Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

TƯ TƯỞNG DÂN BẢN PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ PHƯƠNG TÂY – NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.78 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

Đề tài tiểu luận triết học:
TƯ TƯỞNG DÂN BẢN PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TƯ TƯỞNG
DÂN CHỦ PHƯƠNG TÂY – NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ
KHÁC BIỆT

Học Viên: Huỳnh Kim Thanh Tuyền
Lớp: IBK30 20C1GLO60300202
Môn học:
Giảng viên:
Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 05 năm 2021


Mục lục
1) Giới thiệu doanh nghiệp.........................................................................................................................3
2) Các hoạt động tạo ra giá trị doanh nghiệp..............................................................................................4
2.1 Phân phối sản phẩm cho các chuỗi siêu thị/đại lý:.............................................................................4
2.2 Phân phối sản phẩm khách hàng lẻ:...................................................................................................4
2.3 Sàn thương mại điện tử:....................................................................................................................4
3) Khảo sát lý thuyết, rà soát các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp/tổ
chức hoạt động trong ngành:.......................................................................................................................4
3.1 Sản phẩm nhanh lỗi thời:...................................................................................................................4
3.2 Thiếu hụt linh kiện sản xuất dẫn đến giá thành tăng:.........................................................................4
3.3 Trao đổi thông tin giữa công ty và nhà cung cấp chưa được hệ thống hóa:.......................................5
3.4 Nhà phân phối thường khơng quan tâm về xây dựng thương hiệu:...................................................5
4) Vận dụng các kết quả nghiên cứu để đưa ra các ý kiến cải thiện hoạt động kinh doanh cho cơng ty:.....5
4.1 Hệ thống hóa thông tin, trao đổi thông tin hiệu quả:..............................................................................5
4.2 Đánh giá mối quan hệ với nhà cung cấp chiến lược:.............................................................................6
Tài Liệu Tham Khảo...................................................................................................................................8



2


1/ Tư tưởng dân bản phương Đông:
Tư tương
2/ Tư tưởng dân chủ phương Tây:

3/ Những tương đồng và khác biệt:
Sự khác nhau trong thái độ và quan niệm về dân chủ đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay.
Khái niệm dân chủ, như nhiều người quan niệm, dường như là một sản phẩm của văn
minh phương Tây, đúng hơn là văn minh Hy Lạp. Khi nói về những thể chế chính trị,
khái niệm này được đặt đối lập với khái niệm quân chủ, tức là sự đối lập một hình thức
quyền lực nhà nước, trong đó quyền lực thuộc về tất cả mọi cơng dân và một hình thức
khác, trong đó quyền lực thuộc về một cá nhân. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, khái
niệm dân chủ đường như đều được hiểu như là một phương thức quan hệ giữa các cá
nhân, trong đó các quyền và nghĩa vụ của các cá nhân được tôn trọng tuyệt đối.

Các nước phương Tây có xu hướng tuyệt đối hố các tiêu chuẩn của dân chủ do họ đưa
ra, còn các nước phương Đơng thì có xu hướng đưa ra một quan niệm khác.
Nói về nhà nước tư sản, Lenin nhận định rằng đó là nhà nước của số ít, nhằm bảo vệ lợi
ích của số ít những kẻ bóc lột. Lenin cũng nói rằng nhà nước chun chính vơ sản là nhà
nước của nhân dân lao động, tức là của số đơng, bảo vệ quyền lợi của số đơng. Ơng
khẳng định rằng chính vì thế mà “dân chủ vơ sản một triệu lần dân chủ hơn dân chủ tư
sản”.
Nhận định của Lenin dựa trên những phân tích của ơng đối với chủ nghĩa tư bản đương
thời.
Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là nếu như quả thật bản chất của nhà nước vô sản thuộc về
số đông, phản ánh những nguyện vọng của số đơng, nó đồng thời cũng là loại nhà nước
dễ bị đánh cắp quyền lực nhất. Đó là kiểu nhà nước thiếu những nguyên lý kiểm soát chặt

chẽ cần thiết.

3


Tuy nhiên, tất cả các hình thức dân chủ đó, cho dù có những hình thức chống đối nhau,
lại đều dựa trên những quan niệm và tiêu chuẩn rõ ràng. Những đặc điểm và tiêu chuẩn
đó có thể quy về những điểm mấu chốt sau đây:
– Tiêu chuẩn chính trị: Bầu cử tự do và công bằng, quản lý nhà nước bằng ý chí của mọi
cơng dân.
– Tiêu chuẩn văn hoá – xã hội: Sự ý thức và khả năng thực tế của các công dân về quyền
hạn và nghĩa vụ của mình.
Cịn ở phương Đơng có dân chủ khơng? Và nếu có, thì có hay khơng cái gọi là hình thức
đặc thù của dân chủ phương Đơng?
Theo chúng tơi, do tính chất nửa vời về quan niệm sở hữu, sự phân hố giai cấp trong xã
hội phương Đơng khơng sâu sắc như ở phương Tây. Chính vì thế, hình thức dân chủ sơ
khai xuất hiện ở phương Đông sớm hơn, nhưng lại tồn tại được dạng sơ khai lâu hơn.
Những đặc điểm đó của xã hội phương Đơng khiến cho nhiều người đặt ra câu hỏi về một
hình thức riêng biệt của dân chủ ở phương Đông.
Dân chủ phương Đơng có phải là dân chủ khơng? Câu trả lời khẳng định có vẻ như là tất
yếu.
Thế nhưng vấn đề không đơn giản như thế. Vấn đề là sẽ rất khơng thích hợp nếu đem
những thước đo của phương Tây vào áp đụng với những điều kiện của châu Á hiện nay.
Có một thực tế rất hài hước là trong khi các nước phương Tây ra sức đấu tranh để “bảo
vệ” những quyền lợi của dân chúng Trung Quốc hay ở Malaysia thì trên thực tế dân
chúng ở đó lại khơng hề cảm thấy cần thiết những quyền đó, hay thậm chí cịn khó chịu.
Một ví dụ là vấn đề quyền trẻ em. Có thể ở Hoa Kỳ trẻ em có thể kiện bố ra tồ nhưng có
lẽ ở châu Á đó chỉ có thể là một hành độngphi đạo đức.
Có một thực tế là trong mấy thập kỷ qua, những nước có nền kinh tế phát triển nhanh
nhất ở châu Á (và cũng là của thế giới) phần lớn đều là những nước bị phương Tây chỉ

trích là độc tài, phi dân chủ. Ngay ở trong mỗi nước, nhiều khi cũng thấy rằng các chính
phủ “độc tài” dường như lại có ích cho đất nước hơn là những chính phủ dân chủ.
Một ví dụ là chính phủ độc tài Pak Chong Hui đã đem đến cho Hàn Quốc nhiều lợi ích
hơn hẳn so với những chính phủ dân chủ trước ông, đặc biệt chính phủ của Syngman
Rhee. Kết luận này có thể được hỗ trợ bởi Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, và Pinochet ở
Chile. Đưa ra những nhận xét trên đây khơng phải chúng tơi nhằm mục đích bào chữa
cho các chế độ độc tài, mà để thấy rằng không nên vội vã quy kết một chế độ hoặc một xã
hội, cũng khơng thể hồn những q trình kinh tế với chế độ chính trị một cách giản đơn.
4


Trái lại, cần phải nhìn nhận dân chủ như một khái niệm hết sức tương đối có tính chất
lịch sử và gắn liền với truyền thống văn hoá.
Trên thực tế, nói đến phương Đơng là nói đến một thế giới cực kỳ đa dạng cả về văn hố,
chế độ chính trị, tơn giáo, đến dân tộc và trình độ phát triển kinh tế. Ba tỷ dân đang sống
ở khu vực này. Ở đây có những quốc gia lâu đời như Trung Quốc, Ấn Độ và những quốc
gia rất trẻ như Singapore; những nước cộng sản như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên
và những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới như Nhật Bản, những nước quân phiệt
như Miến Điện; những nước giàu như Nhật Bản và những nước nghèo như Việt Nam,
Campuchia và Miến Điện; những nước cực lớn như Trung Quốc với hơn một tỷ dân với
những nước bé nhỏ như Bruney chi vẻn vẹn 300 000 dân; cả đạo Phật, đạo Hồi và đạo
Thiên Chúa đều có mặt tại đây.
Sự khác nhau lớn đến nỗi thật khó mà có thể tìm ra một sự đồng nhất cho cái gọi là
“Cộng đồng châu Á”. Sự khác nhau còn được tăng thêm bởi những mâu thuẫn và cả
những đụng độ về tôn giáo, sắc tộc, kinh tế, lãnh thổ và ý thức hệ. Tuy thế, theo chúng
tơi, có thể tìm ra những điểm chúng, nhưng hồn tồn khơng phải là trong những lĩnh vực
mà chúng ta vừa mới điểm qua. Đó là:
1, Trình độ dân trí: Mặc dù châu Á từng là nơi có nền văn minh phát triển cao nhất thế
giới trong phần lớn lịch sử nhân loại, nó đã bị thụt lùi nghiêm trọng trong vòng vài thế kỷ
gần đây. Khi nói đến dân trí, chúng tơi khơng chỉ đề cập, đúng hơn là khơng nhấn mạnh

đến trình độ học vấn của dân chúng, mà chủ yếu là nói đến trình độ giác ngộ của dân
chúng về những quyền của họ. Thực vậy, do sự bưng bít của các nhà nước, do sự dốt nát
của quần chúng và nhất là do những khó khăn triền miên về kinh tế khiến cho người dân
luôn luôn luẩn quẩn qua nhiều thế hệ với những mục đích kiếm sống nhỏ nhặt của mình,
đến nỗi chưa bao giờ họ có điều kiện để ý thức về những quyền lợi của mình. Trong khi
đó, tơn giáo đã góp phần củng cố tình trạng tối tăm này. Đó là chưa nói đến một số nhà
cầm quyền trong lịch sử đã cố tình kẻo đài tình trạng ngu dân để giữ vững địa vị của
mình.
2, Truyền thơng sở hữu: ở trên chúng tơi đã nói đến vấn đề sở hữu và cái gọi là “phương
thức sản xuất châu Á”. Cho đến gần đây, tại các quốc gia nông nghiệp này, ruộng đất vẫn
thuộc về sở hữu của nhà nước. Chính cơ sở kinh tế này đã đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài
của chủ nghĩa phong kiến châu Á. Đó cũng chính là lý do khiến cho Chủ nghĩa Cộng sản
được tiếp nhận tương đối dễ dàng.
3, Chủ nghĩa gia trưởng: Truyền thống gia trưởng ăn sâu vào tâm thức xã hội đến mức nó
trở thành quy tắc ứng xử được chấp nhận như một lẽ đương nhiên. Chính chủ nghĩa gia
trưởng hỗ trợ cho nguyên tắc đề cao những người đứng đầu cộng đồng. Vì thế, dân chúng
5


ở châu Á có thể chấp nhận tương đối dễ dàng những chế độ độc quyền. Cuộc khủng
hoảng tiền tệ làm điêu đứng những nền kinh tế mạnh nhất khu vực châu Á cuối năm 1997
buộc người ta phải nhìn nhận lại cái gọi là “những giá trị châu Á”.
Nhiều năm qua, sự thành công cũng như sự đổ vỡ của các nước châu Á đều dựa trên một
cơ sở xã hội quan trọng: Quyền kiểm sốt hồn tồn đời sống kinh tế và xã hội của các
lãnh tụ chính trị được sự chấp nhận của dân chúng, những người hài lòng với những tiến
bộ kinh tế và để đàng bỏ qua khía cạnh dân chủ của đời trong xã hội. Thực chất của sự
quản lý xã hội kiều này là sự liên kết giữa các doanh nghiệp và chính phủ, điều có thể
được chấp nhận gần như vơ điều kiện đó những truyền thống của một xã hội gia trưởng
và ở vài nước có cả vai trị của Khổng Giáo với tư cách là nền tảng tư tưởng. Ở một vài
nước như Đài Loan và Hàn Quốc, ngay trong thời kỳ họ làm nên sự thần kỳ kinh tế, đã

từng nội trị chế độ gia đình trị. Ở Indonesia và Malaysia, quyền lực của tổng thống
Suharto và thủ tướng Mahathir Mohammad gần như là bất khả xâm phạm và đảm bảo
cho những mối liên hệ của kinh tế với chính trị trở nên bền vững. Ở Trung Quốc và Việt
Nam, mọi chính sách quản lý kinh tế, chính trị, xã hội đều do Đảng Cộng Sản quyết định.
Thế nhưng thực tế đã có vẻ có những đổi thay. Nhật Bản từ lâu đã trở thành một xã hội
kiểu phương Tây và cái gọi là “truyền thống tin cậy” vẫn đóng vai trị nền tảng của cơng
ty Nhật đang dần dần có xu hướng bị thay thế bởi các nguyên tắc trách nhiệm và phục
tùng theo kiểu phương Tây. Hàn Quốc và Đài Loan mới đây đã tiến những bước dài cũng
theo hướng đó. Ở Thái Lan, lndonesia và Malaysia đang diễn ra những tình hình mới.
Những Cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra ở hàng loạt nước châu Á có nguyên
nhân trực tiếp là sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế, tình trạng nợ nần, sự lãng
phí và tham nhũng, nhưng nguyên nhân sâu xa là sự bành trướng và lũng loạn của quyền
lực chính trị vào các hoạt động kinh tế. Sự lũng loạn này tạo điều kiện cho tệ bè phái, gia
đình trị phát triển, vơ hiệu hố hoạt động của ngân hàng và của cơng tác hoạch định chiến
lược kinh tế.
Chúng ta có thể nói một điều chắc chắn: châu Á có nhiều điều phải thay đổi. Và phương
hướng không thể khác hơn là tách riêng quyền lực nhà nước khỏi các hoạt động kinh tế,
xoá bỏ chủ nghĩa bè phái trong điều hành xã hội và chống tham nhũng. Và điều này
không hề làm giảm quyền lực nhà nước mà trái lại, càng làm cho nhà nước độc lập hơn,
thoát khỏi sự chi phối của đồng tiền.
Chúng ta cũng có thể khẳng định: bất chấp những khác biệt về trình độ phát triển và
những khác biệt về văn hố, dân chủ có những tiêu chuẩn và giá trị mang tính phổ quát.
Bản chất của dân chủ dù ở phương Đông hay phương Tây đều là sự tôn trọng các quyền
của cá nhân, là sự nhận thức được các quyền ấy của cá nhân và cấu trúc nó thành ra các
quyền pháp định
6


Sự khác biệt chính giữa triết học phương đơng và phương tây là gì?
Tơi đã nghiên cứu điều này trong hai ngày nay và thật khó để hiểu tất cả những khác biệt

mang lại lịch sử triết học lâu dài ở phương Đông và phương Tây, nhiều trường phái triết
học được thực hành ở cả hai khu vực và khó khăn trong việc xác định 'phương đông' và
'miền Tây'. Tuy nhiên, tôi muốn liệt kê một vài điểm khác biệt mà một vài ngày nghiên
cứu đã tiết lộ.
Hệ thống chính thức
Triết học phương Tây đã sớm thích các hệ thống chính thức. Một hệ thống chính thức là
một mơ hình tốn học cho thực tế
.
Nó bắt đầu bằng các ký hiệu, thuộc tính của chúng (tiên đề) và các quy tắc để thao tác
chúng. Hình học của Euclid là một ví dụ ban đầu của một hệ thống chính thức. Trong khi
các nhà tư tưởng phương đông đã nghiên cứu tốn học và hình học, họ đã khơng gắn nó
với một chủ nghĩa hình thức gây khó khăn cho việc khái qt hóa. Ví dụ, tốn học Vệ Đà
đưa ra các quy tắc (hoặc thủ thuật) khác nhau để nhân các loại số khác nhau (kết thúc sau
5 giây, kết thúc sau 9 giây, v.v.) trong khi toán học phương tây hài lòng với một quy tắc
chung.
Thực tế Platonic
Ý tưởng về hiện thực Plonic luôn luôn nổi bật trong triết học phương Tây. Đó là, các biểu
tượng có một cuộc sống của riêng chúng và đáng để nghiên cứu mà khơng có bất kỳ mối
quan hệ với thực tế. Tốn học và khoa học Ấn Độ luôn gắn liền với các vấn đề thực tế. Ví
dụ, hình học tiếng Phạn đầu tiên có liên quan đến việc xây dựng các bàn thờ thần, v.v.
trong khi Euclid khơng có mối quan tâm như vậy.
Chủ nghĩa hoàng đế

7


Chủ nghĩa hoàng đế đã phổ biến hơn ở phương tây. Empericism là ý tưởng rằng "sự thật"
duy nhất là nhận thức cảm tính. Triết học phương Đơng đã chấp nhận nhiều hơn các
phương thức nhận biết khác.
Có thể có ngoại lệ cho bất kỳ tuyên bố nào về điều này, nhưng sự khác biệt chính là các

triết học phương Tây (WP) là nhị nguyên và do đó duy vật trong khi phương Đơng (EP)
thì khơng. Bằng "nhị ngun", tơi khơng nói đến thuyết nhị ngun của tâm trí / cơ thể
của Descartes mà là sự đồng nhất với một tâm trí / cơ thể và hậu quả là sự đồng nhất với
phần còn lại của thực tế. Điều này dẫn đến một số niềm tin sai lầm và cuối cùng chịu
trách nhiệm cho tất cả đau khổ. Những niềm tin như "Tơi là một người. Vật chất là có
thật, chỉ có * vật chất là có thật và nó tồn tại độc lập với tơi".
Cốt lõi huyền bí của tôn giáo là nền tảng của EP, trong khi tôn giáo và triết học ngày
càng ly dị ở phía tây. Điều này có vẻ là do sự phát triển của khoa học và tư duy hợp lý,
nhưng chính cách tiếp cận khoa học đã nảy sinh từ thuyết nhị nguyên, niềm tin vào bản
thân, độc lập với thế giới, hành động và làm chủ nó để đưa nó vào sử dụng. Khoa học nảy
sinh từ cùng một quan điểm đã làm giảm tôn giáo thành một vị thần gia trưởng, một
người cha trên bầu trời với tính cách con người, ln tách biệt nhưng ln ln nói về
những chủ đề bất lực của mình. Một viễn cảnh như vậy dẫn đến các triết lý thống nhất về
các câu hỏi về ý nghĩa và phương hướng, chỉ cịn lại phân tích hợp lý để áp dụng cho các
câu hỏi như ý chí tự do và đạo đức, do đó khơng đi đến đâu và khơng thể thực hiện mục
đích của chúng. Trong EP những câu hỏi này không phát sinh; Nếu bạn xem bản thân
mình khơng khác biệt với thế giới thì khơng có sự khác biệt giữa diễn xuất cho chính
mình và diễn xuất cho mọi người.
Tất nhiên, cách tiếp cận phương tây không phải là tất cả xấu. Tốt hơn hết là đừng ngồi
trong lán bùn chết vì bệnh. Nhưng bây giờ, internet đang xóa bỏ sự khác biệt giữa đông
và tây, đã đến lúc tận dụng tốt nhất cả EP và WP, nhận ra rằng có, chúng ta có thể làm
cho cuộc sống vật chất của mình thoải mái, nhưng đó khơng phải là mục đích của cuộc
sống và tin rằng nó sẽ chỉ dẫn đến đau khổ.
* Gần đây Einstein đã cho thấy sự thống nhất giữa vật chất và năng lượng, vốn là vấn đề
đối với chủ nghĩa duy vật vì năng lượng khó xác định, phải làm với sự biến đổi của vật
chất.
Triết học phương Tây là một truyền thống duy nhất được phát triển trong buổi hịa nhạc,
triết học phương Đơng khơng hồn tồn liên kết với nhau, nhưng phát sinh trong các nền
văn hóa khác nhau với các truyền thống khác nhau. Nói cách khác, Leibniz và Descartes
và Kant đều đọc cùng một triết gia cổ đại, nhưng, Santideva đến từ một nền văn hóa Phật

8


giáo Ấn Độ, Mozi đến từ văn hóa Nho giáo Trung Quốc, v.v. Triết học phương Tây có
cấu trúc nguyên khối nhiều hơn triết học phương Đông, trên thực tế, triết học phương
Đông chỉ là phương Đông theo quan điểm của văn hóa nguyên khối của triết học phương
Tây.
Điều đó đang được nói, có một số phiếu tự đánh giá có sẵn để so sánh rộng rãi tư tưởng
phương Đơng và phương Tây, nhưng, chúng ta phải nhớ rằng khi chúng ta làm như vậy
chúng ta đang làm điều này từ quan điểm phương Tây. Một phiếu tự đánh giá là Sự gần
gũi và Chính trực, được Thomas Kasulis nêu ra trong một cuốn sách có tên này. Những
phạm trù này phải liên quan đến bản thân và mối quan hệ với thế giới, bản thân và mối
quan hệ với người khác, bản thân và quá trình nhận dạng và tự hình thành của nó. Trong
một nền văn hóa liêm chính, bản thân chống lại thế giới (phân chia đối tượng chủ thể),
tách biệt với những người khác và tự nhận mình là một cá nhân. Trong một nền văn hóa
của sự thân mật, bản thân khơng thể tách rời khỏi thế giới, có liên quan mật thiết với
người khác và tự nhận mình theo các mối quan hệ mật thiết mà cơ ấy có với người khác.
Ở phương tây, chúng ta nói về bản thân mình bằng cách trước tiên nói về những gì chúng
ta làm cho cơng việc và những thứ cá nhân khác, trước khi chúng ta nói về mối quan hệ
của mình với người khác, trong khi ở phía đơng, một người có nhiều khả năng bắt đầu
nói về bản thân họ bằng cách thiết lập các mối quan hệ họ có với người khác. Những loại
khác biệt văn hóa này tạo ra sự khác biệt cơ bản trong cách tiếp cận đạo đức, siêu hình
học, nhận thức luận, thẩm mỹ và như vậy.
Một cách khác để so sánh rộng rãi tư tưởng phương đông và phương tây đã được Richard
E. Nisbett khám phá trong cuốn Địa lý tư tưởng. Đã khá lâu kể từ khi tôi đọc cuốn sách
này, nhưng tôi nhớ rằng một trong những khác biệt quan trọng mà anh ấy nhấn mạnh là
sự khác biệt giữa trọng tâm ở tiền cảnh và hậu cảnh. Chúng ta có thể nhìn vào sự khác
biệt này bằng cách so sánh nghệ thuật Phục hưng với nghệ thuật Zen và hỏi tơi phải làm
gì khi nhìn vào bức tranh này? Trong một thời kỳ nhất định của nghệ thuật Thiền, các
nghệ sĩ sẽ tạo ra những cảnh quan rộng lớn được bao quanh bởi những túp lều và lối đi,

những dịng sơng và thung lũng và những ngọn núi cao vút. Ý định của những bức tranh
này là tạo ra cảm giác yên bình khi kết nối với phong cảnh, người ta phải tưởng tượng
mình bên trong bức tranh, lang thang trên những con đường, chiếm túp lều. Câu chuyện
của bức tranh liên quan đến việc bạn bước vào phong cảnh và đi bộ về nó. Mặt khác, hội
họa Phục hưng có một chủ đề rõ ràng, thường có ý nghĩa ngụ ngơn rõ ràng. Chúng ta
không được cho là chiếm lĩnh bức tranh như chúng ta phải đối đầu với bức tranh, thấm
nhuần bức tranh trong chúng ta một tình cảm nhất định và đánh giá cao vẻ đẹp của tác
phẩm. Làm như vậy chúng ta tơn vinh lồi người.
Câu hỏi: Sự khác biệt rất lớn giữa triết học phương Tây và triết học phương Đơng là gì?

9


Tôi đã chờ đợi một vài ngày để trả lời câu hỏi này bởi vì tơi khơng chắc câu trả lời của
mình có tốt khơng, nhưng sau nhiều suy nghĩ tơi tin rằng nó khá hồn chỉnh.
Ở Hy Lạp cổ đại, khi triết học phương Tây đang phát triển vào thời kỳ tiền Socrates, thì
thần thoại cũng là quan điểm tôn giáo của thời đại. Nhiều tên của thời đại, như Homer,
cảm thấy họ có thể giải thích thế giới thông qua các tác phẩm thần thoại về các sự kiện
được cho là xảy ra trong quá khứ. Những người khác, như Thales, cảm thấy như thể đang
quan sát thế giới và cố gắng tìm ra cách nó hoạt động là cần thiết để đạt được kiến thức.
Theo thời gian, hai trường phái tư tưởng này tách ra do phương pháp mà cả hai đều sử
dụng và, do đó, chúng vẫn là những hình thức tư duy riêng biệt trong thế giới phương
Tây. Sẽ không đến thời Trung cổ nơi mà thần học và triết học hợp nhất khá nhiều, nhưng
ngay cả khi đó sự hợp nhất này rất hạn chế. Các ý tưởng tôn giáo của các nhà triết học
trong thời trung cổ, mặc dù được coi trọng, nhưng khơng bao giờ thực sự có được chỗ
đứng và do đó hai người vẫn giữ nguyên các kiến thức riêng biệt.
Ở Trung Quốc cổ đại và Ấn Độ, nơi phần lớn triết học phương Đông phát triển, tôn giáo
và triết học thực sự đã trộn lẫn. Niềm tin cá nhân của những người như Khổng Tử và Phật
ảnh hưởng rất nhiều đến cách suy nghĩ của họ về thế giới. Quan điểm tơn giáo của họ về
cách đạt được hịa bình và tạo ra những xã hội tốt nhất ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm

của họ và, như vậy, tôn giáo và triết học đã trộn lẫn. Trên thực tế, hầu hết các câu hỏi của
Triết học phương Đông đều liên quan đến bản chất con người và làm thế nào con người
có thể tìm thấy hịa bình. Nó tập trung rất ít vào bản chất của vũ trụ xung quanh chúng ta
và do đó, vẫn khác biệt đáng kinh ngạc với triết học phương Tây. Trên thực tế, trong khi
triết học phương Tây thay đổi theo thời gian trong đó các trường phái tư tưởng triết học là
phổ biến, thì Nho giáo vẫn là trường phái tư tưởng phù hợp nhất đối với hầu hết lịch sử
Trung Quốc và cho đến ngày nay vẫn còn.
Vậy, một trong những khác biệt chính giữa triết học phương Tây và phương Đơng là gì?
Rất đơn giản,
đó là cách mà cả hai đều phản ứng với ảnh hưởng tôn giáo.
Trong khi triết học phương Tây phát triển và vẫn là một lĩnh vực kiến thức riêng biệt từ
thần thoại Hy Lạp và thần học Kitơ giáo, thì triết học phương Đơng đã trộn lẫn các quan
điểm tôn giáo của thời kỳ với các triết học. Như vậy, hai triết lý khác nhau
nói chung

10


hỏi những câu hỏi rất khác nhau. Trong khi Triết học phương Tây ln có một thành
phần siêu hình lớn, thì Triết học phương Đơng đã phát triển nhiều hơn để tập trung đặc
biệt vào bản chất con người và làm thế nào chúng ta có thể đạt được hịa bình trong cuộc
sống.
Như vậy, hai trường phái triết học đã phát triển những ý tưởng vô cùng khác nhau về
những gì tạo nên sự thật. Tuy nhiên, tơi nên lưu ý ở đây rằng tách triết học thành 'phương
Tây' và 'phương Đông' là không rõ ràng. Tất cả mọi thứ được nói trong câu trả lời này
phải được nói một cách rất chung chung về hai điều này và không thể áp dụng cho tất cả
các trường phái thuộc một trong hai hình thức triết học. Trên thực tế, giống như một ví dụ
về sự bất lịch sự của nó, Triết học Hồi giáo rất giống với Triết lý 'Phương Tây' đồng thời
chia sẻ một số phẩm chất của Triết học 'Phương Đông'. Trên thực tế, Triết học Hồi giáo
đã có quyền truy cập trực tiếp vào cả hai nguồn Plato và Aristotle trong khi cũng có

quyền truy cập vào một số tác phẩm triết học ở xa hơn và do đó, nó đã phát triển một loại
hỗn hợp của cả hai. Bên cạnh đó, các xã hội Hồi giáo thời đó cực kỳ tơn giáo và thường
pha trộn thần học của họ với triết học. Vì vậy, đồng thời, nó là cả một loại hỗn hợp triết
học 'phương Tây' và 'phương Đông', một khu vực nơi hai thế giới gặp nhau. Đó cũng là
điều riêng của nó vì nó đã phát triển một hỗn hợp với tôn giáo đồng thời ủng hộ một đức
tin độc thần, khác nhiều với thuyết phiếm thần và đa thần phổ biến trong triết học phương
Đơng. Tuy nhiên, nó được coi là một hình thức của triết học 'phương Đông' mặc dù
những đặc điểm vơ cùng độc đáo thực sự làm cho nó trở nên độc đáo. Có rất nhiều ví dụ
về điều này và, sự thật được nói, "Triết lý phương Đơng" và "phương Tây" khơng có
nghĩa là hợp nhất và rất đa dạng
trong chính họ
vì triết học là một chủ đề đầy những ý tưởng cạnh tranh.
Vì vậy, thực sự, tồn bộ sự khác biệt của triết học 'phương Tây' và 'phương Đơng' là vơ
cùng độc đốn ngay từ đầu.
Sự khác biệt chính là
thái độ đối với biện chứng
.

11


Có rất nhiều triết lý châu Âu, và có rất nhiều triết lý từ bên ngoài châu Âu. Cố gắng để ăn
mòn tất cả mọi thứ vào phương Tây và phương Đông với một số đặc điểm rõ ràng gọn
gàng là một bài tập vơ ích.
Tuy nhiên, có khá nhiều chủ đề phổ biến. Khơng có gì mà bạn có thể sử dụng để tập hợp
tất cả dưới một biểu ngữ, nhưng có một số chủ đề định kỳ mọc lên ở châu Âu nhiều hơn
ở mọi nơi và ngược lại.
Nếu chúng ta lấy triết học phương Đơng có nghĩa là triết học của miền nam và miền đông
châu Á, thì một trong những chủ đề phổ biến nhất là ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, thông
qua Phật giáo. Lưu ý tơi nói một chủ đề chung, khơng phải là một chủ đề phổ qt, bởi vì

có rất nhiều triết lý và tôn giáo cổ điển của Ấn Độ trước Phật giáo, như Vedas, và có rất
nhiều triết học cổ điển Trung Quốc trước khi Phật giáo đến Trung Quốc; Khổng Tử có
thể sống cùng thời với Đức Phật, nhưng Nho giáo cổ điển về cơ bản là tiền Phật giáo vì
nó phát sinh trước khi Phật giáo đến Trung Quốc. Điều đó đang được nói, Phật giáo đã đi
từ Ấn Độ vào Đông Nam Á, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, trong số những nơi
khác, và gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến các truyền thống triết học mà nó gặp phải. Vì vậy,
trong nhiều triết lý của khu vực, bạn có một dịng ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, Phật giáo
là một trường phái khơng chính thống của Ấn Độ giáo.
Một điểm khác biệt là thái độ đối với phép biện chứng. Triết học phương Tây tập trung
nhiều vào tranh chấp, mang tính biện chứng nặng nề, hơn cả hầu hết các triết lý của Đông
và Nam Á. Điểm này là khó khăn hơn nhiều so với lần trước bởi vì có nhiều ngoại lệ.
Triết học Ấn Độ có nhiều hơn trong cách tranh luận và lập luận chặt chẽ với sự chú ý đến
ngữ nghĩa hơn là triết học Trung Quốc, ví dụ. Nó vẫn dựa trên các bài thánh ca Vệ đà và
những bài thơ mà bạn có thể tìm thấy trong Upanishad, có hình thức các bài thánh ca và
câu chuyện thường xuyên hơn các chun luận, mặc dù ở đó
Chúng tơi
một số chun luận ở đó. Trên thực tế, sự xuất hiện của Phật giáo đến Trung Quốc từ Ấn
Độ đã tạo ra sự kích thích cho các phương thức tư tưởng truyền thống ở Trung Quốc
được thể hiện rõ ràng theo cách mà trước đây họ chưa từng thấy, bởi vì Phật giáo đã đưa
ra một phương thức lý luận biện chứng chính xác hơn cho Trung Quốc. Một ngoại lệ
khác là Mohism. Người Mohammed, người đã có nhiều tiến bộ về khoa học, toán học và
kỹ thuật, đã nhấn mạnh rất nhiều đến tranh luận là phương thức lý luận và theo đuổi sự
thật thống trị của họ, và Mohism thậm chí còn phát triển thêm một trường học nữa

12


Minh Gia
hoặc Trường Tên, tập trung vào ngữ nghĩa. Sự tập trung vào ngữ nghĩa này đã được kết
hợp sâu hơn vào dòng suy nghĩ của Nho giáo, và sự cải chính của những cái tên mà thậm

chí cịn được đặt vào trong Luận ngữ; một số học giả nghĩ rằng đây là một phép nội suy
của tư tưởng Mohist cụ thể.
Các ngoại lệ, tuy nhiên, thường chứng minh quy tắc. Trong những năm 1800, một số trí
thức Trung Quốc, những người muốn Trung Quốc bắt kịp châu Âu và hiện đại hóa, đã
bắt đầu tìm kiếm triết học Trung Quốc lịch sử cho một cái gì đó tương tự như tư tưởng
phương Tây. Họ đã tìm thấy gì? Tất nhiên, chủ nghĩa Mohammed. Trường phái Mohist
đã chết từ lâu vào những năm 1800, nhưng thực tế là các học giả Trung Quốc thời đó đã
nhận ra sự tương đồng của nó với tư tưởng phương Tây sẽ cho bạn biết điều gì đó về ưu
thế của phép biện chứng trong tư duy phương Tây. Mohism là biện chứng, vâng, nhưng
nó đã chết vì đơn giản là nó khơng thể tồn tại trong bối cảnh văn hóa của nó. Bạn có thể
nói điều gì đó tương tự về ảnh hưởng của Hy Lạp đối với triết học Hồi giáo. Lập luận về
Người đàn ông nổi của Avicenna đã đưa ra một cái gì đó giống như thuyết nhị ngun
của Cartesian, hàng thế kỷ trước Descartes và đây là kết quả của ảnh hưởng của Hy Lạp
đối với tư tưởng Hồi giáo, nhưng thành phần biện chứng của Hy Lạp trong triết học Hồi
giáo không thể tồn tại xung đột với chính Hồi giáo. Chỉ có ở châu Âu nơi phương pháp
biện chứng thực sự phát triển mạnh mẽ.
Hịa bình so với hòa hợp
Ở Mỹ, mọi người cứ tranh cãi về quyền lợi, nhưng điều chúng ta cần là cân nhắc.
Tại chùa Thiền mà tôi ở, tôi đã thảo luận với vị sư trưởng về cách suy nghĩ của phương
Đông ảnh hưởng đến sự tương tác giữa các cá nhân ở Châu Á. Trước đây, khơng có từ
nào cho hịa bình 平和 trong tiếng Nhật, chỉ có sự hịa hợp. Ở phương Tây khi chúng ta
nói về hịa bình, ai đó ln mang lại hịa bình cho người khác, đơi khi thậm chí cịn ép
buộc họ. Nó khơng đồng đều.
Nhưng trong sự hài hịa, có sự cùng tồn tại.
Giáo dục

13


Ơng mơ tả sự hài hịa như bắt chéo tay của bạn với nhau. Khơng có gì bắt buộc với bất cứ

ai. Chẳng hạn, chúng ta sống chung với thiên nhiên. Nơi hai bàn tay tôi bắt chéo là nơi
chúng ta hiểu nhau. Nhưng trong khi có thể có một số điều mà chúng ta có thể khơng
nhìn thấy, nơi cánh tay của chúng ta không chạm vào, một số điều tôi không hiểu về bạn,
tôi không bận tâm. Tôi chỉ chấp nhận nó.
Mảnh vỡ so với tồn diện
"Theo Fritjof Capra, sự nhấn mạnh của suy nghĩ hợp lý được tóm tắt trong tuyên bố nổi
tiếng của Descartes, 'Cognito, ergo sum' - 'Tơi nghĩ, do đó, tơi tồn tại.' Điều này đã
khuyến khích người phương Tây đánh đồng bản sắc của họ với lý trí của họ hơn là với
tồn bộ sinh vật. Sự phân chia giữa tâm trí và cơ thể đã dẫn đến một quan điểm về vũ trụ
như một hệ thống cơ học bao gồm các vật thể riêng biệt, lần lượt bị giảm đến các khối
xây dựng cơ bản có tính chất và tương tác được cho là xác định hoàn toàn tất cả các hiện
tượng tự nhiên.
Quan niệm cơ học này về toàn thế giới vẫn là nền tảng của hầu hết các ngành khoa học
của chúng ta và tiếp tục có ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống của chúng ta. Các ngành học
trở nên rời rạc và điều này đã phục vụ như một lý do căn bản để đối xử với vũ trụ như thể
nó bao gồm các phần riêng biệt được khai thác bởi các nhóm khác nhau. "
Trong triết học phương tây, chúng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của các bộ phận
của một tổng thể hơn là toàn bộ. Chúng ta thấy những thứ như tâm trí và cơ thể là hai
phần riêng biệt với bản sắc riêng biệt, thay vì xem chúng là hai phần bằng nhau nhưng
đối lập nhau tạo thành một tổng thể lớn hơn. Tâm lý này có thể được tìm thấy hàng ngày
trong xã hội Mỹ, có thể là trong chính trị, tơn giáo, hoặc thậm chí là quan hệ chủng tộc.
Triết học phương Đơng, mặt khác, nhấn mạnh tồn bộ. Đó là một trong những lý do các
nhà hiền triết Trung Quốc và Ấn Độ không bao giờ phân biệt giữa tôn giáo và triết học
hoặc phân loại triết lý của họ thành các nhánh. Tất cả những lời dạy của họ khơng có
nghĩa là được coi là những sự thật riêng biệt, mà là những phần cuối cùng sẽ dẫn đến sự
mặc khải của một Chân lý:
"Bản chất của quan điểm thế giới phương Đông là nhận thức về sự thống nhất và mối
quan hệ tương hỗ lẫn nhau của mọi sự vật và sự kiện, kinh nghiệm của tất cả các hiện
tượng trên thế giới như là biểu hiện của một sự thống nhất cơ bản. Tất cả mọi thứ được
coi là những phần độc lập và không thể tách rời của một tổng thể vũ trụ, như những biểu

hiện khác nhau của cùng một thực tại tối hậu. Các truyền thống phương Đông đề cập đến
14


thực tại tối thượng, không thể chia cắt này như Brahman trong Ấn Độ giáo, Dharmakaya
trong Phật giáo và Đạo trong Đạo giáo. "
Các quan niệm khác nhau về Tạo hóa hoặc năng lượng sáng tạo phản ánh sự phân chia
giữa triết học phương đông và phương tây. Hãy nhớ rằng trong khi chúng ta tách rời triết
học và tôn giáo ở phía tây, hai người song hành với nhau trong hầu hết các truyền thống
phương Đơng.
Ở phía tây, có Chúa. Theo tôn giáo của bạn, bạn tôn thờ Chúa theo một cách nhất định và
sống cuộc sống của bạn theo một cách nhất định. Thần Áp-ra-ham được hầu hết dân số
trên thế giới tôn thờ. Vị thần này là một "anh ta" và anh ta cảm thấy giống như những
cảm xúc mà con người làm: tức giận, ghen tuông, hạnh phúc, tình yêu, v.v ... Vị thần này
là siêu nhiên và có thể bẻ cong quy luật tự nhiên theo ý muốn của anh ta. Trớ trêu thay,
mặc dù con người được cho là do Thiên Chúa tạo ra, và mặc dù người ta nói rằng mọi thứ
Chúa tạo ra đều tốt, con người bị coi là bẩn thỉu, tội lỗi, xấu xa và khơng xứng đáng với
tình u của Chúa. Đàn ơng phải làm việc để có được tình u của Thiên Chúa, bằng
cách tơn thờ đứa con trai duy nhất của mình, bằng cách cầu nguyện cho anh ta năm lần
mỗi ngày và hành hương đến Mecca, bằng cách cắt bao quy đầu, hoặc một số hành động
sùng đạo khác.
Tôn giáo phương Tây và tập trung vào các khía cạnh cơng khai (bên ngồi) của các
truyền thống tơn giáo, và nó tập trung vào các mảnh vỡ tạo nên tôn giáo (tôn giáo của
bạn, giáo phái của bạn, bạn đến nhà thờ nào, bạn ăn gì, kinh sách nào bạn đọc, v.v. .).
Triết học phương Tây tập trung vào các bộ phận hơn là toàn bộ.
Đối lập ý tưởng này là viễn cảnh phía đơng về Tạo hóa hoặc năng lượng sáng tạo. Trong
Đạo giáo, có Đạo. Đạo khơng phải là một vị thần. Đó khơng phải là anh hay cơ. Nó là
nguồn gốc của mọi giới tính và do đó vượt qua nó. Đạo là nguồn gốc của mọi sự sống, và
nó là thứ duy trì mọi sự sống. Nói một cách dễ hiểu hơn về phương Tây, Đạo có thể được
gọi là năng lượng mạnh mẽ tạo ra và hỗ trợ sự sống. Mục tiêu của Đạo giáo là kết nối với

năng lượng này bằng cách sống một lối sống tự nhiên và cân bằng hơn. Một người không
tôn sùng Đạo, một người tự xếp mình với nó. Một người khơng cầu nguyện với Đạo, một
người thiền và chiêm ngưỡng Đạo. Bạn kết nối với Đạo bằng cách sắp xếp chính mình
với khái niệm âm dương, bằng cách đơn giản là đi theo dòng chảy của tự nhiên. Đạo
khơng "siêu nhiên" theo nghĩa là nó thực hiện phép lạ; đúng hơn, đó là thứ tạo ra và chi
phối "luật" của tự nhiên.
Khái niệm đạo Bà la môn của đạo Hindu tương tự như Đạo, cũng như khái niệm Phật
giáo về Phật pháp. Đây không phải là các vị thần. Họ không yêu cầu chúng ta cầu nguyện
15


với họ bằng một ngôn ngữ nhất định hoặc tôn thờ họ. Thay vào đó, họ đại diện cho thực
tế cơ bản, đáng kể đằng sau một thế giới luôn thay đổi. Mọi thứ trong vũ trụ không ngừng
phát triển và co lại, được sinh ra và chết đi. Mọi thứ đang trở thành một thứ khác. Nhưng
đằng sau sự trở thành này là một cái gì đó mà IS. Cái mà IS là cái mà các triết học
phương đông nhấn mạnh, không phải cái mà trở thành.
Các truyền thống phương Đơng tập trung nhiều hơn vào các khía cạnh bí truyền (bên
trong) của tơn giáo và triết học, và họ tập trung vào toàn bộ hơn là các bộ phận. Nó
khơng quan tâm lắm đến một số nghĩa vụ cứng nhắc đối với một vị thần bí ẩn siêu nhiên,
nhưng nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc vượt qua thế giới vật chất, từ đó tìm thấy
bản chất bên trong thần thánh thực sự của mình và vị trí của một người trong vũ trụ.
Trong câu trả lời sau đây, theo triết học phương Đông, tôi chủ yếu xem xét sáu trường
phái triết học Ấn Độ
Nhìn chung, sự khác biệt là:









Triết học phương Tây đi theo một sự phát triển theo chiều dọc, nó có thể được
hiểu là những lời dạy của Plato, Socrates, Epicurus, Aristotle dẫn đến các nhà triết
học theo thuyết duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm, Kant thống nhất ở một mức độ
nào đó hai ý nghĩ này. Ý tưởng của Kant sau đó được các nhà triết học khác sử
dụng.
Triết học phương Đông đi theo sự phát triển theo chiều ngang song song, các
trường phái triết học khác nhau phát triển Độc lập với nhau, mỗi trường hồn
thành theo khía cạnh riêng của nó. Ví dụ, Phật giáo, Jainism, Sankhya, trường phái
tư tưởng Yoga khá phát triển và khác biệt với nhau.
Triết học phương Tây là sự tị mị trí tuệ về các khía cạnh nhận thức luận hoặc siêu
hình học. Mặt khác, mục đích chính của triết học phương Đơng là giải thoát cá
nhân, chấm dứt sự đau khổ hay Niết bàn của anh ta. Tất cả các trường phái triết
học phương Đông, ngoại trừ Charvaka đều chú trọng đặc biệt đến sự giải thốt, và
tất cả những người thúc đẩy chính của triết học phương Đơng đều đạt được sự giải
thốt theo cách riêng của họ, có thể là Phật, Mahavira, Shankaracharya. Trái
ngược với điều này, không một triết gia phương Tây nào thực sự có thể tuyên bố
đã đạt được giải thoát.
Triết học phương Tây ban đầu được thực hành theo một cách rất giống nhau. Bản
thân Biết về bản thân mình được khắc trên tiền sảnh của đền thờ Apollo ở Delphi
ở Hy Lạp cổ đại. Được thực hành nổi tiếng bởi Socrates, triết học được tham gia
như một loại chăm sóc bản thân, hoặc một cuộc điều tra về cách tồn tại của bản
thân và thế giới. Các triết lý của Stoics, Epicureans, Skeptics và Boethius đã được
điều trị một cách rõ ràng. Nhưng sau thế kỷ 18, triết học ngày càng trở nên hàn
16


lâm hơn; nó đã được loại bỏ khỏi sử dụng thực tế, cá nhân và chuyển đổi. Mục tiêu
của triết học phương Tây đã trở thành khám phá cơ sở của sự thật khoa học và giới

hạn khả năng của con người để biết điều đó.

17



×