Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

TƯ TƯỞNG DÂN BẢN PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ PHƯƠNG TÂY – NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.74 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

Đề tài tiểu luận triết học:
TƯ TƯỞNG DÂN BẢN PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TƯ TƯỞNG
DÂN CHỦ PHƯƠNG TÂY – NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ
KHÁC BIỆT

Học Viên: Huỳnh Kim Thanh Tuyền
Lớp: IBK30 20C1GLO60300202
Môn học:
Giảng viên:
Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 05 năm 2021


Mục lục

1. Khái quát về triết học phương Đông và triết học phương Tây:.........................................................3
1.1 Tư tưởng dân bản phương Đông:.......................................................................................................3
1.1.1 Khái quát về triết học Ấn Độ cổ, trung đại:................................................................................3
1.1.2

Khái quát về triết học Trung Quốc cổ, trung đại:.................................................................4

1.1.3 Khái quát tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến..............................................................6
1.2

Khái qt về triết học phương Tây ngồi mácxít....................................................................7

1.2.1 Khái qt về triết học Hy Lạp cổ đại:.........................................................................................7
1.2.2 Khái niệm về triết học phương Tây trung đại:............................................................................8


1.2.3 Khái quát về triết học phương Tây thời Phục hung, cận đại......................................................10
1.2.4 Khái quát về triết học phương Tây hiện đại ngồi mácxít.........................................................11
2. Những tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng dân bản phương Đông và tư tưởng dân chủ
phương Tây:.............................................................................................................................................11
2.1 Những tương đồng giữa tư tưởng dân bản phương Đông và tư tưởng dân chủ phương Tây:...........11
2.2 Những khác biệt giữa tư tưởng dân bản phương Đông và tư tưởng dân chủ phương Tây:...............11

2


1. Khái quát về triết học phương Đông và triết học phương Tây:
1.1 Tư tưởng dân bản phương Đông:
Triết học phương Đông bao gồm: Triết học Ấn Độ cổ, trung đại; Triết học Trung Quốc
cổ, trung đại; Tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến.
1.1.1 Khái quát về triết học Ấn Độ cổ, trung đại:
Lịch sử Ấn Độ cổ, trung đại được chia thành bốn thời kỳ: Thời kỳ văn minh Sơng Ấn
(cịn được gọi là văn hố Haráppa, từ giữa thiên niên kỷ III đến giữa thiên niên kỷ II
TCN); Thời kỳ văn minh Vêđa (từ giữa thiên niên kỷ II đến thế kỷ VII TCN); Thời kỳ
các vương triều độc lập (từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII); Thời kỳ các vương triều lệ
thuộc (từ thế kỷ XIII đến giữa thế kỷ XIX).

Trong mơ hình cơng xã nơng thơn đã hình thành bốn đẳng cấp (tăng lữ, q tộc, bình
dân, nơ lệ) với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai dẳng; ruộng đất thuộc quyền sở
hữu nhà nước của các đế vương; nhà nước kết hợp với tôn giáo thống trị nhân dân và bốc
lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt đời sống xã hội; con người sống nặng về
tâm linh tinh thần và khao khát được giải thoát.

Sự phân biệt về đăng cấp, chủng tộc, dịng dõi, tơn giáo, nghề nghiệp,… đã tạo ra những
xung đột ngấm ngầm trong xã hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần
của nhà nước – tôn giáo. Xã hội phát triển một cách chậm chạp và nặng nề. Tuy vậy,

nhân dân Ấn Độ vẫn đạt được những thành tựu văn hoá tinh thần khá rực rỡ. Chữ viết đã
xuất hiện từ thời văn hoá Haráppa; Các bộ kinh Vêđa và sử thi sớm xuất hiện; Nghệ thuật
tạo hình như kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các cung điện, đền chùa, tháp, lăng
tẩm, trụ đá,…; Đạt nhiều thành tựu trong khoa học tự nhiên, Sản sinh ra nhiều tôn giáo
lớn như đạo Bàlamôn – Hinđu, đạo Phật, đạo Jaina, đạo Xích,…

Ngồi các tư tưởng triết học về nghiệp báo, luân hồi và số kiếp; về thượng trí và hạ trí; về
tính thần thánh của trật tự xã hội đẳng cấp,…triết học Ấn Độ cổ, trung đại được chia ra
thành hai hệ thống chính thống và khơng chính thống.
Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại:
3


 Một là, do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại
không thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
phép biện chứng và phép siêu hình (như triết học phương Tây), mà chủ yếu
được chia thành hệ thống chính thống và hệ thống khơng chính thống. Trong
các trường phái triết học cụ thể, ln có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình với nhau, song xu
hướng chung là biến đổi từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy
tâm hay nhị nguyên. Các trường phái triết học thường kế tục mà khơng gạt bỏ
trường phái triết học có trước.
 Hai là, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học Ấn
Độ cổ đại thường là một bộ phận lý luận, quan trọng tạo nên nội dung giáo lý
của các tôn giáo lớn. Tuy nhiên, tơn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội”
đi sâu tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh
hồn cá nhân con người; vì vậy, triết học Ấn Độ cổ, trung đại mang nặng tính
chất duy tâm chủ quan và thần bí.
 Ba là, triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề.
Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, các trường phái xoay quanh vấn đề “tính

khơng”, đem đối lập “khơng” và “có”, quy cái “có” về cái “khơng” thể hiện
một trình độ tư duy trừu tượng cao. Song, vấn đề được quan tâm nhiều nhất lại
là vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn
gốc nỗi khổ của con người) dưới gốc độ tôn giáo với xu thế “hướng nội”,
nhằm tìm kiếm phương tiện, con đường cách thức giải thoát chúng sinh trong
tâm tưởng ra khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt.
1.1.2 Khái quát về triết học Trung Quốc cổ, trung đại:
Trung Quốc trong quá trình tồn tại đã tạo ra nền văn hố vơ cùng rực rỡ. Chữ viết phát
triển nhanh; kinh thi và thơ đường cùng hàng loạt tiểu thuyết minh-thanh; sách Xuân
Thu, Sử Ký, Hán Thư; Nền y dược và giáo dục đào tạo rất chi tiết; Thiên văn lịch pháp
phát triển; Bốn phát minh kỹ thuật của người Trung Quốc (giấy, kỹ thuật in, la bàn và
thuốc súng) đã có tác dụng rất lớn đến đời sống nhân dân trong nước và nhiều nước trong
khu vực.
Trung Quốc cổ đại bao gồm hai thời kỳ: Thời kỳ Tam đại (Hạ, Thương và Tây Chu) là
thời kỳ hình thành và khẳng định chế độ chiếm hữu nơ lệ ở Trung Quốc. Thế giới quan
thần thoại – tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần.
Thần quyền và thế quyền quyện vào nhau để lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống
4


chính trị - xã hội trên nền tảng đạo đức, luân lý. Tuy nhiên, những quan niệm duy vật
mộc mạc, những tư tưởng vô thần cũng xuất hiện. Thời kỳ Đông Chu (Xuân Thu – Chiến
Quốc) là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến gắn với
sự ra đời chế độ tư hữu về ruộng đất và hình thành giai cấp địa chủ - phong kiến. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Quốc cổ đại vào tình trạng
chiến tranh khóc liệt, liên miên. Đây chính là giai đoạn lịch sử địi hỏi giải thể chế độ thị
tộc nô lệ nhà Chu cùng nhà nước của chế độ gia trưởng để hình thành xã hội và xây dựng
nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát
triển. Sự biến chuyển sơi động đó của thời đại đã làm xuất hiện những tụ điểm, những
trung tâm các “kẻ sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của xã

hội tương lai. Chính trong q trình ấy đã sinh sản ra những nhà tư tưởng lớn và hình
thành nên phái triết học khá hoàn chỉnh lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự
nghiên cứu, tập trung giải quyết vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức do sự phát triển của
xã hội lúc bấy giờ đặt ra. Đây là thời đại tư tưởng giải phóng, tri thức được phổ cập,
nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc phục tình
trạng loạn lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm tác phẩm ra đời, cho nên,
thời này còn gọi là thời Bách gia chi tử. Trong hàng trăm học phái đó có phái học phái
lớn Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia.
Các đặc điểm:
 Một là, triết học Trung Quốc cổ đại là một hệ thống đồ sộ, bao quát
nhiều vấn đề triết học, nhưng nó tập trung giải quyết vấn đề do thực
tiễn đạo đức – chính trị - xã hội của thời đại đặt ra, xem việc thực hành
đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt
lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội, do vậy, triết học tự nhiên có
phần mờ nhạt.
 Hai là, triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc
biệt là nguồn gốc, số phận, bản tính,… của con người nhằm mang lại
cho con người một quan điểm nhân sinh vững chắc giúp con người định
hướng hoạt động trong điều kiện xã hội phức tạp và đầy biến động.
 Ba là, triệt học Trung Quốc cổ, trung đại cũng bị chi phối bởi cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc
đấu tranh xung quanh vấn đề con người trong sự thống nhất hồi hịa
giữa tự nhiên và xã hội; vì vậy, vấn đề quan hệ giữa con người với
Trời, Đất (Thiên – Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên
suốt qua toàn bộ nền triết học này.

5


 Bốn là, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái

triết học Trung Quốc cổ đại khơng chỉ phê phán, xung độ đột nhau mà
cịn biết hấp thụ tư tưởng của nhau để bổ sung, hồn chỉnh lý luận của
chính mình và chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong
kinh Dịch.
 Năm là, nền triết họcTrung Quốc cổ, trung đại được xây dựng dựa trên
năng lực trực giác (cảm nhận hay thể nghiệm) và phát triển nhờ vào
phương thức tư duy trực giác, coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là
gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm bao quát vật”.
1.1.3 Khái quát tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến
Lịch sử ra đời và phát triển:
Việt nam thời kì phong kiến là một nước nông nghiệp, gắn chặt với nền sản xuất tự cung
tự cấp và chế độ làng xã, chịu ảnh hưởng nặng nề bởi hệ thống tư tưởng phong kiến.
Việt Nam nằm trong vùng văn hóa Á Đông, thông qua giao lưu và xâm lược, các học
thuyết triết học và tôn giáo (đặc biệt là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo) đã du nhập vào và
ảnh hưỡng trực tiếp đến tư tưởng triết học, văn hóa và con người Việt Nam, hình thành
nên nền tảng tư tưởng phong kiến Việt Nam trong nhiều thế kỷ.
Đặc điểm:
 Một là, tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến thể hiện tản mạn
trong các bài nói, viết của các vĩ nhân, trong ca dao, tục ngữ; mang
nặng tính chất duy tâm – tơn giáo mà cịn chưa có trường phái nổi bậc
cũng như nhà triết học nổi tiếng.
 Hai là, tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến bàn nhiều về chính
trị, xã hội, đạo đức, tơn giáo, đạo làm người,…
 Ba là, tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ phong kiến xuất phát từ kinh
nghiệm nhân sinh tiếp cận lên các vấn đề mang tính thế giới quan.
 Bốn là, các phạm trù trong tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến
thường là “việt hóa” các phạm trù triết học Trung Quốc và Ấn Độ.
Tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến chứa đựng trong mình sự xung đột giữa chủ
nghĩa duy tâm – tôn giáo và chủ nghĩa duy vật – vô thần trong việc giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học (vấn đề về mối quan hệ giữa hình và thần, giữa vật và tâm, giữa khí và

lý, giữa thiên, địa và nhân) trong việc lý giải những sự kiện, biến cố lớn của dân tộc, của
con người Việt Nam… Nếu chủ nghĩa duy tâm khách quan dựa vào “Trời” – lực lượng
6


siêu nhiên…, chủ nghĩa duy tâm chủ quan dựa vào “nghiệp”, “kiếp”, “luân hồi”… thì chủ
nghĩa duy vật dựa vào “Trời” – lực lượng tự nhiên… để lý giải những sự kiện, biến cố
xãy ra trong lịch sử dân tộc…
Tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến có ưu điểm là, khẳng định nguồn cội, tinh
thần độc lập dân tộc và vai trò tự chủ của nhà nước, quốc gia; khẳng định nguồn gốc sức
mạnh, động lực, ý nghĩa của cuộc đấu tranh dựng và giữ nước; nêu cao đạo làm người,
đối nhân, xữ thế nhân văn, nhân đạo của con người Việt Nam. Tuy nhiên, nó cũng mang
nhược điểm là tạo nên thế quan, nhân sinh quan phong kiến ngăn cản những sĩ phu yêu
nước tìm thấy con đường giải phóng giai cấp, dân tộc…
1.2 Khái quát về triết học phương Tây ngồi mácxít
1.2.1 Khái qt về triết học Hy Lạp cổ đại:
Lịch sử ra đời, phát triển:
Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo
Bancăng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê. Nhờ điều kiện tự
nhiên thuận lợi mà Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nơ lệ có cơng –
thương nghiệp phát triển, văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng. Lịch sử Hy Lạp cổ đại
trải qua bốn thời kỳ: Thời kỳ Cờrét – Myxen, thời kỳ Hôme, thời kỳ thành bang (thế kỷ
VIII-VI TCN) và thời kỳ Maxêđôin – thời kỳ để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử Hy
Lạp cổ đại.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ kéo dài đến thế kỷ thứ IV. Trong thời đại này,
người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ
trên nhiều lĩnh vực; thần thoại, thơ ca, kịch họa, kiến trúc, điêu khắc, toán học, thiên văn,
vật lý, pháp luật,..; đặc biệt, một di sản triết học đồ sộ và sâu sắc.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc,
coi thường lao động chân tay, thúc đẩy hình thành tầng lớp trí thức sử dụng hiệu quả tư

duy lý luận để nghiên cứu đưa đến sự ra đời và phát triển manh mẽ triết học và khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua ba giai đoạn (hình thành, cực thịnh và suy tàn) đó là
cuộc đấu tranh giữa 2 khuynh hướng nhất nguyên duy vật và duy tâm gắn với nền chính
trị của xã hội. Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê, trường phái
Hêraclít, trải qua trường phái đa nguyên và đạt đỉnh cao trong trường phái nguyên tử
luận. Chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái Pytago, trải qua trường phái
duy lý Êlê, phái Ngụy biện và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan
của Platôn. Arixtốt đã cố gắng khắc phục sự đối lập giữa hai khuynh hướng nhất nguyên
duy vật và nhất nguyên duy tâm, tiến hành phê phán và tổng kết triết học và khoa học
7


thời này, do vậy, ông đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao cực thịnh và trở thành
“bộ óc bách khoa tồn thư” trong nền triết học và khoa học Hy Lạp cổ đại. Sau Arixtốt,
triết học Hy Lạp cổ đại rơi vào giai đoạn suy tàn. Chiến tranh, bạo lực, khó khăn ngập
tràn đã đưa triết học giai đoạn này rời xa các vấn đề siêu hình, phổ quát để đi vào các vấn
đề thuộc về đời sống tình cảm, nội tâm, ham muốn, dục vọng; về định mệnh, về sự hòa
đồng huyền dịu giữa con người và thần linh…
Các đặc điểm
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của
giai cấp chủ nô thống trị. Nó là cơng cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng
cố giai trị thống trị của mình.
Hai là, trong nền triết học Hy lạp cổ đại sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính
trị - tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmơcrít và
trào lưu duy tâm của Platơn…
Ba là, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện phép biện chứng chất phác. Các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại là “những nhà chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép
biện chứng để nâng cao nghệ thuật hung biện, để bảo vệ quan điểm triết học, để tìm ra
chân lấy. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng chưa trình bày

chúng như một hệ thống lý luận chặt chẽ.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình
ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xãy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý
luận cịn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi
sâu vào sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng
quát về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan
sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
Năm là, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố lý giải vấn đề giữa linh hồn và
thể xác, về đời sống – chính trị - xã hội của họ. Dù cịn có nhiều bất đồng song nhìn
chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
1.2.2 Khái niệm về triết học phương Tây trung đại:
Lịch sử ra đời, phát triển:

8


Từ thế kỷ IV-XIV, xã hội phương Tây bước vào một giai đoạn tăm tối kéo dài khoảng 1
nghìn năm, mà sử sách gọi là đêm trường trung cổ. Thế quyền phong kiến va thần quyền
Thiên chúa giáo quyện vào nhau.
 Về mặt kinh tế - xã hội, đây là thời kì tan rã chế độ chiếm hữu nơ lệ, ra
đời và phát triển chế độ phong kiến phương Tây. Bóc lột, áp bức tàn
bạo cuối thời cổ đại đã dẫn đến các cuộc khởi nghĩa của những người
nô lệ. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa này đã khơng xóa bỏ được áp
bức, bốc lột mà chỉ thay đổi hình thức áp bức, bốc lột chiếm hữu nơ lệ
bằng hình thức áp bức, bốc lột phong kiến – nhà thờ tinh vi hơn, thâm
độc hơn… Những cuộc đấu tranh gia cấp bên trong và sự tấn cơng bên
ngồi đã làm cho chế độ La Mã nhanh chóng suy tàn rồi sụp đổ. Mối
quan hệ giữa chủ nô và nô lệ bị thay thế bằng mối quan hệ giữa chúa

đất và nơng nơ. Nền sản xuất xã hội chuyển từ tính chất hàng hóa nhỏ,
tiểu thủ cơng có sự mở cửa, quan hệ bn bán với dân bên ngồi sang
tính chất tự cung tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Các thái ấp –
vương quốc riêng của các lãnh chúa phong kiến hình thành khắp nơi đã
trói buộc thân phận người nông dân với họ.
 Về mặt tinh thần, thời kỳ trung đại ở phương Tây là thời kỳ thống trị
của Nhà thờ Thiên chúa giáo – một thế lực hung mạnh không chỉ về
kinh tế mà cả về chính trị, tinh thần. Sự cát cứ phong kiến làm nảy sinh
nhu cầu phải có một sự thống nhất trong hoạt động. Thiên chúa giáo là
công cụ tinh thần thiêng liêng giúp thực hiện sự thống nhất đó. Hơn
nữa, Thiên chúa giáo còn mang lại niềm tin duy nhất cho đông đảo
nông dân bị tước hế mọi quyền lợi, và đặc biệt tối tăm về trí tuệ.
Các đặc điểm:
 Một là, triết học phương Tây thời kỳ trung đại triết học – thần học. Tín
điều của nhà thờ - cơ sở cho mọi hành vi hoạt động của con người; thế
giới quan thần học bao trùm lên đời sống tinh thần của họ. Triết học trở
thành công cụ để chứng minh cho giáo lý của Nhà thờ, “luận chứng”
cho niềm tin cao hơn lý trí; khẳng định vai trị sang thế và kiến tạo trật
tự xã hội của Thượng đế… Ngồi ra, nó cịn là cơng cụ tun truyền
cho trật tự phong kiến, làm cho quần chúng tin vào sự bất bình đẳng và
sự bốc lột trong xã hội là do sự định đoạt sẵn của Đấng bề trên.
 Hai là, triết học phương Tây thời kỳ trung đại mang tính kinh viện, xa
rời cuộc sống hiện thực. Triết học này chỉ bàn những vấn đề viễn vông,
9


không gắn với thực tế, và được giảng dạy trong các trường học của Nhà
Thờ…
1.2.3 Khái quát về triết học phương Tây thời Phục hung, cận đại
Các đặc điểm:

 Thứ nhất, trên bình diện thế giới quan, triết học thời phục hung – cận
đại thể hiện rõ thế giới quan duy vật máy móc bên cạnh quan điểm tự
nhiên thần luận của giai cấp tư sản – giai cấp đang vươn lên lãnh đạo xã
hội. Sự xung đột giữa chủ nghĩa duy vật và khoa học với chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo quyết liệt. Chủ nghĩa duy vật đã trở thành thế giới quan
của giai cấp tư sản tiến bộ và cách mạng; còn khoa học đã trở thành sức
mạnh của họ trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và Nhà
thờ nhằm xác lập một trật tự xã hội mới. Mặc dù các thành tựu khoa
học tự nhiên, đặc biệt là cơ học, được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn
cuộc sống và trong nhận thức nhưng những niềm tin tôn giáo vẫn chưa
bị đẩy lùi. Những gia trị của Giới tự nhiên. Giới tự nhiên được gán ép
cho những tính siêu nhiên – thần thánh. Do đó, màu sắc tự nhiên thần
luận là một nét đặc sắc của chủ nghĩa duy vật máy móc lúc bấy giờ.
 Thứ hai, trên bình diện nhận thức – phương pháp luận, triết học thời
Phục Hưng cận đại chủ yếu đi tìm phường pháp nhận thức mới để khắc
phục triệt để phương pháp kinh viện giao điều, nhằm xây dựng một triết
học và một khoa học mới có liên hệ mật thiết với nhau, hướng đến xây
dựng tri thức. Trào lưu triết học thống trị trong giai đoạn chủ nghĩa duy
vật siêu hình – máy móc. Tuy nhiên, sau đó chủ nghĩa duy vật siêu hình
– máy móc lại bộc lộ những nhược điểm yếu kém của mình trong quá
trình phát triển tư duy lý luận, vì vậy, phép biện chứng duy tâm đã ra
đời thay thế.
 Thứ ba, trên bình diện nhân sinh quan – ý thức hệ, nền triết học thời
phục hung – cận đại thể hiện rõ tinh thần khai sang và chủ nghĩa nhân
đạo tư sản. Khát vọng giải phóng con người ra khỏi sự thống trị của chế
độ phong kiến – giáo hội Nhà thờ, ra khỏi sự ngu dốt, ra khỏi chi phối
âm thầm của lực lượng tự nhiên nhằm hướng đến cuộc sống tự do, hạnh
phúc, công bằng, bác ái, sung túc cho con người trên trần gian được đặt
ra.


10


1.2.4 Khái quát về triết học phương Tây hiện đại ngồi mácxít
 Một là, triết học phương Tây ngồi mácxít hiện đại, xét về thực chất, là
thế giới quan, ý thức hệ, nhân sinh quan của giai cấp tư sản hiện đại
trong giai đoạn thống trị xã hội của nó.
 Hai là, triết học phương Tây ngồi mácxít hiện đại rất đa dạng. Từ đầu
thế kỷ XX trở đi, triết học phương Tây hiện đại tiếp tục phân hóa thành
nhiều trào lưu, trường phái đào sâu một khía cạnh, một mặt, một yếu tố
nào đó trong cuộc sống con người. Tuy nhiên, trong tính đa dạng đó,
chúng ta nhận thấy có ba trào lưu chủ yếu là chủ nghĩa khoa học và chủ
nghĩa nhân bản phi duy lý và triết học tôn giáo.

2. Những tương đồng và khác biệt giữa tư tưởng dân bản phương Đông và tư
tưởng dân chủ phương Tây:
2.1 Những tương đồng giữa tư tưởng dân bản phương Đông và tư tưởng dân chủ
phương Tây:
- Tư tưởng dân bản phương Đông hay tư tưởng dân chủ phương Tây đều là sự kết hợp
những giá trị tinh tuý nhất của tất cả các thời kỳ lịch sử, thể hiện quan điểm con người
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định, về mọi vấn đề: tự nhiên, nhận thức, chính trị-xã hội.
- Đều phản ánh những quy luật chung nhất về tri thức vừa mang tính khái quát, vừa mang
tính trừu tượng.
- Bất chấp những khác biệt về trình độ phát triển và những khác biệt về văn hoá, dân chủ
có những tiêu chuẩn và giá trị mang tính phổ quát. Bản chất của dân chủ dù ở phương
Đông hay phương Tây đều là sự tôn trọng các quyền của cá nhân, là sự nhận thức được
các quyền ấy của cá nhân và cấu trúc nó thành ra các quyền pháp định.
2.2 Những khác biệt giữa tư tưởng dân bản phương Đông và tư tưởng dân chủ
phương Tây:
- Phương Đông là lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn xung quanh nên đối

tượng của phương Đơng chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh và có xu hướng
hướng nội, lấy trong để giải thích ngồi, đa số trường phái thiên về duy tâm. Cịn phương
Tây rất rộng gồm tồn bộ tự nhiên, xã hội, tư duy, lấy tự nhiên làm gốc. Lấy ngoại (ngồi
con người) để giải thích cái trong (con người), xu hướng nổi trội là duy vật.
11


- Nguồn gốc là do ở phương Đông, thượng tầng kiến trúc ra đời trước và thúc đẩy dự
phát triển của hạ tầng cơ sở, còn ở phương Tây hạ tầng cơ sở quyết định đến thượng tầng
kiến trúc.
- Các nước phương Tây có xu hướng tuyệt đối hố các tiêu chuẩn của dân chủ do họ đưa
ra như: Tiêu chuẩn chính trị: Bầu cử tự do và cơng bằng, quản lý nhà nước bằng ý chí của
mọi cơng dân. Tiêu chuẩn văn hoá – xã hội: Sự ý thức và khả năng thực tế của các công
dân về quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Cịn các nước phương Đơng thì có xu hướng đưa
ra một quan niệm khác.
- Phương Đơng có tính chất nửa vời về quan niệm sở hữu, sự phân hố giai cấp trong xã
hội khơng sâu sắc như ở phương Tây. Chính vì thế, hình thức dân chủ sơ khai xuất hiện ở
phương Đông sớm hơn, nhưng lại tồn tại được dạng sơ khai lâu hơn phương Tây.
- Ở phương Tây thường đề cao tính cơng bằng, trẻ em có quyền kiện bố mẹ ra tịa,
nhưng tại Phương Đơng điều đó có thể là một hành động phi đạo đức.
- Sự khác nhau trong thái độ và quan niệm về dân chủ đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay.
Khái niệm dân chủ, như nhiều người quan niệm, dường như là một sản phẩm của văn
minh phương Tây, đúng hơn là văn minh Hy Lạp. Khi nói về những thể chế chính trị,
khái niệm này được đặt đối lập với khái niệm quân chủ, tức là sự đối lập một hình thức
quyền lực nhà nước, trong đó quyền lực thuộc về tất cả mọi cơng dân và một hình thức
khác, trong đó quyền lực thuộc về một cá nhân. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, khái
niệm dân chủ đường như đều được hiểu như là một phương thức quan hệ giữa các cá
nhân, trong đó các quyền và nghĩa vụ của các cá nhân được tơn trọng tuyệt đối.
- Các nước phương Tây có xu hướng tuyệt đối hoá các tiêu chuẩn của dân chủ do họ đưa
ra, cịn các nước phương Đơng thì có xu hướng đưa ra một quan niệm khác.

- Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học phương Đông không thể phân chia
rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng và phép siêu hình
(như triết học phương Tây), mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ
thống khơng chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể, ln có sự đan xen giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình với
nhau, song xu hướng chung là biến đổi từ vơ thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến
duy tâm hay nhị nguyên. Các trường phái triết học thường kế tục mà không gạt bỏ trường
phái triết học có trước.
- Trung Quốc và Ấn Độ là nơi mà phần lớn triết học phương Đông phát triển. Niềm tin
cá nhân của Khổng Tử và Phật giáo ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của con người về thế
giới. Triết học phương Đông liên quan nhiều đến bản chất con người, tập trung rất ít vào
bản chất của vũ trụ xung quanh, cũng là điểm khác biệt lớn so với phương Tây.
- Triết học phương Tây đi theo một sự phát triển theo chiều dọc, nó có thể được hiểu là
những lời dạy của Plato, Socrates, Epicurus, Aristotle dẫn đến các nhà triết học theo
12


thuyết duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm, Kant thống nhất ở một mức độ nào đó hai ý nghĩ
này. Ý tưởng của Kant sau đó được các nhà triết học khác sử dụng. Triết học phương
Đông đi theo sự phát triển theo chiều ngang song song, các trường phái triết học khác
nhau phát triển Độc lập với nhau, mỗi trường hồn thành theo khía cạnh riêng của nó. Ví
dụ, Phật giáo, Jainism, Sankhya, trường phái tư tưởng Yoga khá phát triển và khác biệt
với nhau.
- Khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí,
hồ hợp, qn bình chủ nghĩa, thống nhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết,
tơn giáo, tâm lý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ.
- Những nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở châu phần lớn đều là những nước
bị phương Tây chỉ trích là độc tài, phi dân chủ. Nhưng tại những nước phương Đông ấy
việc độc tài của chính phủ dường như đem lại hiệu quả hơn là thực hiện nền dân chủ hoàn
toàn như phương Tây.


13



×