Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

59 tài liệu thuyết minh tuyến điểm đà lạt hoa đà lạt, hoa thược dược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.21 KB, 2 trang )

Thuyết Minh Trên Tour
NỘI DUNG CÁC ĐIỂM THAM QUAN TOUR TP. HCM –TP.ĐÀ LẠT
ĐÀ LẠT, THIÊN NHIÊN VÀ HOA
HOA THƯỢC DƯỢC
Danh y Hoa Đà trồng cây thược dược trong vườn mà khơng biết đó là cây thuốc. Hồn hoa hiện
thành cơ gái đứng khóc mong được chú ý, nhưng ơng cũng chẳng bận tâm. Chỉ đến khi bà vợ
được chữa khỏi bằng cây này, ơng mới biết đó là thuốc quý.
Trong các loài hoa, mẫu đơn đứng đầu, thược dược đứng thứ hai. Mẫu đơn được tôn xưng là
“hoa vương”, thược dược được coi là “hoa tướng”. Danh y Lý Thời Trân của Trung Quốc cũng
đánh giá như vậy khi nói về tác dụng chữa bệnh của hai lồi hoa này.
Tuy chỉ là “hoa tướng” nhưng thược dược lại thành danh sớm hơn mẫu đơn. Tương truyền từ
3.000 năm trước, vào thời Tam Đại, thược dược đã được trồng để thưởng ngoạn ở rất nhiều nơi
trong khi người ta còn chưa biết đến hoa mẫu đơn. Khi mới phát hiện ra mẫu đơn, người ta tưởng
đó chỉ là một lồi thược dược, nên đã gọi nó là “mộc thược dược”. Hai hoa này nhìn thống qua
rất giống nhau nên người xưa thường gọi là hai chị em.
Về sau, người ta phát hiện mẫu đơn và thược dược tuy cùng họ nhưng là hai cây khác nhau.
Thược dược là loài thân thảo, còn mẫu đơn là cây thân gỗ. Thược dược được xếp vào nhóm
thuốc bổ huyết, sử dụng chủ yếu để bồi dưỡng cơ thể; cịn mẫu đơn thuộc nhóm thanh nhiệt
lương huyết, chủ yếu dùng khi cơ thể đã mắc bệnh.
Cây hoa thược dược cảnh. Ảnh: Cernyseed.
Bạch thược dược (Paeonia Lactiflora) có hoa rất to, mọc ở ngọn thân, tựa như hoa mẫu đơn hay
thược dược cảnh. Cánh hoa màu hồng nhạt hay trắng muốt, nhị vàng cam, rễ phình to thành củ.
Củ này luộc chín phơi khơ chính là vị thuốc bạch thược. Cây bạch thược này không phải là cây
hoa thược dược (Dahlia variabilis Desf) vẫn được trồng nhiều trong dịp Tết.
Tương truyền, tác dụng chữa bệnh của bạch thược đã được danh y Hoa Đà phát hiện ra trong một
tình huống rất ly kỳ. Để nhận biết và tránh nhầm lẫn các vị thuốc, ông đã trồng đủ thứ cây thuốc
quanh nhà. Một hơm có người đem biếu ơng cây hoa lạ, nói rằng có thể dùng chữa bệnh nhưng
khơng rõ chữa được bệnh gì. Hoa Đà đem trồng ở góc sân bên cửa sổ.
Xuân tới, cây ra những bông hoa rất to, trắng muốt, thơm như hoa hồng. Ơng thử hái hoa sắc
uống nhưng khơng nhận thấy có gì khác lạ. Ơng lại hái lá rồi hái cành đem thử cũng khơng phát
hiện điều gì đặc biệt. Nghĩ rằng cây hoa này tuy đẹp nhưng khơng có tác dụng chữa bệnh nên


mấy năm liền, Hoa Đà khơng để ý đến nó nữa.


Một đêm thu, Hoa Đà đang ngồi đọc sách, bỗng nghe thấy ngồi cửa sổ có tiếng con gái khóc
thút thít. Nhìn ra, ơng thấy dưới ánh trăng mờ, có một người con gái rất đẹp đang đứng đó khóc.
Ơng tự hỏi, khơng biết con gái nhà ai, chắc có nỗi oan ức nào đây. Ơng khốc áo ra ngồi nhưng
nhìn trước nhìn sau khơng thấy bóng người nào nữa, chỗ cơ gái đứng khóc chỉ cịn một cây
thược dược.
Hoa Đà đi vào và tự nhủ: “Cho dù nhà ngươi có linh tính thì bây giờ cũng đang là mùa thu, hoa
đã tàn, lá đã rụng, còn sử dụng được vào việc gì?”.
Nhưng ơng vừa ngồi xuống tiếp tục đọc sách thì lại nghe tiếng khóc thút thít, nhìn ra vẫn là cô
gái ban nãy. Hoa Đà bước ra, cô lại biến mất, vẫn chỉ có cây bạch thược. Sự việc cứ lặp đi lặp lại
mấy lần khiến Hoa Đà vơ cùng ngạc nhiên. Ơng bèn đánh thức vợ đang ngủ say dậy kể lại
chuyện.
Bà nói: “Tất cả các cây trong vườn đều được ông sử dụng làm thuốc cứu người, chỉ có cây bạch
thược này bị bỏ quên, chắc là nó có nỗi oan ức”. Hoa Đà bảo: “Tơi từng thử tất cả các bộ phận
của nó thấy chả có tác dụng, vậy cịn oan ức nỗi gì?”.
Bà vợ nói: “Ơng mới thử những thứ trên mặt đất, cịn rễ của nó thì sao?”. Nhưng danh y gạt đi:
“Hoa lá cành cịn chẳng có gì đặc biệt, vậy thì cịn thử rễ làm gì?”. Dứt lời, ơng nằm xuống ngủ
thiếp đi. Bà vợ suốt đêm không sao chợp mắt, nghĩ rằng chồng mình đã thay đổi, khơng cịn lắng
nghe ý kiến của người khác như trước kia nữa.
Vài hôm sau, bà vợ Hoa Đà bỗng nhiên bị đau bụng, băng huyết rất nhiều, uống đủ thứ thuốc
không đỡ. Bà liền lén ra vườn đào rễ cây bạch thược đem sắc uống. Chỉ nửa ngày sau, bụng đã
hết đau, máu cũng khơng cịn chảy nữa. Nghe vợ kể lại, Hoa Đà rất cảm kích: “Cảm ơn bà đã
thức tỉnh ta, nếu khơng thì ta đã để mai một cây thuốc qq”.
Sau sự kiện đó, ơng thử nghiệm và nhận thấy ngồi tác dụng giảm đau, cầm máu, rễ bạch thược
cịn có tác dụng dưỡng huyết và chữa được nhiều bệnh phụ khoa. Cây hoa lạ này ban đầu có tên
bạch thược, sau đó Hoa Đà thêm chữ “dược” thành bạch thược dược.
Cùng với thời gian, Đông y phát hiện thêm nhiều cơng dụng nữa của cây bạch thược. Nó trở
thành thuốc bổ huyết thiết yếu, phổ tác dụng rộng và tần suất sử dụng rất cao. Bạch thược chủ trị

kinh nguyệt rối loạn, vã mồ hôi, mồ hôi trộm, đau đầu, chóng mặt. Trên lâm sàng y học hiện đại,
nó chữa tử cung xuất huyết, viêm thận mạn tính, tăng huyết áp, tiểu đường, viêm võng mạc,
cường tuyến giáp…



×