Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp gia tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Th¬ương mại Phú Đức.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.83 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mục lục………………………………………………………………………. 1
Lời nói đầu…………………………………………………………………....3
CHƯƠNG 1: LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG……………………………………………………..…….4
1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp ………...4
1.1.1 Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường………………………………. 4
1.1.2 Lợi nhuận của doanh gnhiệp ………………………………………………..7
1.2 Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp………………………………13
1.2.1 Các yếu tố cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp………………..……13
1.2.2 Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp………………..….14
1.2.3 Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp…………………………………..….23
1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp……………...29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY TNHH
THƯƠNG MẠI PHÚ ĐỨC…………………………………….………….34
2.1 Tổng quan về công ty TNHH thương mại Phú Đức………...………..34
2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty TNHH thương
mại Phú Đức………………………………………………………..…………34
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty……………………….…………………………34
2.1.3 Đặc điểm công ty…………………………………………..…………………36
2.2 Thực trạng lợi nhuận của công ty TNHH thương mại Phú Đức…....37
2.2.1 Thực trạng hoạt động kinh doanh……………………………………..…...37
2.2.2 Tình hình tài chính trong công ty TNHH thương mại Phú Đức….…….37
2.2.3 Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách Nhà nước năm 2008….……...49
2.3 Nhận xét về lợi nhuận của công ty TNHH thương mại Phú Đức…....52
2.3.1 Kết quả đạt được……………………………………….…………………….52
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân…………………………………………………….53
2.3.2.1 Hạn chế ………………………………………………..…………………...53
2.3.2.2 Nguyên nhân………………………………………...……………………...53
- 1-


CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP GIA TĂNG LỢI NHUẬN TỪ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI PHÚ ĐỨC.…55
3.1 Sự cần thiết khách quan………………………………………….….…55
3.2 Giải pháp tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty TNHH
thương mại Phú Đức……………………...……………..………………55
3.2.1 Tối ưu hoá doanh thu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm tối đa hoá lợi
nhuận của công ty………………………..….……………………………..……55
3.2.2 Tối thiểu hoá chi phí………………….……………………………………...57
3.2.3 Những giải pháp khác……………………………….……………………….58
3.3 một số kiến nghị với chính phủ……………………………….……….59
Kết luận………………………………………………………………….…………...61
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………….……………..62
- 2-
LỜI NÓI ĐẦU
Là một nhà đầu tư khi bỏ tiền vào đầu tư hy vọng sẽ thu được nhiều lợi
nhuận, vậy làm cách nào để tối đa hoá chỉ tiêu này, là sự quan tâm lớn, không
chỉ của chủ đầu tư, mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác như:
Chính phủ, của chủ nợ....
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận, không chỉ qua sách vở,
mà còn qua thực tế hoạt động của Công ty TNHH Thương mại Phú Đức, tôi
xin chọn đề tài “ Giải pháp gia tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh
của Công ty TNHH Thương mại Phú Đức.” Làm chuyên đề tốt nghiệp của
mình, mong muốn góp sức mình vào việc đưa ra các giải pháp làm tăng lợi
nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty .
Bài viết này gồm ba phần chính:
Chương 1:
Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương2:
Thực trạng về lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
TNHH Thương mại Phú Đức

Chương 3:
Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty
TNHH thương mại Phú Đức

- 3-
CHƯƠNG 1:
LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Từ những năm 90 trở lại đây, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau ra đời, do cơ chế luật pháp thông thoáng, tư duy con người thay đổi và
phát triển. Vậy doanh nghiệp là gì? Nó có phải đơn thuần chỉ là một cửa hàng
buôn bán lặt vặt ngoài phố, hay những nhà xưởng sản xuất xe đạp Thống nhất,
những bao phân lân để rồi khi không có tiền thì lấy chính sản phẩm đó trả thay
tiền lương?
Chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem doanh nghiệp sẽ được hiểu như thế nào là
đúng nghĩa nhất.
1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Theo “Luật Doanh nghiệp” ban hành ngày 12/6/1999 thì :
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện hoạt động kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh ở đây được hiểu
là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lời.
Như thế có thể hiểu doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách
pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở
hữu.
ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều loại hình doanh nghiệp như : Doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh, công ty

liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Việc phân loại doanh nghiệp như vậy là dựa vào hình thức sở hữu vốn
đầu tư: Doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn đầu tư do Nhà nước cấp phát,
lãi thì Nhà nước thu một phần lợi nhuận, lỗ thì không phải nộp thuế, còn được
cấp phát vốn. Điều này đã khiến cho đa số doanh nghiệp Nhà nước tại Việt
Nam làm ăn trở nên thua lỗ. Điều nguy hiểm hơn cả là trong nền kinh tế nước
ta có tới 1/2 là doanh nghiệp Nhà nước nếu không nói là hầu như chỉ có doanh
nghiệp Nhà nước những năm 90. Nhưng mọi việc ngày nay đã thay đổi, bên
cạnh những doanh nghiệp Nhà nước còn có :
- 4-
* Công ty cổ phần – tức là doanh nghiệp mà vốn do nhiều thành viên
đóng góp, những thành viên góp vốn gọi là cổ đông. Công ty cổ phần có quyền
phát hành cổ phiếu.
*Công ty TNHH, vốn góp cũng do các thành viên công ty đóng góp.
Tuy nhiên, số thành viên trong công ty không vượt quá 50 người và không
được phát hành cổ phiếu.
*Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp mà vốn do một thành
viên đứng tên doanh nghiệp. Doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân,
không được phát hành cổ phiếu, người sở hữu vốn trong doanh nghiệp phải
chịu trách nhiệm vô hạn về khoản nợ phát sinh trong doanh nghiệp. Đây là loại
hình doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các mô
hình kinh doanh khác như: Công ty hợp doanh, hộ gia đình, ….
Ngoài việc phân chia theo hình thức góp vốn, ta có thể phân loại doanh
nghiệp theo chủ thể kinh doanh:
Kinh doanh cá thể (Sole Proprietorship), kinh doanh góp vốn
(Parnership), công ty (Corporation).
Kinh doanh cá thể là loại hình thành lập đơn giản nhất, không cần có
điều lệ chính thưc và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Loại hình kinh doanh
này không bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp mà tất cả lợi nhuận được tính
vào thu nhập cá nhân. Đây là loại hình doanh nghiệp này không có tư cách

pháp nhân, chủ doanh nghiệp phải chịu tránh nhiệm vô hạn đối với các nghĩa
vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của
doanh nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào
người chủ sở hữu doanh nghiệp. Khả năng thu hút vốn của loại hinh doanh
nghiệp này bị hạn chế bởi nó phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của người chủ
sở hữu.
Kinh doanh góp vốn là loại hình doanh nghiệp rất phát triển ở nước ta
hiện nay,do việc thành lập doanh nghiệp này hết sưc dễ dàng với chi phí thấp,
một số trường hợp cần giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có
trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Nếu như một thành viên không hoàn
thành trách nhiệm của mình thì phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn
trả. Tuổi thọ của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên chính
thức, doanh nghiệp sẽ tan vỡ nếu một thành viên chết hoặc rút vốn. Việc huy
động vốn của loại hình doanh nghiệp này cũng phụ thuộc hoàn toàn vào khả
năng, uy tín của các thành viên chính thức, do vậy nó cũng khá hạn chế. Lãi
- 5-
thu được từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập
cá nhân.
Hình thức cuối cùng là công ty: đây là loại hình doanh nghiệp mà ở đó
có kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông(chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và
của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương
hướng, hoạt động và chính sách của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản
trị, sau đó HĐQT lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động theo
nguyên tắc đem lại lợi ích tốt nhất cho các cổ đông. Việc tách rời quyền sở
hữu khỏi các nhà quản lý mang lại lợi thế cho công ty so với kinh doanh cá thể
và góp vón như:
+ Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển nhượng cho cổ đông mới.
+ Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào số lượng, tuổi thọ của các cổ
đông.
+ Trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn tại phần vốn góp của cổ đông

vào công ty.
Mỗi loại hình doanh nghiệp có các ưu nhược điểm riêng. Việc phân loại
này chỉ mang tính tương đối. Trong bài viết này, các mô hình trên đều gọi
chung là doanh nghiệp với chung mục tiêu hoạt động là tối đa hoá lợi nhuận .
Ngày nay trong môi trường xã hội biến động theo từng giờ, mọi hoạt
động, quyết định của doanh nghiệp chị sự tác động của môi trường mà nó tồn
tại.
Môi trường ở đây được hiểu là tổng hoá các yếu tố có thể làm thay đổi
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như:
Sự quản lý của Nhà nước: Một cá nhân, tổ chức có thể tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh, có thể đưa doanh nghiệp phát triển tới vị trí mong
muốn. Nhưng sự thắt chặt hay nới lỏng của doanh nghiệp đó lại hoàn toàn phụ
thuộc vào sự điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ
chế quản lý tài chính. Vì thế ta thấy, có một số lĩnh vực kinh tế thì rất phát
triển cả về số lượng người kinh doanh, cả về quy mô nguồn vốn, nhưng một số
lĩnh vực không phải ai kinh doanh cũng được, và với quy mô kinh doanh bao
nhiêu là tuỳ thích. Bởi chúng chịu sự tác động của cơ chế quản lý của Nhà
nước.
Một số yếu tố nữa mà doanh nghiệp ngày càng thực sự phải đối đầu, đố
là sự thay đổi của khoa học công nghệ. Sự thay đổi khoa học công nghệ diễn
ra từng ngày, từng tháng đã mang lại rất nhiều thay đổi trong phương thức sản
- 6-
xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài
chính của doanh nghiệp, bởi nó không chỉ đem lại những cơ may mà còn đem
đến rất nhiều những rủi ro lớn. Vì vậy, nhà quản lý luôn phải đối đầu với
những rủi ro có thể xảy ra, để có thể ứng phó kịp thời, đúng đắn. Doanh
nghiệp với sức ép từ phía thị trường, từ sự thay đổi tư duy con người, đã
chuyển dần từ phương thức sản xuất kinh doanh cổ điển là chỉ quan tâm đến
cái mà mình sản xuất, chuyển sang việc quan tâm cái mà thị trường cần. Việc
tính đến sự tác động của môi trường , sự thay đổi không ngừng trong cung

cách làm ăn của doanh nghiệp là để đạt được mục tiêu sự phát triển bền vững –
tối đa hoá lợi nhuận.
Nếu xa rời mục tiêu này, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại lâu được.
Việc tìm hiểu chỉ tiêu này, sẽ thấy được tầm quan trọng của nó.
1.1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
* Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận
Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu để đánh giá sự làm ăn có hiệu quả
hay không của doanh nghiệp.
Sự thay đổi liên tục trong phương thức sản xuất kinh doanh, những
chiến lược mới trong phương thức quản lý. Mục tiêu của nó là để cho doanh
nghiệp có thể tồn tại bền vững và từ đó là đem lại nhiều lợi nhuận hơn nữa.
Lợi nhuận : Chỉ tiêu mà mọi thời kỳ kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều
quan tâm và lấy đó làm đích để hướng tới, từ đây cũng nảy sinh rất nhiều
những quan điểm khác nhau về lợi nhuận
- Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng, “cái phần trội lên
nằm trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo Adam Smith lợi nhuận là
“ khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo Ricardo “ lợi
nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công”
- K.Mark thì cho rằng “ giá trị thặng dư, hay phần trội lên nằm trong
toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay là lao động không
được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận.
- Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuelson và W. D . Nordhaus lại
cho rằng “ lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ đi tổng số chi
hay nó cách khác lợi nhuận được định ngiã là “sự chênh lệch giữa tổng thu
nhập và tổng chi phí” của một doanh nghiệp. David Begg thì cho rằng lợi
nhuận là “khoản dôi ra của doanh thu so với chi phí”.
- 7-
Các khái niệm trên tuy được phát biểu khác nhau song đều có điểm
chung, là coi lợi nhuận là số phần thừa ra từ chênh lệch giữa những khoản thu
được và chi phí phải bỏ ra.

Đứng về phía góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản còn lại của
doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí ( chi phí nguyên vật liệu, tiền
lương, thuế thu nhập doanh nghiệp..
Lợi nhuận được định nghĩa như vậy, thế nhưng xuất phát từ đâu để có
các khoản lợi nhuận đó, đây quả thật là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
- Phái trọng thương thì cho rằng “ lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực
lưu thông”
- Phái trọng nông lại quan niệm “ Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần
tuý là tặng vật của thiên nhiên và của nông nghiệp, là ngành duy nhất tạo ra
sản phẩm thuần tuý”
- Phái cổ điển mà nổi tiếng là A. Smith là người đầu tiên tuyên bố rằng “
lao động nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư” và chính ông ta lại
khẳng định giá trị hàng hoá bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô. Còn theo
Ricardo thì “ Giá do lao động của công nhân sáng tạo ra, là nguồn gốc sinh ra
tiền lương, lợi nhuận cũng như địa tô”
Từ hai quan điểm được phát biểu trên, chúng ta thấy rằng cả Adam
Smith và Ricardo đều đã lẫn lộn giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận.
Với tư duy duy vật biện chứng, K.Mard đã xây dựng thành công lý luận
về hàng hoá sức lao động_cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi
đến kết luận:” Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản
ứng trước, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận”
- Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự
phân tích thực tế thì kết luận lợi nhuận của doanh nghiệp gồm: Thu nhập từ
các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư trong kinh doanh, phần thưởng cho
sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền.
Việc hiểu rõ bản chất của lợi nhuận là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là
với các nhà quản trị doanh nghiệp , để từ đó họ có thể đánh giá hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp một cách hợp lý, đúng đắn, từ đó có thể đưa ra các
biện pháp khác nhau làm tăng cao lợi nhuận.
Phân phối lợi nhuận: Quá trình sản xuất , kinh doanh là quá trình tuần

hoàn liên tục, chu kỳ này nối tiếp chu kỳ khác. Để có thể tiếp tục vòng quay
này phải có vốn đầu tư vào, điều này không thể mãi đòi hỏi từ chủ sở hữu bởi
- 8-
không ai có một nguồn lực vô hạn như vậy. Để có thể tái mở rộng sản xuất, lợi
nhuận chính là nguồn lực cần thiết và cần phải có. Người ta sẽ phân chia
khoản lợi nhuận đó như thế nào? Giữ lại toàn bộ để tiêu dùng? Đầu tư toàn
bộ vào tái sản xuất hay có những phương thức nào khác? Điều này hoàn toàn
phụ thuộc vào người chủ doanh nghiệp. Nhưng hiện nay có một phương pháp
chung mà các doanh nghiệp hay áp dụng để phân phối lợi nhuận.
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp một phần dùng để chia lãi cổ
phần, còn lãi là lợi nhuận không chia. Tỷ lệ phần lợi nhuận chia lãi và không
chia tuỳ thuộc vào chính sách của Nhà nước (Đối với doanh nghiệp Nhà nước)
hay chính sách cổ tức cổ phần của đại hội cổ đông ( Đối với doanh nghiệp
khác) ở mỗi doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam, lợi nhuận sau thuế sau
khi nộp phạt và các khoản khác nếu có được trích lập các quỹ của doanh
nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ
cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
*Các quỹ doanh nghiệp:
+ Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được sử dụng vào các mục đích sau:
Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh
Đổi mới , thay thế thiêt bị máy móc, dây chuyền công nghệ, nghiên
cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đổi mới trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp.
Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các cán
bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Bổ sung vốn lưu động.
Tham gia liên doanh, liên kết, mua cổ phiếu.
Trích nộp cấp trên ( Nếu có)
+ Qũy dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những thiệt

hại, tổn thất về tài sản do thiên tai, những rủi ro trong kinh doanh không được
tính vào giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm.
Trích nộp để hình thành quỹ dự phòng tài chính của tổng công ty (nếu là
thành viên của tổng công ty) theo tỷ lệ do hội đồng quản trị tổng công ty quyết
định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ tổn thất, thiệt hại trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành viên theo quy chế quản lý tài chính
của tổng công ty.
- 9-
+ Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người đang
làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc
đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hay
chuyển sang công việc mới.
Trợ cấp cho người lao động theo nguyên nhân khách quan như: lao
động dôi ra do thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong
khi chưa bố trí công việc khác hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc.
Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm Giám đốc và Chủ tịch Công
đoàn xét cụ thể theo pháp luật hiện hành.
+ Quỹ phúc lợi: Quỹ này dùng để xây dựng, sửa chữa, bổ xung các công
trìng phúc lợi chung trong nghành, hoặc với các đơn vị khác theo thoả thuận,
chi cho hoạt động phúc lợi xã hội, thể thao, văn hóa, phúc lợi công cộng của
toàn thể công nhân viên trong doanh nghiệp; đóng góp cho quỹ phũc lợi xã
hội( các hoạt động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng…);…
Ngoài ra, doanh nghiệp sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho
người lao động của doanh nghiệp đã về hưu, mất sức hay lâm vào cảnh khó
khăn,không nơi nương tựa
Ngoài các loại quỹ trên người ta còn phân chi lợi nhuận để hình thành
nên quỹ khen thưởng.
+ Quỹ khen thưởng dùng để :
Thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong
doanh nghiệp, mức thưởng do HĐQT, Giám đốc( nếu doanh nghiệp không có

HĐQT) quyết định sau khi có ý kiến tham gia của Công đoàn doanh nghiệp
trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác và mức lương cơ bản của
mỗi cán bộ, CNV trong doanh nghiệp.
Thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến
cải tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh.
Việc phân chia lợi nhuận ra thành các quỹ là việc làm cần thiết, nó có
thể giúp cho doanh nghiệp phản ứng một cách nhanh chóng đối với những rủi
ro sảy ra và khích lệ tinh thần cho các cá nhân có thành tích. Ngoài ra, việc
phân chia lợi nhuận thành quỹ dự phòng tài chính tạo ra một tâm lý an tâm hơn
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Qua một số phân tích ở trên, ta có thể thấy đựơc lợi nhuận là vô cùng
quan trọng đối với doanh nghiệp. Vậy ngoài doanh nghiệp ra, lợi nhuận còn có
vai trò nào khác? Chúng ta sẽ xem xét ở phần dưói đây:
- 10-
Vai trò của lợi nhuận.
Lợi nhuận không chỉ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp
mà còn là nguồn dinh dưỡng chính nuôi dưỡng nền kinh tế của một quốc gia.
Lấy gì để thu thuế khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ? Việc xem xét vai trò của
lợi nhuận đối với từng đối tượng cụ thể sẽ làm chúng ta hiểu tầm quan trọng
của nó.
*Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu tổng hộp
nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động cơ, mục
đích của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra để kinh doanh. Điều này được thể hiện:
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ xung vốn
vào mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi
nhuận, lập các quỹ trong doanh nghiệp như: Quỹ khuyến khích phát triển sản
xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…Từ các quỹ này, doanh nghiệp có thể bổ
xung vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất – kinh doanh đòi hỏi.

Và cũng chính từ các quỹ này, doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao đời
sống của cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần khuyến khích người lao
động gắn bó với công việc, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh phát
triển.
Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng
thanh toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các nghĩa vụ
với Nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Lợi nhuận là nguồn tài
chính để doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay các khoản bị
phạt do chậm nộp thuế, do vi phạm hợp đồng.
Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ khả năng tái sản xuất giản
đơn( bù đắp hao phí trong quá trình sản xuất – kinh doanh) thì tình hình tài
chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không
những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng
đổi mới máy móc thiết bị, ứng dung khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất
kinh doanh giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và có uy
tín.
* Đối với người lao động
- 11-
Lợi nhuận là nguồn chính để doanh nghiệp trích lập quỹ: quỹ trợ cấp
mất việc làm, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, giải quyết nhu cầu xã hội
cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn để trích lập các quỹ
này càng lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện nâng cao tinh thần, vật chất
cho cán bộ công nhân viên, từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng
cao tính chủ động, sáng tạo trong quá trình làm việc. Chính vì thế, việc sản
xuất có lãi ngày càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở
rộng mà còn là quyền lợi thiết thựccủa CBCNV trong doanh nghiệp.
Thực tế đã chứng minh: áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến
khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc , có trách nhiệm

đến cùng với sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật,
tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu để hạ giá thành sản phẩm.
* Đối với nền sản xuất xã hội.
Trước hết ta thấy, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước,
nhằm thoả mãn nhu cầu nền kinh tế quốc dân, là nguồn duy trì bộ máy hành
chính, là nguồn củng cố và tăng cường nguồn lực quốc phòng, cải tiến đời
sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân. Muốn thu được thuế thì doanh
nghiệp phải làm ăn có lãi. Sự phát triển của các doanh nghiệp tạo ra sự tích luỹ
trong xã hội, tạo sự ổn định về mặt kinh tế cho một quốc gia, từ đó có sự ổn
định về chính trị.
Lợi nhuận là yếu tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, thông qua việc doanh
nghiệp liên tục cải tiến khoa học kỹ thuật và mở rộng không ngừng để có được
mức thu nhập như mong muốn. Lấy ví dụ như trong thời kỳ bao cấp, sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp quốc doanh phụ thuộc hoàn toàn vào sự bao
cấp của Nhà nước, vốn do Nhà nước cấp phát hoàn toàn, sử dụng hiệu quả như
thế nào doanh nghiệp hoàn toàn không chịu trách nhiệm, lỗ đã có Nhà nước
bù. Vì thế trong thời kỳ này, doanh nghiệp làm ăn không năng động do động
lực kích thích bị thui chột, tình trạng thua lỗ kéo dài, từ đó nhìn toàn cảnh xã
hội là nghèo nàn, lạc hậu.
Từ khi xoá bỏ chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp
chuyển sang chế độ hoạch toán kinh doanh, bộ mặt nền kinh tế có sự thay đổi
hết sức tích cực. Doanh nghiệp hoạt động có mục đích của nó, khiến cho nó
trở nên năng động, sáng tạo và luôn đổi mới mình.
Như vậy, có thể đi đến kết luận: lợi nhuận có vai trò vô cùng to lớn đối
với nền kinh tế, nó chính là động lực, mục tiêu để doanh nghiệp hoạt động và
- 12-
Lợi nhuận
từ HĐKD
phát triển, là nguồn tích luỹ của xã hội, là sự thể hiện sức mạnh của nền kinh
tế .

Trên đây, chúng ta thấy sự cần thiết khi doanh nghiệp làm ăn có lãi,
nhưng việc tính toán một cách chính xác doanh nghiệp đó có thực sự có lợi
nhuận hay không là việc không phải dễ dàng. Ngày nay, người ta đưa ra
phương pháp để tính toán lợi nhuận của doanh nghiệp, ta sẽ xem xét phần tiếp
theo.
1.2.Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.1. Các yếu tố cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường năng động, để
tăng cường khả năng cạnh tranh, thu đựơc nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp có
xu hướng đa dạng hoá hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình trên nhiều
lĩnh vực khác nhau. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần
thu được từ quá trình sản xuất – kinh doanh mà có thể còn thu đựơc từ kết quả
quá trình hoạt động tài chính hay là từ một hoạt động bất thường nào đó. Lợi
nhuận của doanh nghiệp là tổng hợp của các lợi nhuận đó.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất - kinh doanh chính và sản xuất – kinh
doanh phụ. Lợi nhuận thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận từ hoạt động
sản xuất – kinh doanh.
Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn
nhằm mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh
bất động sản, buôn bán ngoại tệ. Lãi thu được từ hoạt động trên gọi là lợi
nhuận thu đựơc từ hoạt động tài chính.
Những hoạt động trên đều đã được doanh nghiệp hoạch định từ trước,
có kế hoạch, có sự chuẩn bị các hoạt động theo ý muốn. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động của doanh nghiệp, có rất nhiều hoạt động không được hoạch
định từ trước mà xảy ra bất ngờ như thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải
quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ
nguyên nhân. Những hoạt động này cũng đem lại cho doanh nghiệp những
khoản thu nhập, khoản thu này sau khi đã trừ đi các chi phí cho những hoạt

động bất thường này gọi là lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
- 13-
Lợi nhuận
từ HĐKD
Như vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động
sản xuất – kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt
động bất thường.
Việc cần thiết bây giờ là làm thế nào có thể tính toán các khoản lợi
nhuận này? Chúng ta sẽ tính toán theo phương pháp sau:
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như đã định nghĩa ở trên, lợi nhuận được hiểu là phần chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí, nhưng thực tế thì cũng không hoàn toàn như vậy, bởi vì
phần thu nhập này lại phải chịu một phần thuế thu nhập do Nhà nước đánh. Vì
thế, ta sẽ đưa ra hai khái niệm sau:
* Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp: bao gồm lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất
thường.
* Lợi nhuận sau thuế ( thu nhập sau thuế) của doanh nghiệp là chênh lệch
giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong phần nghiên cứu dưới đây, lợi nhuận đề cấp là lợi nhuận trước
thuế, gọi chung là lợi nhuận của doanh nghiệp. Như đã nói ở phần trên:
- 14-
Thuế thu
nhập doanh
nghiệp
Thu nhập
trước thuế
Thuế suât thuế thu
nhập doanh
nghiệp

=
X
Lợi
nhuận sau
thuế
Lợi nhuận
trước thuế
Thuế thu
nhập doanh
nghiệp
=
-
Lợi nhuận
của doanh
nghiệp
=
Lợi nhuận
từ HĐKD
Lợi
nhuận từ
HĐTC
Lợi nhuận
từ HĐBT
+ +
Lợi nhuận
từ HĐBT
Thu nhập
từ HĐBT
Chi phí cho
HĐBT

= -
Trong đó:
Doanh thu từ hoạt động bất thường là khoản thu về việc thanh lý,
nhượng bán tài sản cố định, tiền thu từ vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ
khó đòi mà đã nghi là đã mất.
Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi như : chi phạt thuế, bị
phạt vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định…
Thực ra đây là hợp đồng không thường xuyên và ít xảy ra trong doanh
nghiệp nên tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động này thường rất nhỏ và có thể dễ
dàng hoạch toán trong một chu kỳ kinh doanh.
Đối với những doanh nghiệp cho thuê tài chính, hay đối với các nhân hàng thì
lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất. Doanh thu từ
hoạt đọng tài chính bao gồm: khoản thu từ việc mua bán trái phiếu, cổ phiếu,
thu nhập từ hoạt động liên doanh liên kết, thu nhập từ hoạt động cho thuê tài
sản, thu nhập từ hoạt động gửi tiền vào ngân hàng.
Chi phí cho hoạt động tài chính là các chi phí cho việc mua bán chứng
khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần, chi phí
cho hoạt động thuê tài chính…
Trong bài viết này, đang đứng nghiên cứu dưới góc độ doanh nghiệp
thông thường, nên tỷ trọng từ hoạt động bất thường, hoạt động tài chính chiếm
tỷ trọng nhỏ, không phản ánh được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong doanh nghiệp thông thường là lợi
nhuận từ hoạt động sản xuất kinh dona, và cũng là mục đích nghiên cứu chính
của bài viết này.
Lợi nhuận = Doanh thu tiêu thụ - Chi phí hoạt động
hoạt động kinh doanh sản phẩm dịch vụ kinh doanh
Tuy nhiên việc tính toán được doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí
cho hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp rất khó thực hiện, việc tính toán
này chỉ mang tính tương đối.
- 15-

Lợi nhuận
từ HĐTC
Doanh thu
từ HĐTC
Chi phí cho
HĐTC
= -
Một sản phẩm được sản xuất ra, doanh nghiệp chưa thể coi là đã hoàn
thành công việc của mình, việc có bán được sản phẩm đó trên thị trường hay
không sẽ quyết định thắng lợi của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp coi là hoạt động xuất bán sản phẩm. Cho đơn vị mua để nhận được số
tiền về sản phẩm đó. Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được coi là
hoàn thành khi doanh nghiệp được chấp nhận trả tiền của bên mua hàng. Việc
hoàn thành quá trình tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp có
doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà khách
hàng chấp nhận trả. Tuy nhiên khi khách hàng chấp nhận trả tiền , thì khoản
tiền đó cúng chưa chắc chắn được coi hoàn toàn là doanh thu của doanh
nghiệp, đôi khi hàng hoá có thể bị trả lại do kém chất lượng, hay do một vài lý
do nào đó, khách hàng trả lại hàng , vì vậy doanh nghiệp phải giám giá hàng
bán, hoặc khấu cho khách.
Do vậy trong nghị định 59 CP có quy định : “ Doanh thu từ hoạt động
kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị
trường sau khi đã trừ đi khác khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán,
hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ), thu từ phần trợ giá của Nhà nước
khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cuầ của Nhà nước”.
Các sản phẩm , hàng hoá, dịch vụ đem tặng, biếu, cho hoặc tiêu dùng
ngay trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác định doanh
thu.
Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua hàng đã chấp nhận
thanh toán, không phụ thuộc đã thu hay chưa. ở đây chiết khấu bán hàng là số

tiền thưởng tính trên tổng doanh thu mà doanh nghiệp trả cho khách hàng đã
thanh toán tiền trước thời hạn quy định,
Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn
hay cung cấp dịch vụ cho các nguyên nhân đặc biệt khác như hàng kém phẩm
chất, không đúng quy cách. Ngoài ra còn có khoản thưởng cho khách hàng đã
mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt hay trong một khoảng thời
gian nhất định.
Hàng hoá bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ ( đã chuyển giao
quyền sở hữu đã thu tiền hay chưa được chấp nhận thanh toán) nhưng bị người
mua từ chối, trả cho người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết do
những nguyên nhân khác…
Như vậy:
- 16-
- Thuế gián thu là khoản thuế thu hộ cho Nhà nước như Thuế TTĐB,
VAT…
Việc tính toán doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh tuy đã rất
phức tạp nhưng việc tính toán chí phí còn khó khăn hơn. Chi phí hiểu theo
nghĩa chung nhất là tất cả những gì làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Người ta có rất nhiều cách tiếp cận chi phí khác nhau,và từ đó cách phân loại
khoản chi của doanh nghiệp cũng khác nhau. Có thể phân loại chi phí thành
chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm. Chi phí cho hoạt động sản xuất
thì chỉ có ở những doanh nghiệp sản, và nó thường chiếm một tỷ trọng lớn
nhất trong tổng các khoản chi phí của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư,
nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho người lao động...Do
vậy chi phí sản xuất của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các
hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản
phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính thường
xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của chi phí
sản xuất là chi phí hàng ngày gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng loại sản

phẩm và từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tổng hợp, tính toán chi
- 17-
Lợi nhuận
từ HĐKD
Doanh thu
thuần
Chi phí hoạt
động kinh
doanh
= -
Doanh thu
thuần
Tổng doanh
thu
Các khoản
giảm trừ
doanh thu
-=
=
Tổng
doanh thu
-
Chiết khấu
bán hàng
-
Giảm giá
h ng bánà
-
Hàng bán
bị trả lại

-
Giảm giá
hàng bán
-
Thuế gián
thu
phí sản xuất cần được tiến hành trong từng khoảng thời gian nhất định không
phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Để quản lý và kiểm
tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết
kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân
tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm người ta cần
phân loại chi phí sản xuất. Thông thường người ta sử dụng các phân loại chi
phí như sau:
Thứ nhất: phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi phí
có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí, theo
cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm ba nhóm yếu tố sau:
+ Chi phí vật tư
+ Lương nhân công trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung
Thứ hai: phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Cách
phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để
sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó, phân tích tác động
của từng khoản mục của chi phí đến giá thành.
Thứ ba: phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến
đổi. Phân loại chi phí theo cách này để có phương thức quản lý phù hợp với
từng loại chi phí.
Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí, các doanh nghiệp cần
phải xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại
chi phí sản xuất.
Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số

chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành
khác nhau có chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác
động của nhiều yếu tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh
nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức,
năng lức quản lý, trình độ tay nghề của công nhân...
Việc nhiên cứu cơ cấu chi phí có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp
cho doanh nghiệp:
-Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất
-Kiểm tra gía thành sản phẩm và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất thì ngoài chi phí cho hoạt động sản
xuất ra các sản phẩm còn có:
- 18-
Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng. Khối
lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp
cũng phải bỏ các chi phí nhất định
Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản
phẩm; chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển
Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: chi phí chọn lọc, đóng gói;
chi phí vận chuyển, bao bì, vận chuyển, bảo quản; chi phí thuê kho bến bãi
vv...
Chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển bao gồm: chi phí điều tra nghiên
cứu thị trường; chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; chi phí bảo hành sản
phẩm vv...tỷ trọng của chi phí này có xu hướng tăng trong điều kiện nền kinh
tế thị trường phát triển.
Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho biết lượng chi phí
cần thiết bỏ ra trong toàn bộ quá tình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tuy nhiên
nó lại không thể cho ta biết, một sản phẩm sản xuất ra thì cần bao nhiêu chi
phí. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương

án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến
lượng đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc một
khối lượng sản phẩm đó. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định giá thành
sản phẩm:
Giá thành sản phẩm được hiểu theo nghĩa chung nhất là biểu hiện bằng
tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc
để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định
Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác
nhau: chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải toàn
bộ chi phí sản xuất phát sinh sản xuất trong kỳ đều được tính vào giá thành
sản phẩm trong kỳ. Giá thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành
sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hay một khối lượng sản phẩm
nhất định, còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất
định, thời kỳ này thường là một năm
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành
sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất tiều thụ
- 19-
sản phẩm( đối với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công ) bao gồm toàn bộ
chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản
phẩm còn được gọi là giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để
hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Trên giác độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được
phân biệt thành giá thành kế hoặch và giá thành thực tế
Các doanh nghiệp hoạt động luôn phải quan tâm tới việc giảm chi phí,
hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện cơ bản để doanh
nghiệp thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể hạ giá bán để tiêu
thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, hạ giá thành là yếu tố để tăng
lợi nhuận.
Hạ giá thành sản phẩm trong kỳ được xác định cho những sản phẩm so

sánh được qua hai chỉ tiêu: mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản phẩm.
Riêng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành
thực tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản
phẩm trong cùng một kỳ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
doanh nghiệp:
- Sự tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ
- Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động
- Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính.
Ngoài cách phân loại trên, thường được các doanh nghiệp sản xuất ưa thích,
người ta còn có cách phân loại sau:
Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm các chi phí có liên quan
đến quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là
một cách tiếp cận phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Dựa vào tính chất các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được
chia thành : Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực( gọi tắt là chi phí vật
tư). Chi phí vật tư phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư.
Chi phí khấu hao tài sản cố định(KHTSCĐ), lưu ý là chi phí KHTSCĐ được
xác định dựa vào nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao và tỷ lệ KHTSCĐ. Chi
phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Chi phí bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Thuế và
các chi phí khác.
- 20-
Dựa vào nội dung các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh
được chi phí gián tiếp.
Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm: Chi phí vật tư trực tiếp. Chi phí
nhân công trực tiếp . Chi phí sản xuất chung ,… Việc tính toán các khoản mục
này cho ta biết tổng chi phí cần bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, tuy nhiên việc tính toán giá thành sản xuất cúng hết sức cần thiết để

quyết định giá bán của sản phẩm, tính toán giá thành sản xuất, dựa vào công
thức sau:
Giá thành sản xuất = Chi phí + Chênh lệch
Sản xuất Sản phẩm dở dang
Chênh lệch sản = Sản phẩm dở dang + Sản phẩm dở dang
Phẩm dở dang đầu kỳ cuối kỳ
Ngoài việc tính giá thành sản xuất ra, trong doanh nghiệp sản xuất
thường tính toán chỉ tiêu là giá vốn hàng bán:
Giá vốn = Giá thành + Chênh lệch thành
hàng bán sản xuất phẩm tồn kho
Chênh lệch thành = Thành phẩm tồn kho + Thành phẩm tồn kho
phẩm tồn kho đầu kỳ cuối kỳ
Riêng đối với doanh nghiệp thương mại:
Giá vốn hàng hoá = Giá vốn + chênh lệch hàng
hàng mua hoá tồn kho
Chênh lệch hàng hoá = Hàng hoá tồn - Hàng hoá
Tồn kho đầu kỳ tồn kho cuối kỳ
Ngoài các khoản chi phí trên, còn có các khoản chi phí khác như:
* Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho
- 21-
nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, bảo quan, khấu khao TSCĐ, chi phí vật
liêu, bao bì, dụng cụ, đồ dụng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo hành,
quảng cáo.
* Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm các chi phí quản lý kinh doanh,
quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho
ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu để dùng
cho văn phòng, KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ
phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và

các chi phí khác chung cho toàn bộ doanh nghiệp như: lãi vay, dự phòng, phí
kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí ...
Phân loại các khoản mục chi phí trên được áp dụng cho các doanh
nghiệp sản xuất, việc tính toán đưa ra công thức trên có vẻ khá đơn giản tuy
nhiên thực tế thì khó khăn hơn. Cồn đối với các doanh nghiệp thương mại tính
toán chi phí được thực hiện đơn giản hơn. Giá vốn hàng bán trong các doanh
nghiệp thương mại được tính theo công thức sau:
Giá vốn hàng hoá = Giá mua vào + Chi phí vận chuyện
Còn các khoản mục chi phí khác thì hoàn toàn tương tự.
Các công thức trên để tính toán doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu
lợi nhuận trong kỳ hoạch toán, tuy nhiên nó không thể thực sự đánh giá được
doanh nghiệp có làm ăn hiệu quả hay không. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài
chính cuối cùng, nên nó chịu tác động rất nhiều của các nhân tố chủ quan,
khách quan khác. Để đánh giá chất lượng sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp chỉ tiêu lợi nhuận và nhóm chỉ số khác nữa.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất- kinh
doanh và hiệu quả quản lý của doanh nghiệp. Nó báo gồm một nhóm chỉ tiêu
như:
- 22-
Doanh lợi tiêu
thụ sản phẩm
=
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên doanh
thu, phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trên một đồng doanh thu. Tỷ suất này
càng lớn thì doanh nghiệp được đánh giá là làm ăn có lãi, có thể sử dụng chỉ
tiêu này để so sánh giữa các thời kỳ khác nhau, cũng thấy phần nào hiệu quả
làm ăn của doanh nghiệp.
* Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( Doanh lợi vốn chủ sở
hữu) :

ROE =

Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn tự bỏ vào kinh doanh thì thu
được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ
sở hữu, đây là chỉ tiêu đặc biệt được các nhà đầu tư quan tâm khi họ quyết
định bỏ vốn vào đầu tư.
Chỉ tiêu này được so sánh qua các thời kỳ khác nhau của doanh nghiệp
và so với chỉ tiêu trung bình ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn qua các thời
kỳvà cao hơn so với trung bình ngành thể hiện sự làm ăn có hiệu quả của
doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất
trong hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Vấn đề khó khăn là tỷ lệ trung bình ngành của các chỉ tiêu không phải
dễ dàng có thể xác định được và độ chính xác không phải là tuyệt đối. Như
thực tế ở Việt Nam ta hiện nay, các tỷ số trung bình ngành của các tỷ số trên
hầu như chưa được tính toán đến.
*Doanh lợi tài sản:
ROA =
Doanh lợi tài sản là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên tổng tài sản , phản
ánh khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên một đồng giá thị tài sản đầu
tư vào sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá tình hình sử dụng
tài sản, vật tư, tiền tệ … của doanh nghiệp.Từ đó có bịên pháp thích ứng khai
thác khả năng sinh lời của tài sản, quản lý và sử dụng tài sản tiết kiệm. chỉ tiêu
này cần được so sánh với chỉ tiêu trung bình ngành và so sánh giữa các thời kỳ
với nhau mới thấy được hiệu quả của quá trình sử dụng tài sản.
*Tỷ suất lợi nhuận giá thành
Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận so với
giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ
- 23-
Công thức ;
t

Z
P
g
T
=
Trong đó:
T
g
; tỷ suất lợi nhuận giá thành
P; lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
Z
t
: giá trị toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiẹu thụ trong kỳ
Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả
của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Nó cho biết cứ 100
đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Việc sử dụng nhóm chỉ tiêu trên giúp chúng ta thấy được hiệu qủa hoạt
động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ và so với các
doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực. Tuy nhiên, nó không giúp ta thấy được
những nhân tố nào ảnh hưởng tới lợi nhuận. Để làm được việc này cấn phải sử
dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, nhà
phân tích tài chính sẽ biết được nguyên nhân dẫn tới hiện tượng tốt xấu trong
hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số
tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như doanh lợi vốn chủ sở
hữu (ROE) hay doanh lợi tài sản (ROA) thành tích các tỷ số có quan hệ nhân
quả với nhau.
ROE = = x = ROA x EM
EM gọi là số nhân vốn, phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của
doanh nghiệp. EM càng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp càng lớn.

ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng VCSH – mức tăng tài sản cho
vốn chủ sở hữu. Còn ROA ( Thu nhập sau thuế trên tài sản) phản ánh mức sinh
lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp.
- 24-
Ta có thể phân tích phương pháp Dupon:
- 25-
(:)(:)
(-)
+
DL tài sản Số nhân vốn
TNST Doanh thu Tài sản VCSH
Doanh thu
Tổng chi
phí
TSCĐ
TSLĐ
Giá vốn
Thuế
TNDN
Chi phí
bán hàng
Chi phí
QLDN
Chi phí
HĐTC
Chi phí
bất thường
Giá trị
CLTSCĐ
Đầu tư TC

dài hạn
Tiền
Đầu tư TC
ngắn hạn
Phải thu
Tồn kho
TSLĐ
khác
DL vốn chủ
Chi phí cố định (F)

×