Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

QUAN điểm TRIẾT học MAC LENIN về QUY LUẬT CHUYỂN hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.93 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐỊA LÍ


BÀI TIỂU LUẬN

Đề tài: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ QUY LUẬT CHUYỂN
HÓA TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG THAY ĐỔI
VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. SỰ VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA QUY LUẬT NÀY TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN
THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.

Tên học phần: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Họ và tên: NGUYỄN LÊ HUYỀN TRÂN
Mã sinh viên: 47.01.603.114

TP.HỒ CHÍ MINH, ngày 28 tháng 01 năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
NỘI DUNG ................................................................................................................2
Chương 1. QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ
THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. ............................................................2
1.1. Khái niệm về chất và lượng. ........................................................................2
1.1.1. Khái niệm về thuộc tính ........................................................................2
1.1.2. Khái niệm về chất..................................................................................2
1.1.3. Khái niệm về lượng. ..............................................................................3
1.2. Mối liên hệ biện chứng giữa chất và lượng. ................................................5


1.2.1. Sự thống nhất chất và lượng. ................................................................5
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. ........................................5
1.2.3. Các hình thức của bước nhảy. ...............................................................7
1.2.4. Tóm tắt nội dung quy luật. ....................................................................7
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận. ...................................................................7
Chương 2. VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT
TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN SINH VIÊN VÀ TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. .............................................8
2.1. Từng bước tích lũy kiến thức, kiên trì học hỏi để thực hiện một “bước
nhảy”. ..................................................................................................................9
2.2. Trong đời sống học tập, nghiên cứu cần đi từ tuần tự dễ đến khó, tránh
nóng vội làm hỏng tiến trình. ............................................................................10
2.3. Phấn đấu liên tục trong học tập, rèn luyện tránh tư tưởng bảo thủ, trì truệ,
chủ quan. ...........................................................................................................11
2.4. Giải pháp giúp sinh viên nâng cao giá trị đời sống học tập của bản thân để
cống hiến đổi mới đất nước. ..............................................................................11
KẾT LUẬN ..............................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................14


1

MỞ ĐẦU
Quy luật chuyển đổi giữa lượng và chất là một quy luật cơ bản, chỉ ra cách
thức chung nhất và chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển. Khi lượng thay
đổi tất yếu sẽ làm thay đổi chất và ngược lại, khi chất thay đổi sẽ tạo nên những
biến đổi mới về lượng.
1. Lí do chọn đề tài.
Trong quá trình vận động và phát triển, mọi sự vật, hiện tượng không ngừng
biến đổi. Sự biến đổi này tuân theo những quy luật nhất định, trong đó có “Quy luật

chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược
lại”. Được xem là cách thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới.
Đối với sinh viên đại học, đây được xem là giai đoạn có sự thay đổi về môi
trường sống, sinh hoạt cũng như học tập, địi hỏi việc thích nghi từ ban đầu. Việc
nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa giữa lượng và chất sẽ có ý
nghĩa lớn, thơng qua đó giúp sinh viên xây dựng được phương pháp học tập, rèn
luyện phù hợp với bản thân và điều kiện sống. Chính vì vậy, em chọn đề tài này với
mong muốn có thể giúp đỡ một phần nào đó cho các bạn sinh viên nghiên cứu
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin nói chung và quy luật lượng –
chất nói riêng, để từ đó giúp chúng ta hình dung được phương thức học tập mới phù
hợp với bản thân.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đưa mơn học phần Triết học Mác – Lenin vào giáo dục nhằm áp dụng vào
thực tiễn đời sống xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại của quan điểm chủ nghĩa Mác – Lenin bên
cạnh đó vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào đời sống học tập của sinh viên
cùng sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.


2

NỘI DUNG
Chương 1. QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ
THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
1.1. Khái niệm về chất và lượng.
1.1.1. Khái niệm về thuộc tính
Thuộc tính được hiểu là một khía cạnh nào đó về chất của sự vật, hiện tượng

trong mối quan hệ tác động qua lại với sự vật, hiện tượng khác, là những tính chất,
trạng thái, yếu tố cấu thành nên sự vật,…
Đó cịn là những cái vốn có của sự vật, hiện tượng từ khi mà sự vật, hiện
tượng được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển. Nhưng
các thuộc tính vốn có chỉ được bộc lộ qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện
tượng khác. Ví dụ: khi cho đường vào nước ta thấy đường có tính tan, lúc nếm ta
biết đường có vị ngọt. Tính tan và vị ngọt,.. sẽ là thuộc tính vốn có của đường, ta
chỉ nhận biết được điều này khi ta nếm bằng vị giác hay chạm bằng xúc giác. Tất cả
các thuộc tính vốn có của đường là chỉ bộc lộ khi cho đường vào nước hay ta nếm
thử đường.
1.1.2. Khái niệm về chất.
Chất là khái niệm chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật và hiện
tượng; là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính, đặc trưng phân biệt sự vật hay
hiện tượng này với sự vật và hiện tượng khác.
Khi nghiên cứu về khái niệm chất, chúng ta cần phải phân biệt với khái niệm
thuộc tính. Chất thì nó bao gồm nhiều thuộc tính khác nhau, chất biểu hiện tính
thống nhất của các thuộc tính, nói lên tính tồn vẹn, ổn định tương đối của sự vật
hay hiện tượng. Chất thì gắn liền với hình thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các bộ
phận cấu thành sự vật hay hiện tượng. Sự vật thì có nhiều thuộc tính nhưng các
thuộc tính tham gia vào việc quy định chất khơng giống nhau. Thuộc tính của sự vật
có thuộc tính cơ bản và thuộc tính khơng cơ bản. Trong q trình vận động của sự
vật, những thuộc tính khơng cơ bản có thể thay đổi, có cái mất đi, có cái nảy sinh
thêm nhưng chất nói chung của sự vật không thay đổi. Chất chỉ thay đổi khi những


3

thuộc tính cơ bản thay đổi, các thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ thông qua những
mối quan hệ khác nhau giữa các sự vật đó. Bởi vậy, sự phân biệt giữa thuộc tính cơ
bản và khơng cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này,

thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, còn trong mối liên hệ cụ
thể khác sẽ có thêm thuộc tính khác. Lênin đã đưa ra một ví dụ cơ bản về cái cốc:
trong mối quan hệ với người uống nước thì cái đáy cốc có lành hay khơng đó là
thuộc tính cơ bản; trong mối quan hệ với người dùng cốc để úp con bướm thì thuộc
tính cơ bản lại là tính chất trong suốt của thủy tinh. Trong mối quan hệ với động vật
thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng cơng cụ, tư duy là thuộc tính cơ bản
của con người. Nhưng trong quan hệ giữa con người với nhau thì những thuộc tính
của người về nhận dạng, về dấu vân tay, nhóm máu,.. lại trở thành thuộc tính cơ
bản. Như vậy, sự phân biệt giữa chất và thuộc tính nó chỉ có ý nghĩa tương đối.
Mỗi sự vật, hiện tượng có vơ vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính biểu hiện chất của sự
vật vì vậy mà sẽ có vơ vàn chất nhưng chỉ có một chất căn bản. Như chanh với ớt
đều có hạt, vỏ màu xanh nhưng có duy nhất một chất để ta có thể phân biệt là chanh
hay ớt là dựa vào vị chua và vị cay nồng; nếu có vị chua sẽ là chanh và vị canh
nồng là ớt.
Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được quyết định bởi thành phần cấu tạo
mà còn do phương thức liên kết giữa các cấu trúc và liên kết giữa chúng. Ví dụ mỗi
nguyên tố hóa học là một chất bao gồm nhiều loại nguyên tử khác nhau nhưng mỗi
nguyên tử lại được coi là một chất khác nhau như là O, H,.. đi sâu vào kết cấu của
các nguyên tử chúng ta lại thấy những hạt có điện tích khác nhau như electron,
notron, poton,..đó cũng là những chất khác nhau. Phân tích khái niệm chất như trên
khơng có nghĩa chất là một cái gì đó chủ quan do con người gán ghép cho sự vật
hiện tượng.
1.1.3. Khái niệm về lượng.
Lượng là tính quy định vốn có của sự vật và hiện tượng về mặt quy mơ, trình
độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận,
ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.


4


Ngồi ra lượng cịn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng
số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận chuyển nhanh hay chậm, màu sắc
đậm hay nhạt,…
Lượng cũng có tính quy định khách quan, sự vật hay hiện tượng nào cũng có
một lượng vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm vị trí nhất định trong
khơng gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Có nhiều thứ lượng khác nhau, có
lượng là yếu tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự
vật, hiện tượng; sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì những thơng số về lượng của
chúng cũng phức tạp theo. Trong tự nhiên và xã hội có những lượng được diễn tả
bằng các con số chính xác mà ta có thể đo, đếm được. Ví dụ số lượng học sinh của
lớp A là 27 bạn, thông qua đầu người ta có thể đo, đếm để có một con số chính xác
hoặc là đo độ cao của đỉnh Fansipan là 3147,3m/s, một phân tử nước gồm hai
nguyên tử hidro liên kết với một nguyên tử oxi. Nhưng trong một số trường hợp của
xã hội nhất là trong tư duy lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ
thể, chính xác mà chỉ có thể nhận thức được bằng khả năng trừu tượng hóa. Như
trình độ tri thức, vốn kiến thức, tính cách hay phẩm chất đạo đức của mỗi người. Có
lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp
thành nguyên tố hóa học), có lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật
(chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy
định trong mối quan hệ này là sẽ chất của sự vật, còn trong mối quan hệ khác lại
biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn số lượng sinh viên giỏi nhất định
của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù
số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy
định về chất của sự vật. Ví dụ con số 9 chỉ sự phát triển của lượng từ 1 đến 9, nhưng
chín lại là một chất khác so với bảy, sáu,..
Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật không đứng im.



5

Chúng luôn vận động không phải biệt lập với nhau mà ln ln có quan hệ qua lại
theo một quy luật nhất định.
1.2. Mối liên hệ biện chứng giữa chất và lượng.
1.2.1. Sự thống nhất chất và lượng.
Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam có những câu phản ánh mối quan hệ giữa chất
và lượng. Như “năng nhặt chặt bị”, “có cơng mài sắt, có ngày nên kim”,.. Phép biện
chứng duy vật đã vạch rõ và xây dựng được mối quan điểm khoa học về mối quan
hệ giữa chất và lượng.
Thể hiện mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có mặt chất và mặt lượng
thống nhất với nhau. Chúng không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng vận động và biến đổi theo cách thức từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Tính quy
định về chất khơng bao giờ tồn tại nếu khơng có quy định về lượng và ngược lại.
1.2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
Sự thay đổi về lượng có thể khơng làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng; nhưng ở một giới hạn nhất định nào đó khi lượng của
sự vật thay đổi, thì chất của sự vật thay đổi cơ bản. Ví dụ khi xét trạng thái khác
nhau của nước trong khoảng nhiệt độ từ 0˚C đến 100˚C, bản chất của nước khơng
thay đổi, vẫn ở trạng thái lỏng. Do đó, khơng phải bất kì một sự thay đổi nào về
lượng cũng làm thay đổi về chất. Giới hạn sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
về chất của sự vật, hiện tượng được gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học, chỉ tính quy định, là khoảng giới hạn mà trong đó
sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật
đó. Chẳng hạn như, độ tồn tại trong đời người từ lúc sinh đến lúc chết đi.
Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng
cũng có thể làm thay đổi dần dần chất cũ. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất
định sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Như ví dụ
trên, thì 0˚C và 100˚C chính là điểm nút



6

Điểm nút là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã làm thay đổi chất của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút tất yếu, dẫn đến sự ra đời của chất
mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật hay
hiện tượng.
Bước nhảy là giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng do sự thay
đổi về lượng của sự vật, hiện tượng trước gây ra.
Ví dụ trong vật lí, sự chuyển hóa từ nước ở trạng thái lỏng thành hơi nước là
một bước nhảy, có bước nhảy này là do nước ở trạng thái lỏng có sự thay đổi về
nhiệt độ và đạt đến 100˚C.
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở ra điểm khởi đầu
của một giai đoạn phát triển mới. Nó cũng là sự gián đoạn trong quá trình vận động
và phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng. Trong thế giới luôn diễn ra quá trình
biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, thể hiện cách thức vận động
và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen cũng đã khái quát tính tất yếu
này: “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa
thành những sự khác nhau về chất”.
Như vậy, sự vật, hiện tượng bất kì nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa
mặt chất và mặt lượng. Bên cạnh đó, sự vật hay hiện tượng mới xuất hiện là do
bước nhảy được thực hiện; trong sự vật, hiện tượng đó lại biến đổi, đến điểm nút
mới lại tiếp tục xảy ra bước nhảy mới. Cứ như thế, sự vận động của sự vật, hiện
tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về số lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên
một đường dài thay thế nhau vô tận của sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện
tượng mới.
Quy luật lượng đổi – chất đổi- cịn nói lên chiều ngược lại, tức là khi chất thay đổi ,
chất mới đã ra đời sẽ tác động ngược trở lại làm cho lượng thay đổi, tăng thêm về

quy mô và tốc độ phát triển của sự vật hoặc làm cho những lượng mới ra đời.


7

1.2.3. Các hình thức của bước nhảy.
Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động
liên tục. Tùy vào sự vật hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng, trong đó
diễn ra sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà sẽ có nhiều hình thức bước
nhảy.
Căn cứ vào quy mơ và nhịp điệu của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, bộ
phận, yếu tố,.. của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số
mặt, một số yếu tố, một số bộ phận riêng lẻ của sự vật.
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay
đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời được thực
hiện trong thời gian ngắn làm chất của toàn bộ sự vật, hiện tượng biến đổi mau
chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Ví dụ Uranium 235 được tăng đến giới hạn (1kg)
thì ngay lập tức sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử. Bước nhảy dần dần được thực hiện từ từ,
từng bước, là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích lũy dần những yếu tố
của chất mới và loại bỏ chất cũ. Chẳng hạn như quá trình chuyển hóa từ vượn thành
con người qua từng thời kì, q trình này diễn ra dần dần và tiến hóa theo thời gian.
1.2.4. Tóm tắt nội dung quy luật.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
lượng và chất. Sự thay đổi dần dần về lượng trong giới hạn của độ tới điểm nút sẽ
làm chất thay đổi thông qua bước nhảy.Chất mới được tạo ra tác động trở lại lượng,
gây ra những biến đổi mới về lượng của nó. Q trình đó liên tục diễn ra dẫn đến
các phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng trong tự nhiên, tư duy và xã hội.
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận.

Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có mặt chất và lượng tồn tại, tác động
và làm chuyển hóa lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng
cả hai mặt về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện
về sự vật.


8

Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng trong những điều kiện nhất
định sẽ chuyển hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại, do đó trong nhận
thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có
thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất
mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật
với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, nên trong thực tiễn cần
phải khắc phục tư tưởng nơn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật
thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra
bước nhảy về chất của sự vật, do đó, cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu
khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật
chủ quan duy ý chí, khơng tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước
nhảy liên tục về chất; hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, khơng
dám thực hiện bước nhảy dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển
chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
Hình thức bước nhảy của sự vật rất đa dạng, do đó trong nhận thức và thực
tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với
từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát
triển khơng chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố
chủ quan của con người. Nên cần phải nâng cao tích cực chủ động để thúc đẩy q
trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.


Chương 2. VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY
LUẬT TRONG CUỘC SỐNG, HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN SINH VIÊN
VÀ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại mang tính quy luật. Qua đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận
của quy luật để vận dụng vào cuộc sống, học tập của bản thân sinh viên.


9

2.1. Từng bước tích lũy kiến thức, kiên trì học hỏi để thực hiện một “bước
nhảy”.
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng tích lũy dần dần về lượng
đến giới hạn nhất định, sẽ thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và trong việc học
tập của sinh viên cũng vậy.
Mỗi sinh viên đều trải qua giai đoạn học tập ở các bậc tiểu học, trung học phổ
thông kéo dài suốt 12 năm. Trong giai đoạn đó, mỗi học sinh đều trang bị cho mình
những kiến thức cơ bản của từng môn học thuộc hai lĩnh vực đó là khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Mặt khác, chính bản thân học sinh sẽ tự trang bị cho mình
những kĩ năng mềm, những hiểu biết về cuộc sống, xã hội ở các góc độ khác nhau
như kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm,.. Q trình tích lũy về lượng (tri thức) để
biến đổi về chất (kết quả học tập) là cả quá trình dài của đời học sinh, địi hỏi sự nỗ
lực khơng ngừng và khả năng của bản thân người học. Ý nghĩa về quy luật chuyển
hóa về lượng và chất cho ta thấy, bản thân mỗi học sinh cần tích tụ dần dần một
khối lượng kiến thức qua từng tiết học trên lớp cũng như giải bài tập ở nhà. Việc
lĩnh hội kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì bao gồm kì thi học kì và kì thi tốt
nghiệp. Bên cạnh đó, việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh
vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai đoạn học mới. Như vậy, trong học tập,
rèn luyện của học sinh thì q trình tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là
điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc lĩnh hội tri thức

của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất.
Mặt khác vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 là một điểm nút quan trọng, nhưng
vượt qua được kì thi đại học lại là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút
này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở
ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành tân sinh
viên. Từ cấp bậc trung học chuyển hóa đến bậc đại học sẽ có nhiều sự khác nhau
trong việc học tập và rèn luyện của học sinh.
Về việc tích lũy kiến thức ở đại học có sự khác biệt về chất so với phổ thông.
Khác ở chỗ, môi trường đại học có nhiều chương trình đào tạo khác nhau, kiến thức


10

nâng cao và mở rộng, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần mà
phải tự mình tìm tịi nghiên cứu. Do đó, địi hỏi ở sinh viên phải có các kỹ năng học
linh hoạt ở từng mơn, phải biến đổi q trình đào tạo thành q trình tự học, lấy quá
trình tự học làm phương pháp chính trong học tập để tiếp thu tri thức nền tảng mà
giảng viên truyền đạt. Việc lĩnh hội kiến thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng
và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều.
Đại học có điểm giống với các cấp bậc khác, đó là muốn lấy được tấm bằng cử
nhân, bản thân mỗi sinh viên phải tích lũy đủ số lượng tín chỉ theo quy định. Bên
cạnh đó, muốn đạt điểm cao cho từng học phần, ta phải trải qua các kỳ kiểm tra và
kỳ thi. Những kỳ thi chính là điểm tích lũy mà sinh viên phải có để kết thúc học
phần của mình. Có thể nói thời gian học và các kỳ kiểm tra là độ, các kỳ thi là điểm
nút và cuối cùng bước nhảy sẽ là thi tốt nghiệp. Nhưng điều lưu ý được rút ra từ ý
nghĩa phương pháp luận là khi sinh viên chưa tích lũy đủ kiến thức hay số lượng tín
chỉ thì cần phải học lại, bổ sung lượng kiến thức mà sinh viên chưa đạt cho đến khi
đầy đủ thì mới được thực hiện bước nhảy.
Vì vậy, trong nhận thức và rèn luyện, sinh viên phải nổ lực học tập ngay từ
đầu, tránh việc chạy nước rút mỗi khi đến kì thi, như thế là thiếu kinh nghiệm nhận

thức trong quá trình học tập và rèn luyện.
2.2. Trong đời sống học tập, nghiên cứu cần đi từ tuần tự dễ đến khó, tránh
nóng vội làm hỏng tiến trình.
Sinh viên nên tránh tư tưởng tả khuynh trong việc học tập, rèn luyện tức là khi
lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. Sinh viên cần tích lũy đủ
những kiến thức cơ bản để có sự chuyển hóa về chất mới, có thể học tiếp tục kiến
thức nâng cao hơn, khó hơn. Nên học tập, rèn luyện dần dần từ dễ đến khó, đây là
phương pháp học mang tính khoa học nhưng thực tế, khơng phải sinh viên nào cũng
thực hiện được. Nhiều người trong quá trình học khơng tập trung, ỷ y, mải chơi dẫn
đến tiến trình học tập bị chậm trễ, kiến thức hao mòn; khi sắp thi mới dồn kiến thức
vào học một lượt. Khoảng thời gian ơn thi chính là giai đoạn ta củng cố lại kiến
thức cũ chứ không phải học mới. Mặt khác, nhiều sinh viên có ý thức học tập nhưng


11

lại có tư tưởng nóng vội, muốn học nhanh để hơn người khác, chưa học căn bản đã
muốn nhảy lên nâng cao.
Với lượng kiến thức rộng lớn ở bậc đại học, ta cần có thời gian để lĩnh hội.
Bởi ta chưa tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết để có thể thấu hiểu được tri thức
đó. Nghĩa là ta đang trong khoảng giới hạn (độ) của tri thức. Vậy nên cần kiên trì
học hỏi, khơng được chán nản để có thể cung cấp đủ lượng làm chuyển hóa chất.
Sinh viên muốn lĩnh hội được kiến thức nhiều và đạt kết quả tốt, bản thân sinh viên
cần học tập hàng ngày, trao dồi tri thức dần dần, học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó
để có sự biến đổi về chất và tránh tình trạng nóng vội, chạy nước rút.
2.3. Phấn đấu liên tục trong học tập, rèn luyện tránh tư tưởng bảo thủ, trì truệ,
chủ quan.
Theo quan điểm triết học, chất thay đổi sẽ tác động trở lại lượng của sự vật.
Cũng như khi đỗ đại đọc, trở thành sinh viên chúng ta được tiếp thu những tri thức
cao hơn, mở rộng hơn. Chính vì thế, nhiệm vụ của bản thân sinh viên là tiếp tục học

hỏi, trau dồi thêm nhiều kiến thức tích lũy về lượng, để sau này trở thành thầy giáo,
cô giáo hay giảng viên đại học đóng góp cho xã hội, tránh việc đề cao kết quả đạt
được mà sa sút tiến trình.
Ở mơi trường đại học cũng như các cấp bậc khác, sinh viên phải trải qua nhiều
kì thi. Nhưng điểm khác biệt của đại học là kết quả của kì thi sẽ đánh dấu kết thúc
một giai đoạn và là bước khởi đầu sang một giai đoạn mới. Đòi hỏi bản thân sinh
viên phải có trình độ cao hơn, lượng kiến thức nền tảng nhiều hơn, do vậy, chúng ta
cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp cận được tri thức ở nhiều trình độ
nâng cao hơn. Việc này giúp sinh viên tránh được tư tưởng bảo thủ, trì truệ, không
dám thực hiện “bước nhảy” (sự thay đổi về chất) khi đã có sự tích lũy đủ về lượng
trong học tập và rèn luyện.
2.4. Giải pháp giúp sinh viên nâng cao giá trị đời sống học tập của bản thân để
cống hiến đổi mới đất nước.
Quá trình học tập ở đại học không bắt đầu ở giảng đường, cũng không bắt đầu
khi sinh viên lắng nghe giảng viên mà nó chỉ thật sự bắt đầu khi sinh viên chuẩn bị


12

cho mình các điều kiện cần thiết để tiếp cận mơn học như giáo trình, tài liệu liên
quan đến mơn học cũng như xem bài ở nhà. Sự chuẩn bị này giúp sinh viên có thể
chủ động tự đưa ra cho mình một vài câu hỏi liên quan đến nội dung học tập trên
lớp hoặc tự tạo cho mình tri thức làm nền tảng để tiếp nhận bài học một cách hệ
thống.
Ngồi ra, sinh viên phải trau dồi cho mình kỹ năng lật ngược tình thế của vấn đề.
Bởi tư duy ở đại học không phải là tư duy đơn giản, mà nó là hình thức tư duy phức
tạp, nâng cao đòi hỏi cả người học lẫn người dạy phải có tính sáng tạo, biết cách
thay đổi tình thế vấn đề theo những khía cạnh độc lập mà chưa ai đề cặp đến. Mặt
khác bản thân sinh viên nên tìm hiểu những thay đổi của xã hội thực tiễn, nắm bắt
cơ hội việc làm khi ngồi trên ghế nhà trường để sau này khi ra trường, sinh viên sẽ

dễ dàng tìm kiếu việc làm ổn định.


13

KẾT LUẬN
Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, hiện tượng, chỉ khi
nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong
hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên phải tích lũy dần về lượng. Mặt khác
phải thực hiện những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất.
Mỗi sinh viên cần tích cực học tập, chủ động trong việc học tập và rèn luyện của
mình cả về đức và tài, trở thành một con người phát triển toàn diện, tránh tư tưởng
chủ quan, nóng vội mà khơng chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Mối quan hệ biện
chứng giữa chất và lượng mang tính phổ biến, lặp đi lặp lại trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận vào
cuộc sống, học tập và rèn luyện của sinh viên để hồn thiện từng bước, từng q
trình của cuộc đời sinh viên.


14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Leenin.
2. Giáo trình những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
3. Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại. Trích dẫn từ: o/2015/06/qui-luat-chuyenhoa-tu-nhung-su-thay-oi.html?fbclid=IwAR2nlSMcvJgUhXQp37yMVtPA0mgink7tys2lJlXe16H1Xa4ioAsNu-phhc




×