xuất ra nước ngoài.
Vai trò của hoàn thiện nhập khẩu là: Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ
nâng cao hiệu quả nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu . Hoàn thiện
hoạt động nhập khẩu sẽ làm cho quá trình nhập khẩu hàng hoá được nhanh chóng
hơn vì thế nó kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng hoá cho sản xuất và cho người

tiêu dùng trong nước.



Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu được nhập hàng hoá dễ dàng vào trong nước tránh được những vấn đề phức
tạp trong quá trình nhập khẩu hàng hoá từ thị trường nước ngoài vào.
Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu kéo theo các chính sách, qui trình xuất
khẩu cũng phải được hoàn thiện, điều đó góp phần hoàn chỉnh một chính sách
Thương mại Quốc tế tạo điều kiện cho sự phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế với
các nước trên thế giới.
Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro cho các
doanh nghiệp trong quá trình tham gia hoạt động nhập khẩu hàng hoá.
3. Các công cụ quản lý hoạt động nhập khẩu .
Mỗi một quốc gia có đặc trưng riêng trong quản lý hoạt động nhập khẩu của
mình. Một số nước tập trung vào công cụ thuế, những nước khác lại quản lý nhập
khẩu qua giấy phép, hạn ngạch, ngoại tệ, phi thuế quan nhằm mục đích là nhập
khẩu phải đảm bảo phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, các nhà kinh
doanh phải hiểu được những chính sách quản lý nhập khẩu của Nhà nước.
ở Việt Nam, những chính sách quản lý nhập khẩu quan trọng nhất là:
Thứ nhất là thuế nhập khẩu: nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn
tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Theo luật
thuế do Quốc hội Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
26/12/1991,hàng hoá bị đánh thuế là những hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa
khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong
nước.
Cách tính thuế: Có nhiều cách tính thuế như tính và thu một số tiền nào đó
đối với mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo tỷ lệ phần % đối với tổng giá trị hàng
hoá, hay là kết hợp cả hai cách tính trên. ở nước ta, cách tính thuế căn cứ vào từng
số lượng từng mặt hàng thực tế nhập, nhân với giá tính thuế, nhân với thuế suất của

từng mặt hàng ghi trong biểu thuế. Giá tính thuế nhập khẩu là giá CIF



Biểu thuế quan: Do Bộ Tài chính xây dựng và ban hành trên cơ sở chính
sách quản lý của mỗi nước, mức thuế có thể tính chung cho tất cả các nước theo
từng mặt hàng, nhưng cũng có thể tính riêng cho từng nhóm nước. Biểu thuế này
thường thay đổi để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước. Có hai
mức thuế đó là, mức thuế thông thường và mức thuế ưu đãi.
Mức thuế thông thường: Đánh chung cho tất cả các hàng hoá nói chung
không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào, hàng hoá từ một nước dùng
chung một mức thuế.
Mức thuế ưu đãi: áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu theo Hiệp định
Thương mại đã ký kết giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ nước ngoài, trong đó
có điều khoản ưu đãi về thuế nhập khẩu cho từng mặt hàng với số lượng cụ thể.
Thứ 2 : Hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu là qui định của nhà nước hạn chế nhập khẩu số lượng
hoặc gia trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó trong một thời gian
nhất định (thường là 1 năm ).
Hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức hạn chế số lượng. Khi hạn ngạch
được quy định cho một loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra một định
ngạch nhập khẩu mặt hàng trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn
gốc đó từ đâu. Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường có hàng hoá
đó thì chỉ được nhập khẩu từ thị trường đã xác định với số lượng và thời hạn nhất
định
áp dụng hạn ngạch nhập khẩu có tác dụng là bảo hộ nền sản xuất trong nước,
bảo đảm các cam kết của chính phủ nước ta với nước ngoài. Nhưng có mặt hạn chế
là hạn chế quyền lợi tiêu dùng các mặt hàng đa dạng của người tiêu dùng và tạo ra
quyền lực độc quyền cho một số doanh nghiệp trong nước.




Thứ 3: Giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu. Nó là chứng từ do Bộ thương mại cấp, cho phép chủ hàng
được nhập khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định, có cùng tên hàng, từ một nước
nhất định, trong một thời gian nhất định.
Theo quy định của NĐ57 CP ra ngày 31.7.1998 có hiệu lực từ ngày 1.9.98
quy định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện
- Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện là hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu theo Giấy phép của Bộ thương mại hoặc Bộ quản lý chuyên ngành.
- Việc phê chuẩn Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện do
Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ thương mại sau khi đã
thống nhất với Bộ kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, các ngành có liên quan.
Quản lý bằng giấy phép có tác dụng là để hạn chế việc nhập khẩu tràn lan
hàng hoá nước ngoài vào thị trường trong nước, hạn chế nhập khẩu hàng hoá mà
trong nước sản xuất được nhưng có nhược điểm là không thu được ngân sách nhà
nước
Nhập khẩu hàng hoá có điều kiện thì doanh nghiệp cần lập hồ sơ để đề nghị
cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh gồm:
- Đơn đề nghị cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh
- Quyết định hoặc giấy phép thành lập doanh nghiệp do cơ quan có thẩm
quyền cấp (bản sao hợp lệ ).
- Tài liệu chứng minh việc đảm bảo các điều kiện kinh doanh đối với hàng
hoá, dịch vụ thương mại.



Doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện

kinh doanh phải nộp một khoản lệ phí, Bộ Tài chính quy định mức lệ phí cụ thể để
thực hiện thống nhất trong cả nước.
Thứ 4 : Quản lý ngoại tệ.
Đối với nước thiếu ngoại tệ như nước ta, áp dụng biện pháp kiểm soát ngoại
tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại sản phẩm thông qua việc phân phối
ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá đó. Qua Ngân hàng quốc gia nhiều nước quy
định “ hạn ngạch ngoại tệ” trên cơ sở hạn ngạch nhập khẩu được cấp. Người nhập
khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài nhưng phải xin được quyền sử
dụng ngoại tệ để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý ngoại tệ ở nước
mình. Khi xuất khẩu hàng hoá đi nước ngoài, người xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ chế
độ quản lý ngoại tệ của nước nhập khẩu để sau đó không gặp khó khăn trong việc
thanh toán xuất khẩu của mình.
4. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu hiện nay.
Hoạt động nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
trực tiếp. Trong thực tế, do các tác động của điều kiện kinh doanh cũng như sự năng
động sáng tạo của người làm kinh doanh đã taọ ra nhiều hình thức nhập khẩu đa
dạng khác nhau. Dưới đây là một vài hình thức thông dụng đang được áp dụng
trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiện nay là:
4.1 Nhập khẩu trực tiếp :
* Khái niệm: Là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh nghiệp xuất nhập
khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải tự nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính
toán chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách,
luật pháp quốc gia cũng như luật pháp quốc tế.
* Đặc điểm: doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi mặt hoạt
động, phải tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận lưu kho



và chi phí tiêu thụ hàng hoá. Khi nhập khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp xuất nhập

khẩu trực tiếp được tính kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng nhập khẩu thì
phải chịu thuế VAT. Thông thường doanh nghiệp phải lập một hợp đồng với bên
nước ngoài, hợp đồng nhập khẩu trực tiếp giữa doanh nghiệp trong nước với doanh
nghiệp nước ngoài trên cơ sở tự nguyện bình đẳng không bị chi phối của bất kỳ bên
thứ 3 nào khác.
Ưu điểm: Không qua trung gian do đó có thể giảm được chi phí trung gian vì
nhiều khi chi phí này chiếm một tỷ lệ lớn. Việc nhập khẩu trực tiếp giúp cho doanh
nghiệp chủ động trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá xuất nhập khẩu nhất là trong
điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều biến động. Nhập khẩu trực tiếp giúp cho
doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập thị trường tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp
thu được những kinh nghiệm của nước nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của doanh nghiệp mình.
Nhược điểm: Chịu mọi ruỉ ro và trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt
động kinh doanh nhập khẩu của mình không có một bạn hàng kinh doanh nào gánh
chịu cùng. Doanh nghiệp tham gia nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi phải có năng lực hiểu
biết về nghiệp vụ nhập khẩu sâu, phải có nhiều thời gian tích luỹ kinh nghiệm. Khối
lượng hàng hoá nhập khẩu phải lớn mới có thể bù đắp được những chi phí trong quả
trình nghiên cứu thị trường, giao dịch, giấy tờ, đi lại.
4.2 Nhập khẩu uỷ thác
*Khái niệm: là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong
nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng
không có quyền tham gia quan hệ trực tiếp hoặc không có các điều kiện cần thiết
để nhập khẩu nên đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch
thường tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo
yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.



*Đặc điểm.
Bên nhận uỷ thác:

Phải tiến hành đàm phán với nước ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập
khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi
thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Trong hoạt động nhập khẩu này thì bên nhận uỷ thác không phải bỏ vốn,
không phải xin hạn ngạch (nếu có).
Bên nhận uỷ thác nhập khẩu không phải trả các khoản thuế nhập khẩu và
bằng vốn của mình.
Bên nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng mua bán với bên
nước ngoài, một hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác.
Bên uỷ thác:
Bên đi uỷ thác phải có vốn, hạn ngạch để tiến hành nhập khẩu hàng hoá
qua uỷ thác và trả mọi loại thuế nếu có.
Bên đi uỷ thác phải có trách nhiệm trả cho bên nhận uỷ thác tiền thù lao nhập
khẩu gọi là phí uỷ thác. Mọi chi phí liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá do bên
uỷ thác chịu.
4.3 Nhập khẩu liên doanh.
*Khái niệm: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một
cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất
nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện
pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo
hướng có lợi nhất cho cả hai bên cùng chia lãi và chịu lỗ.



*Đặc điểm.
Doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh ít chịu rủi ro bởi vì mỗi doanh nghiệp
liên doanh xuất nhập khẩu phải góp một số vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm
của hai bên cũng phụ thuộc vào phần góp vốn của mỗi bên. Việc phân chia chi phí,
thuế VAT theo tỷ lệ góp vốn lãi và lỗ các bên thoả thuận theo sự phân chia.
Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ được tính

kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên
hàng theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế VAT trên doanh số đó.
Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải được tiến hành lập 2 hợp đồng:
+ Một hợp đồng mua hàng nước ngoài
+ Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp
4.4 Nhập khẩu tái xuất.
*Khái niệm: Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá nhưng
không phải để tiêu thụ trong nước mà là để xuất sang một nước thứ 3 nào đó nhằm
mục đích thu lợi nhuận song những hàng hoá này không được chế biến ở nước tái
xuất.
*Đặc điểm
Doanh nghiệp tham gia hợp đồng nhập khẩu tái xuất được tính cả kim ngạch
xuất lẫn nhập, doanh số tính trên giá hàng xuất nhập nhập khẩu, do đó phải chịu
thuế VAT, thông thường người ta sử dụng thư tín dụng giáp lưng.
Doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu tái xuất lập 2 hợp đồng: một hợp đồng
xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu và phải chịu thuế đối với mặt hàng kinh
doanh .
Hàng hoá nhập khẩu không nhằm mục đích tiêu dùng trong nước mà xuất
sang nước thứ 3 hoặc tham gia hội trợ triển lãm.



Hàng hoá trong nhập khẩu tái xuất không nhất thiết phải chuyển tiền về nước
tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ 3, nhưng trả tiền thì luôn do người
tái xuất thu từ người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất
còn thu được lợi tức về tiềm năng do thu được nhanh và trả được chậm
4.5 Nhập khẩu gia công hàng xuất khẩu.
*Khái niệm: là hoạt động kinh doanh Thương mại Quốc tế trong đó một bên
(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên
khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt

gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công ). Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi
biên giới quốc gia thì gọi là gia công xuất khẩu.
*Đặc điểm:
Nhập khẩu gia công để xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là
nguyên liệu) từ nước ngoài vào để sản xuất hàng hoá, nhưng không phải để tiêu
dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chêch lệch do tiền công đem lại. Vì
vậy có thể nói rằng nhập khẩu gia công để xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao
động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá
), chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.
Nhập khẩu gia công để xuất khẩu ngày nay khá phổ biến trong buôn bán
ngoại thương của nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ
lợi dụng được giá rẻ về nguyên vật liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công.
Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm
cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về
nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc.
Trên đây đã khái quát một số hình thức nhập khẩu thông dụng hiện nay
nhưng mỗi một doanh nghiệp tuỳ theo điều kiện của mình hay điều kiện thị trường
mà doanh nghiệp lựa chọn hình thức nhập khẩu nào để thu được lợi nhuận cao nhất
cho doanh nghiệp mình.



II. Nội dung hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp XNK hiện nay.
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng.
1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu
đúng chủng loại hàng hoá mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả và
đạt được mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu,
trước hết phải dựa vào nhu cầu cảu sản xuất và tiêu dùng trong nước, chủng loại,
kích cỡ, giá cả, chất lượng, số lượng, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán tiêu

dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó, xem xét các khía cạnh của hàng
hoá trên thị trường thế giới về nhập khẩu hàng hoá như: công dụng, các đặc tính,
quy cách phẩm chất, mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán và khả năng sản xuất và các
dịch vụ kèm theo như sửa chữa, bảo dưỡng
Để lựa chọn mặt hàng kinh doanh, một nhân tố nữa phải được tính toán đến
đó là tỷ xuất ngoại tệ hàng nhập khẩu. Trong nhập khẩu tỷ suất ngoại tệ là tổng số
bản tệ có thể thu được khi bỏ ra đồng bản tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ xuất ngoại tệ
hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trưòng thì việc nhập khẩu có hiệu
quả.
Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu còn phải dựa vào những kinh nghiệm của
người ngoài thị trường để dự đoán được các xu hướng biến động của thị trường
nước ngoài cũng như trong nước, khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện
mua bán có ưu thế hơn.
1.2 Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường của một hàng hoá là khối luợng hàng hoá được giao
dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định (thường là một
năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường cần phải xác định nhu cầu thật của khách
hàng kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm nhu
cầu, từng khu vực, từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc xác định, nắm



bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem
xét, đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế khả năng lựa chọn mua
bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, có thay đổi tuỳ theo diễn biến của
thị trường do tác động của nhiều nhân tố trong gian đoạn nhất định. Các nhân tố ảnh
hưởng tới dung lượng thị trường có thể chia ra làm 3 nhóm căn cứ vào thời gian
chúng ảnh hưởng tới thị trường.
Loại nhân tố thứ nhất: Đó là các nhân tố làm cho dung lượng biến đổi có tính

chất chu kỳ. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất
thời vụ trong sản xuất, lưu thông và tiêu dùng.
Nhân tố thời vụ ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất, và tiêu
dùng ở những mức độ và phạm vi khác nhau.
Loại nhân tố thứ hai : Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của
thị trường bao gồm chính sách của Nhà nước, và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị
hiếu, tập quán tiêu dùng, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế.
Loại nhân tố thứ 3 là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị
trường như hiện tượng đầu cơ tích trữ gây ra các đột biến về nhu cầu, các yếu tố tự
nhiên như thiên tai, hạn hán, động đất Các yếu tố chính trị xã hội
Nắm vững dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trong từng thời
kỳ có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá trên thị
trường thế giới giúp cho các nhà kinh doanh cân nhắc các đề nghị, ra quyết định kịp
thời, nhanh chóng chớp được thời cơ, đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Cùng với
nghiên cứu dung lượng thị trường người kinh doanh phải nắm bắt được tình hình
kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh, và đặc biệt là các
điều kiện về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế, khu vực để
có thể hoà nhập với thị trường, tránh những sơ xuất trong giao dịch.



Trên đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của dung lượng thị
trường. Khi nghiên cứu tình hình thị trường của các hàng hoá khác nhau phải căn cứ
vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng sự ảnh hưởng của các nhân tố. Điều đó
giúp cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu đề ra các biện pháp, quyết định kịp
thời, nhanh chóng, đạt hiệu qủa cao trong hoạt động nhập khẩu của mình.
1.3 Lựa chọn bạn hàng.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những
người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với nước ta nhằm thực hiện các hợp đồng
mua bán hàng hoá hoặc các loại dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay hợp tác

kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Khi lựa chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước
cần nghiên cứu tình hình sản xuất, khả năng cung ứng và chất lượng hàng nhập
khẩu, chính sách tập quán thương mại quốc tế của nước đó. Điều kiện về địa lý
cũng là một vấn đề cần quan tâm khi lựa chọn nước giao dịch.
Trong việc chọn thương nhân giao dịch thì phải dựa trên cơ sở nghiên cứu
các vấn đề sau:
- Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh,
khă năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng.
- Khả năng về vốn cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng giành
lấy độc quyền về hàng hoá
- Uy tín của bạn hàng.



Việc lựa chọn đối tượng giao dịch tốt nhất là nên lựa chon đối tác trực tiếp
tránh những đối tác trong trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập
vào thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong Thương mại Quốc tế nói
chung và trong kinh doanh nhập khẩu nói riêng là điều hết sức quan trọng và cần
thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp
có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh buôn bán Quốc tế đạt hiệu quả cao nhất.
1.4 Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu
Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu chính là giá cả quốc tế. Giá quốc tế
có tính chất đại diện đối với mỗi loại hàng hoá nhất định trên thị trường, giá đó phải
là giá của những giao dịch thông thường không kèm theo bất kỳ một điều kiện
thương mại đặc biệt nào và thanh toán tự do chuyển đổi. Trong thực tế giá quốc tế
của mỗi loại hàng hoá thường biến động phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác nhau, nên việc dự đoán và nắm bắt gía cả và xu hướng vận động của

nó là một vấn đề hết sức khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều thông tin.
Xu hướng biến động của hàng hoá trên thế giới có lúc tăng lúc giảm, cũng có
lúc ổn định song xu hướng này chỉ có tính chất tạm thời.
Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về gía cả quốc tế của hàng
hoá trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về tình hình thị trường
của hàng hoá đó, đánh giá đúng các nhân tố ảnh hưởng đến gía cả và xu hướng vận
động của gía cả hàng hoá.
Các nhân tố ảnh hưởng tới gía cả hàng hoá trên thị trường thế giới. Đó là:
Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, đặc biệt là
sự biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước
Nhân tố lũng đoạn: là làm xuất hiện nhiều mức giá biến động khác nhau trên
thị trường thậm chí cho cùng một lọai hàng hoá.



Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh làm cho giá cả biến động theo chiều hướng
khác nhau Cạnh tranh giữa người bán với người mua, và giữa người mua với người
mua.
Nhân tố thời vụ: là nhân tố tác động đến gía cả theo tính chất thời vụ của sản
xuất và lưu thông.
Nhân tố cung cầu: ảnh hưởng rất lớn tới sự biến động của gía cả hàng hoá vì
nó ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung cấp hoặc khối lượng tiêu thụ của hàng hoá
trên thị trường.
Nhân tố lạm phát: lạm phát xuất hiện làm cho đồng tiền mất giá do đó ảnh
hưởng tới gía cả hàng hoá của một quốc gia trong trao đổi Thương mại Quốc tế
Ngoài những nhân tố chủ yếu trên đây, gía cả quốc tế của hàng hoá còn chịu
tác động của các nhân tố khác như: chính sách của quốc gia, tình hình kinh tế, xã
hội, chính trị
Nghiên cứu các nhân tố trên đây cho ta biết rõ về thị trường và quy luật vận
động của thị trường. Một điều quan trọng nữa trong quá trình nhập khẩu hàng hoá

chúng ta cần phải xác định đâu là thị trường trọng điểm để lựa chọn mặt hàng kinh
doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
2. Giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu.
2.1 Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu.
Sau khi tiến hàng công việc nghiên cứu thị trường quốc tế thì căn cứ vào mặt
hàng dự định nhập khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến
hành giao dịch mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lựa chọn cho mình một
phương thức giao dịch phù hợp nhất, thuận tiện nhất cho doanh nghiệp mình. Dưới
đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong mua bán quốc tế.
2.1.1. Giao dịch trực tiếp:



Giao dich trực tiếp trong kinh doanh Quốc tế là giao dịch mà người mua
(hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc, thoả luận trực tiếp (hoặc thông qua thư từ, điện
tín ) với người bán (người mua) về hàng hoá, gía cả, giao dịch, phương thức thanh
toán.
2.1.2. Giao dịch qua trung gian
Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh Quốc tế là giao dịch mà người
mua (hoặc người bán) quy định về điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá,
giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán phải qua một người thứ 3 là
người trung gian buôn bán.
Trung gian buôn bán chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các môi giới hay các tổ chức
môi gới.
- Đại lý tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành nhiều hành vi theo sự uỷ
thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác với các đại lý là quan hệ hợp
đồng đại lý.
- Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua với người bán, được
người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá, dịch vụ.
Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng phần chứ

không phải theo hợp đồng.
2.1.3. Giao dịch tại hội chợ triển lãm.
- Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời gian và địa
điểm cố định trong một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá
của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
- Triển lãm: không phải là thị trường, là nơi trưng bày hàng hoá để giới thiệu
thành tựu của nền kinh tế, của doanh nghiệp hay một nào đó.
2.14 Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá:



Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua người môi
giới do sở giao dịch chỉ định người mua và người bán mua bán hàng hoá có khối
lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể thay thế nhau.
Các loai giao dịch ở sở giao dịch:
Giao dịch ngay: là giao dịch trong đó hàng hoá được giao ngay và trả tiền ngay vào
lúc ký hợp đồng. Giao dịch này thường chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 10% trong các
giao dịch ở sở giao dịch
Giao dịch kì hạn: là Giao dịch trong đó giá cả được ấn định vào lúc ký kết
hợp đồng, nhưng việc giao hàng và thanh toán đều tiến hành theo một kỳ hạn nhất
định. Nhằm mục đích thu lợi do chênh lệch giá giữa lúc ký kết hợp đồng vào lúc
giao hàng.
Nghiệp vụ tự bảo hiểm: là một biện pháp kỹ thuật thường được các nhà buôn
nguyên liệu, các nhà sản xuất sử dụng, nhằm tránh những rủi ro biến động giá cả
làm thiệt hại đến số lãi dự tính, bằng cánh sử dụng giao dịch khống trong sở giao
dịch.
2.1.5. Buôn bán đối lưu.
Khái niệm : Là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với nhập khâủ, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá dịch vụ trao
đổi có giá trị tương đương. Mục đích của xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ không

phải là thu về ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu.
-Nghiệp vụ hàng đổi hàng là trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương.
-Nghiệp vụ bù trừ Là hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở giá trị
hàng hoá đến cuối kỳ sẽ tiến hành bù trừ.
-Nghiệp vụ buôn bán đối lưu là một bên bán thiết bị cho khách hàng của
mình để đổi lại mua sản phẩm sản xuất ra.



-Nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ : Bên giao chuyển giao nghĩa vụ trả tiền
hàng cho bên thứ ba.
-Giao dịch bồi hoàn là phương thức mà đổi hàng hoá hoặc dịch vụ để lấy
những ưu đãi.
-Nghiệp vụ mua lại là một bên cung cấp thiết bị toàn bộ hoặc bằng sáng chế
hoặc bí quyết kỹ thuật cho bên khác, đồng thời đảm bảo mua lại sản phẩm do thiết
bị sáng chế đó tạo ra.
Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng :
-Dùng thư tín dụng đối ứng.
-Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá.
-Dùng tài khoản đặc biệt ở Ngân hàng để theo dõi việc giao hàng của hai
bên.
-Phạt việc thiếu và chậm giao hàng.
2.1.6. Đấu giá quốc tế.
Khái niệm là phương thức bán hàng đặc biệt, tại đó người bán trưng bầy
hàng hoá và người mua sau khi xem xét hàng hoá và tự do trả giá, hàng hoá bán cho
người nào trả giá cao nhất.
Cách thức tiến hành.
-Chuẩn bị đấu giá.
+ Chuẩn bị hàng hoá phân ra làm lô nhỏ

+ Xây dựng điều lệ đấu giá.
+ in Catalô về những mặt hàng sẽ đem đấu giá.
+ Quảng cáo.



-Trưng bầy hàng hoá để người mua có thểm xem xét và lựa chọn hàng.
-Tiến hành đấu giá : Có hai phương thức đó là : Phương pháp nâng giá và
phương pháp hạ giá.
-Ký hợp đồng và giao hàng, người thắng cuộc sẽ tiến hành ký hợp đồng với
đại diện của của ban tổ chức đấu giá. Sau khi ký hợp đồng người thắng cuộc phải
trả một phần tiền hàng trước. Sau 3 - 14 ngày người mua phải trả hết các khoản tiền
còn thiếu và lấy hàng đi.
2.1.7. Đấu thầu quốc tế .
Khái niệm : Đấu thầu quốc tế trong thương mại Quốc tế là một phương thức
giao dịch đặc biêt, trong đó người mua (tức là gọi thầu) công bố trước điều kiện
mua hàng để người bán (tức là dự thầu) báo giá của mình muốn bán. Sau đó, người
mua sẽ chọn mua của người nào với giá thấp nhất và điều kiện mua bán phù hợp
nhất.
Cách thức tiến hành.
-Chuẩn bị đấu thầu :
Xây dựng “điều lệ đấu thầu” : Nêu rõ mặt hàng và dịch vụ là đối tượng đấu
thầu, thủ tục nộp tiền bảo đảm thực hiện hợp đồng, biện pháp điều chỉnh quan hệ
hợp đồng đấu thầu, việc giải quyết tranh chấp.
Thông báo gọi thầu : tuỳ theo loại hình đấu thầu mà thông báo trên các báo
tạp chí khác nhau, hay gửi thư riêng cho các hãng gửi thầu.
-Thu nhận báo giá:
Căn cứ vào những điều kiện đấu thầu, người dự thầu lập và gửi cho người
gọi thầu trong thời hạn nhất định.
Người gọi thầu phải giữ nguyên niêm phong các hồ sơ dự thầu.

-Mở thầu và lựa chọn người cung cấp :



Vào ngày giờ ấn định có mặt của những người dự thâù, người gọi thầu mở
các phong bì, công bố nội dung các báo giá .
Sau thời gian xem xét đánh giá người gọi thầu nghiên cứu và công bố người
thắng cuộc.
-Ký kết hợp đồng :
Người thắng cuộc ký kết hợp đồng với người gọi thầu và nộp tiền bảo đảm,
nộp tiền hợp đồng theo như quy định của bản điều kiện đấu thầu.
Trong trường hợp người được chọn trúng thầu có thể từ chối không thoả
thuận và ký kết hợp đồng vì một lý do nào đó. Khi đó người trúng thâù không được
nhận lại tiền bảo lãnh dự thâù, lúc đó người gọi thầu phải chọn người trúng thầu
khác.
Trên đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trên thị trường quốc tế hiện
nay, tuỳ theo điều kiện của mình mà công ty lựa chọn cho mình một phương thức
giao dịch phù hợp với mình.
2.2 Đàm phán.
Đàm phán thương mại là qúa trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một
xung đột nhằm đi tới thống nhất cách nhận định, thống nhất quan niệm, thống nhất
cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hoặc nhiều bên.
2.2.1.Các hình thức đàm phán.
a. Đàm phán qua thư tín :
Đàm phán qua thư từ và điện tín là một hình thức chủ yếu để giao dịch giữa
những người xuất nhập khẩu. So với việc gặp gỡ trực tiếp thì đàm phán qua thư tín
tiết kiệm được nhiều chi phí. Trong cùng một lúc có thể giao dịch với nhiều khách
hàng ở nhiều nơikhác nhau. Người viết thư tín có điều kiện để cân nhắc, suy nghĩ,
tranh thủ ý kiến của nhiều người và có thể khéo léo giữ kín ý định thực hiện của




mình. Nhưng việc giao dịch qua thư tín thường mất nhiều thời gian chờ đợi có thể
bỏ lỡ cơ hội mua bán.
b. Đàm phán qua điện thoại:
Đàm phán qua điện thoại nhanh chóng, giúp nhà kinh doanh tiến hành đàm
phán một cách khẩn trương đúng vào thời cơ cần thiết. Nhưng phí tổn điện thoại
quốc tế cao, các cuộc trao đổi thường phải hạn chế về thời gian, các bảng thống kê
trình bày chi tiết.
c. Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp:
Việc gặp gỡ trực tiếp để trao đổi về mọi điều kiện buôn bán là một hình thức
đặc biệt quan trọng. Hình thức này đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai
bên và nhiều khi là lối thoát do đàm phán bằng thư tín và điện thoại đã kéo dài quá
lâu mà không đạt kết quả. Hình thức này thường được dùng khi có những điều kiện
giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc về những hợp đồng lớn, phức tạp. Tuy
nhiên đây cũng là một hình thức khó khăn nhất. Đàm phán trực tiếp đòi hỏi người
tiến hành đàm phán phải chắc về nghiệp vụ, tự chủ, phản ứng nhanh nhạy để có
thể tỉnh táo, bình tĩnh nhận xét, nắm bắt được ý đồ sách lược của đối phương, quyết
định ngay tại chỗ khi thấy thời cơ đã chín muồi. Ngoài ra đây cũng là một hình thức
tốn kém về đi lại, tiếp đón, quà cáp .
2.2.2.Các bước đàm phán :
a. Hỏi giá là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện bán
hàng như giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán .
Hỏi gía thực chất chỉ là thăm dò để giao dịch, cho nên không bắt buộc người hỏi
giá trở thành người mua.
b. Báo giá là nghiệp vụ tiếp theo của giao dịch và ký kết hợp đồng. Nếu đã
báo giá là đã có cam kết của người bán sẽ bán hàng với giá đó và kèm theo các điều
kiện trong thư báo giá mà người bán không có quyền từ chối.




c. Chào hàng: là đề nghị của một bên (bên mua hoặc bên bán) gửi cho bên
kia, biểu thị muốn bán hoặc muốn mua một hoặc một số hàng nhất định theo những
điều kiện nhất định về giá cả, thời gian, phương tiện thanh toán .
d. Chấp nhận; xác nhận:
Chấp nhận là người chào hàng hay báo giá đồng ý hoàn toàn với chào hàng
hay báo giá đó.
Xác nhận là khẳng định sự thoả thuận mua bán bằng văn bản xác nhận của
bên mua hoặc bên bán, hoặc của cả hai bên.
2.3 Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Hợp đồng xuất nhập khẩu (Hợp đồng Thương mại Quốc tế) là hợp đồng mua
bán đặc biệt, trong đó người bán có nghĩa vụ phải chuyển quyền sở hữu hàng hoá
cho người mua (bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có
trách nhiệm trả tiền và nhận hàng.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu của nước ta trong quan hệ với các nước khác. Các điều
khoản của hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết dù trước đó đã có
đơn đặt hàng và chào hàng nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ sở
pháp lý cụ thể cho hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác
và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra. Văn bản là hình thức
hợp đồng tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên. Nó xác định rõ ràng
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên bán và bên mua tránh được những hiểu lầm do
không thống nhất về quan niệm. Ngoài ra, hình thức văn bản còn tạo ra thuận lợi
cho việc thống kê, theo dõi, kiểm tra việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.
*Đặc điểm của hợp đồng Thương mại Quốc tế:
- Luật điều chỉnh hợp đồng là luật điều chỉnh của nước xuất khẩu nhập khẩu và
các điều ước của luật pháp quốc tế mà các bên đã thoả thuận và cam kết.

×