Tải bản đầy đủ (.doc) (181 trang)

Lạm phát ở Việt Nam hiện nay Nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 181 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã đi qua hơn 20 năm đổi mới một cách ấn tượng với những
thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, Việt
Nam đã chuyển từng bước chắc chắn sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việt Nam cũng đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế để tự tin
bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã khẳng định
mức độ tiến bộ mà chúng ta đạt được trong hơn 20 năm qua.
Đến nay, Việt Nam đã vượt qua ngưỡng nước có thu nhập thấp và đang
nỗ lực theo đuổi mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Làm thế
nào để chúng ta có thể đạt được mục tiêu này trong hơn 10 năm nữa, khi mà
kinh tế vĩ mô của chúng ta trở nên bất ổn, sự ổn định của nền kinh tế đang trở
nên rất mong manh? Lạm phát đang đã có dấu hiệu quay trở lại từ năm 2004 và
tăng tốc từ giữa năm 2007. Thêm vào đó, tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ thế giới, khởi đầu từ Mỹ, đã làm cho nền kinh tế Việt Nam chao
đảo mạnh hơn. Từ chỗ phải trải qua tình trạng lạm phát bùng lên dữ dội và cối
năm 2007 đầu năm 2008, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một tình huống
rất khó khăn: lạm phát có nhiều nguy cơ quay trở lại, song chúng ta lại mong
muốn tăng tốc độ để đạt mục tiêu của năm 2020 và mục tiêu phát triển trong
tương lai xa hơn nữa.
Vấn đề đặt ra là nguyên nhân nào gây ra tình trạng lạm phát và bất ổn
kinh tê vĩ mô ở Việt Nam hiện nay? Ngoài tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ toàn cầu còn có những nguyên nhân nào khác nữa? Làm thế nào
để tăng trưởng cao và vững chắc trong dài hạn? … Thực tế đó đang đặt ra yêu
cầu cần phải có những nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về những nguyên nhân gây
ra lạm phát và những bất ổn kinh tế vĩ mô. Điều đó cũng cho thấy ý nghĩa lý
1
luận, thực tiễn và tính cấp thiết của đề tài: "Lạm phát ở Việt Nam hiện nay:
Nguyên nhân và giải pháp” trong bối cảnh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2007, khi lạm phát ở
Việt Nam tăng đột biến, vấn đề lạm phát ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của rất nhiều tác giả trong và ngoài nước. Cho đến nay, có rất nhiều
công trình đã nghiên cứu về lạm phát ở Việt Nam đã được công bố. Tuy nhiên,
các công trình này hầu hết là những bài viết được đăng tải trên các tạp chí, các
báo chuyên ngành và trong kỷ yếu hội thảo khoa học của một số cơ quan, viện
nghiên cứu.
Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu về lạm phát của Việt Nam
trong thời gian qua tập trung vào một số hướng nghiên cứu như sau:
2.1. Hướng nghiên cứu lạm phát của Việt Nam theo cách tiếp cận tiền tệ
Đây là hướng nghiên cứu được nhiều tác giả tham gia nhất. Do đó, có thể
nói các công trình thuộc nhóm này chiếm số lượng khá lớn trong số các công
trình nghiên cứu lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu các công trình thuộc hướng này, chúng tôi thấy có thể chia
thành 3 nhóm như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở lý thuyết về lạm phát do nguyên nhân tiền tệ, các tác
giả đã vận dụng vào việc phân tích, đánh giá nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam
và đồng thời, gợi ý hướng khắc phục.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, có thể kể đến các công trình sau:
- Phan Sỹ An và Trần Thị Kim Chi, (2008), Lạm phát Việt Nam: Nguyên
nhân và đề xuất chính sách, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 359 tháng 4/2008.
- Nguyễn Cao Đức, (2006), Các nhân tố quyết định lạm phát của Việt Nam
dựa trên cách tiếp cận tiền tệ, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 335, tháng 6/2006.
- Charles Adams, (2008), Chính sách kinh tế vĩ mô hiện nay - Những
thách thức đặt ra cho Việt Nam, Tập bài giảng dùng cho lớp đào tạo chính sách
công của Ngân hàng Phát triển Châu á, tháng 6/2007.
2
- Bựi Duy Phỳ, (2007), Mi quan h gia tin t v giỏ c ca Vit Nam
qua mt s mụ hỡnh nh lng, Nghiờn cu kinh t, s 347 - 4/2008.
- Nguyn i Lai, (2008), Nhn din, bỡnh lun v xut quan im

chớnh sỏch v n nh th trng ti chớnh Vit Nam sau mt nm gia nhp WTO,
Tp chớ Phỏt trin kinh t s 360, thỏng 5/2008.
Th hai, cỏc tỏc gi trc tip bn v cỏc gii phỏp ct gim lm phỏt
Vit Nam hin nay bng cỏc cụng c chớnh sỏch ti chớnh - tin t.
Cỏc cụng trỡnh thuc nhúm ny cú rt nhiu. Tiờu biu trong s ú cú mt
s cụng trỡnh in hỡnh:
- Lờ Hựng, (2006), Gii phỏp hon thin v phỏt trin nghip v th
trng m, Nghiờn cu kinh t s 340 thỏng 9/2006.
- Nguyn i Lai, (2008), Chng lm phỏt t phớa ngõn hng, Thi bỏo
kinh t Vit Nam, kinh t 2007 - 2008, Vit Nam v th gii.
- Lờ Xuõn Ngha, (2008), Vn dng cụng c lói sut Vit Nam trong
giai on hin nay, Tp chớ phỏt trin kinh t thỏng 4/2008.
- Lờ Quc Lý, (2005), Chớnh sỏch tin t v lm phỏt: Cn cú l trỡnh kiờn
quyt v nht quỏn, Tp chớ Ti chớnh 3/2008.
- Nguyn c Hng, (2008), iu hnh chớnh sỏch tin t nm 2007, Thi
bỏo Kinh t Vit Nam, kinh t 2007 - 2008 Vit Nam v th gii.
- Cao C Bụi, (2008), Lm phỏt v chng lm phỏt nhỡn t gúc iu
hnh chớnh sỏch tin t, Tp chớ Phỏt trin kinh t 4/2008.
- V Thanh T Anh, (2008), Gim thõm ht ngõn sỏch khụi phc s n
nh v mụ, Tp chớ Ti chớnh 6/2008.
- Nguyễn Đại Lai (2009), Bình luận và dự báo về các động thái tài chính
Việt Nam sau các quyết định mới nhất của Ngân hàng Nhà nớc, Tạp chí Ngân
hàng số 29 tháng 12/2009
Th ba, cỏc tỏc gi i vo nghiờn cu c s lý thuyt v thc tin ca
chớnh sỏch mc tiờu lm phỏt, khuyn ngh vn dng chớnh sỏch ú Vit Nam
nhm t c t l lm phỏt ti u trong trung hn v di hn.
3
Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này có thể kể tới là:
- Học viện Ngân hàng, (2005), Chính sách mục tiêu lạm phát cho Việt
Nam (gồm 14 bài viết về vấn đề này), kỷ yếu hội thảo khoa học ngân hàng, Học

viện Ngân hàng tháng 12/2005.
- Bùi Văn Hải, (2007), Chính sách tiền tệ theo cơ chế lạm phát mục tiêu,
Tạp chí Ngân hàng 11/2007.
- Nguyễn Văn Tiến và Vũ Hoàng Phương Quế (2006), Chính sách mục
tiêu lạm phát - Kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Ngân
hàng số 1 + 2/2006.
- Phí Trọng Hiển (2005), Lạm phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải
pháp cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tháng 4/2006.
2.2. Hướng nghiên cứu lạm phát của Việt Nam trong mối quan hệ với
tăng trưởng kinh tế
Đi theo hướng này, các tác giả đã vận dụng các lý thuyết kinh tế vĩ mô về
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát (Lý thuyết cổ điển, Lý thuyết
Keynes, Lý thuyết hậu Keynes...) để phân tích một số trường hợp ở các nước
châu Á.
Các công trình tiêu biểu cho nhóm này có thể kể đến là:
- Lê Việt Đức và Trần Thị Thu Hằng, (2008), Quan hệ giữa tăng trưởng
và lạm phát: lý thuyết và kinh nghiệm các nước đang phát triển châu Á, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế số 359 - tháng 4/2008.
- Nguyễn Thị Hường, (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng, lạm phát và việc
làm. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Kỷ yếu đề tài cấp cơ sở -
Viện Kinh tế và Phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh năm 2007.
- Lê Quốc Lý, (2006), Đi tìm lời giải cho bài toán: Tăng trưởng kinh tế
cao và lạm phát thấp trong năm 2005, Tạp chí Kinh tế và phát triển 3/2006.
- Nguyễn Quang Thái, (2007), Tăng trưởng nóng: nhận dạng, nguy cơ và
giải pháp (ý tưởng ban đầu), Nghiên cứu kinh tế số 347 tháng 4/2007.
4
2.3. Hướng nghiên cứu lạm phát ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân và
từ đó đề xuất các giải pháp chống lạm phát ở nước ta hiện nay
Các tác giả đi theo hướng nghiên cứu này không chỉ nghiên cứu nguyên

nhân lạm phát do yếu tố tiền tệ, như một số tác giả đã được nêu ở hướng nghiên
cứu thứ nhất, mà họ còn đề cập tới các nguyên nhân khác gây ra lạm phát ở Việt
Nam hiện nay. Đó là lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy, lạm phát do
yếu tố tâm lý, lạm phát do việc chuyển đổi cơ chế quản lý giá đối với một số mặt
hàng thiết yếu (xăng dầu, điện,…), lạm phát do ảnh hưởng của quá trình hội
nhập. Đặc biệt, lạm phát do nguyên nhân từ sự yếu kém trong quản lý - điều
hành kinh tế vĩ mô của chính phủ đã được nhiều tác giả phân tích.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất các giải pháp khắc phục lạm phát
như thực hiện việc thắt chặt tiền tệ và tài chính để cắt giảm tổng cầu, trợ giá đối
với một số mặt hàng là đầu vào sản xuất, các giải pháp giảm nhập siêu, thực
hiện cơ chế giá thị trường của một số mặt hàng thiết yếu, do Nhà nước quản lý,
theo một lộ trình thích hợp,…
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến những công trình sau:
- Văn phòng Trung ương - Vụ Kinh tế, (2008), Những vấn đề kinh tế - xã
hội nổi lên trong thời gian gần đây và giải pháp khắc phục, Kỷ yếu hội thảo tháng
3/2008.
- Nguyễn Thị Hường, (2008), Bàn thêm về nguyên nhân gây ra lạm phát ở
Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 9 tháng 5/2009.
- Trần Hoàng Ngân và Võ Thị Tuyết Anh, (2008), Lạm phát, nguyên nhân
và giải pháp, Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 4/2008.
- Trương Thị Hồng, (2008), Lạm phát nên kiểm soát bằng nhiều cách, Tạp
chí Phát triển kinh tế tháng 4/2008.
- Ngô Trí Long, (2008), Đồng tâm, hiệp lực chống lạm phát, Tạp chí Tài
chính 4/2008.
5
- Hoàng Ngọc Hoà, (2008), Những giải pháp kinh tế vĩ mô của
chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả góp phần khắc phục lạm phát cao, đảm bảo
phát triển kinh tế bền vững, Tạp chí Ngân hàng số 7 tháng 4/2008.
- Nguyễn Ngọc Tuyến, (2008), Bình ổn giá nhìn từ các quan hệ kinh tế vĩ
mô, Tạp chí Tài chính tháng 3/2008.

- Nguyễn Thanh Bình, (2008), Lạm phát, thâm hụt thương mại và giải
pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, Tạp chí Ngân hàng số 13 tháng 7/2008.
- Trọng Hồ, (2008), Chống lạm phát bằng tổ chức lại khâu lưu thông hàng
hóa, Tạp chí Thương mại số 20/2008.
- Nguyễn Đắc Hưng, (2008), Phân tích đúng các nguyên nhân gây ra lạm
phát để phối hợp đồng bộ các giải pháp kiềm chế, Tạp chí Ngân hàng số 15
tháng 8/2008.
- Gi¸ ®ì kiÒm chÕ l¹m ph¸t, Thêi B¸o Ng©n Hµng ngµy 13/3/ 2010
Như vậy, có thể thấy rằng, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về lạm phát ở Việt Nam, nhưng các nghiên cứu còn hết sức tản mạn, chưa có
công trình nào nghiên cứu vấn đề này một cách đầy đủ, toàn diện. Hiện còn
thiếu những công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc nguyên nhân
gây ra lạm phát và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam, bảo đảm cho nền kinh
tế tăng trưởng cao và ổn định cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn và hy vọng đóng góp một
phần nhỏ vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về lạm phát ở
Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài có ba mục tiêu chính sau đây:
- Phân tích và làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên nhân gây
ra lạm phát cũng như cách khắc phục.
- Phân tích, đánh giá các nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
6
- xut cỏc gii phỏp khng ch v kim soỏt lm phỏt Vit Nam
trong ngn hn, trung hn v di hn, ng thi, duy trỡ n nh v tng trng
kinh t trong nhng nm tip theo.
4. i tng v phm vi nghiờn cu
- i tng: Nguyờn nhõn v gii phỏp khc phc lm phỏt Vit Nam
hin nay.
- Phm vi nghiờn cu: Tp trung kho sỏt thc trng lm phỏt v nguyờn

nhõn gõy ra lm phỏt Vit Nam t 2004 n nay v xut gii phỏp khc
phc lm phỏt cho thi k mi.
5. Phng phỏp nghiờn cu
Đề tài sử dụng phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng để
phân tích, đánh giá các vấn đề nghiên cứu.
Bên cạnh đó, đề tài sử dụng các phơng pháp cụ thể nh phân tích, so sánh,
tổng hợp, thống kê, mô hình hoá và phơng pháp chuyên gia.
6. Kt cu ca ti:
Ngoi phn m u v kt lun ti c kt cu thnh 3 phn 7 tit,
c trỡnh by trong 169 trang.
7
PHẦN I
LẠM PHÁT VÀ CHỐNG LẠM PHÁT –
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1.1. Khái niệm, cách đo lường và phân loại lạm phát
* Khái niệm lạm phát
Có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát, về cơ bản có thể thấy có ba
khái niệm sau:
Thứ nhất, lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung trong nền
kinh tế và nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát là yếu tố tiền tệ. Đây là khái
niệm lạm phát do các nhà kinh tế học trường phái cổ điển và tân cổ điển đưa ra.
Đại diện tiêu biểu của nhóm này là nhà kinh tế học Milton Friedman.
Thứ hai, lạm phát là sự gia tăng mức giá chung của nền kinh tế và nguyên
nhân của lạm phát không chỉ do yếu tố tiền tệ mà còn bao gồm cả những nguyên
nhân khác như sự biến động giá cả của nguyên liệu đầu vào quan trọng như giá
năng lượng, vật liệu. Khái niệm này là của các nhà kinh tế học hiện đại - đại
diện tiêu biểu là nhà kinh tế học Paul. A. Samuelson. Với khái niệm này, Paul.
A. Samuelson không đề cập trực tiếp đến sự tăng lên liên tục của mức giá chung
như các nhà kinh tế học trường phái tiền tệ. Tuy nhiên, khi nói đến lạm phát ông

cũng đã đặt nó trong mối quan hệ so sánh các chỉ số giá quá các thời kỳ, các
năm khác nhau. Do đó, không thể đi đến kết luận rằng quan niệm của
Samuelson là mức giá cả chỉ tăng lên một lần đã được coi là lạm phát như một
số tác giả Việt Nam đã từng phê phán.
Thứ ba, lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung hay sự giảm
giá liên tục sức mua của đồng tiền. Đây là khái niệm hiện nay của hầu hết các
tác giả trong và ngoài nước.
Khái niệm lạm phát thứ ba sẽ được sử dụng trong toàn bộ nghiên cứu của
đề tài. Bởi lẽ, nó đề cập đầy đủ bản chất của lạm phát. Lạm phát không phải là
8
hiện tượng giá cả của một vài hàng hóa hay vài nhóm hàng hóa nào đó tăng lên
mà là sự tăng lên của mức giá chung của nền kinh tế. Khi mức giá chung tăng
lên mọi người phải trả nhiều tiền hơn cho giỏ hàng hóa và dịch vụ mà họ mua.
Hơn nữa, có thể coi mức giá là thước đo giá trị của đồng tiền. Sự gia tăng của
mức giá có nghĩa là giá trị của đồng tiền bị suy giảm bởi vì khi đó mỗi đơn vị
tiền tệ (VNĐ, USD…) sẽ mua được một lượng hàng hóa ít hơn.
Cần phân biệt rõ hai khái niệm sau đây có liên quan đến lạm phát.
- Giảm lạm phát là sự sụt giảm tỷ lệ lạm phát, tức là mức giá chung của nền
kinh tế vẫn gia tăng song mức độ tăng mức giá chung có xu hướng chậm lại.
Chẳng hạn, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 1993 là 5,2% trong khi năm 1992 tỷ
lệ đó là 17,6% có thể nói năm 1993 nền kinh tế Việt Nam có giảm lạm phát so với
năm 1992 vì tốc độ tăng lạm phát của năm 1993 là 5,2% < 17,6% của năm 1993.
- Thiểu phát là khi mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống bằng 0 hoặc
dưới 0. Chẳng hạn, năm 2000 nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng thiểu phát,
với tỷ lệ lạm phát -0,6%.
* Cách đo lường lạm phát
- Một số khái niệm liên quan đến đo lường lạm phát

Mức giá (Price - P) chung của nền kinh tế tại một thời điểm được tính
theo số bình quân gia quyền của giá nhiều hàng hóa và dịch vụ. Để đo lường

mức giá chung, các nhà thống kê thường sử dụng chỉ số giá cả.

Chỉ số giá cả: (Price Index – PI) là thước đo mức giá chung tại thời
điểm hiện tại (nếu coi thời điểm cần so sánh là 100 đơn vị). Các chỉ số giá cả
thường được sử dụng là: chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index – CPI); Chỉ
số điều chỉnh GDP (Deputation Gross Domestic Index – D); Chỉ số giá cả sản
xuất (Producer Price Index – PPI); Chỉ số bán buôn (Whole Sale Price Index –
WPI); Chỉ số giá bán lẻ (Rerail Price Index – RPI) và

Tỷ lệ lạm phát (Inflation rate – П) là thước đo phần trăm thay đổi của
chỉ số giá tại một thời điểm so với thời điểm khác (làm gốc).
9
- Phương pháp đo lường các chỉ số lạm phát
Ở hầu hết các quốc gia và Việt Nam (từ năm 1998 đến nay) thường sử
dụng 3 chỉ số quan trọng nhất đó là CPI, D và П để đo lường lạm phát.
a. Cách tính hệ số điều chỉnh GDP – D
Chỉ số điều chỉnh GDP là tỷ lệ giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế
GDP danh ngh
D %
GDP th
= ∗
Üa
100
ùc tÕ
GDP danh nghĩa là giá trị sản lượng hiện tại tính theo giá hiện hành
GDP thực là giá trị sản lượng tính theo giá của năm gốc. Vì vậy, D có thể
được hiểu như là mức giá của tất cả các thành phần của GDP bao gồm của tiêu
dùng đầu tư (I), mua sắm chính (G) và hàng hóa xuất khẩu.
b. Chỉ số tiêu dùng CPI
CPI là chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất để đo lường lạm phát. CPI đo

lường chi phí mua một giỏ hàng hóa điển hình của người tiêu dùng. Để tính CPI
người ta tiến hành như sau:
- Bước 1: Chọn một giỏ hàng hóa điển hình đối với người tiêu dùng và
gắn quyền số cho chúng theo mức độ quan trọng của nó trong ngân sách tiêu
dùng đối với mặt hàng đó. Chẳng hạn, để tính chỉ số giá tiêu dùng ở Hoa Kỳ
người ta chọn 364 hàng hóa và dịch vụ riêng biệt được thu thập từ 21.000 cơ sở
trong 91 vùng cả nước
1
. Qua điều tra ở các vùng đã lựa chọn ở Hoa Kỳ, người ta
thấy người tiêu dùng chi 20% ngân sách của họ cho thực phẩm, 50% cho nhà
cửa và 30% cho dịch vụ y tế… và dựa trên cơ sở đó họ đã gắn các trọng số
tương ứng cho từng mặt hàng và nhóm hàng để tính CPI. Tuy nhiên, số mặt
hàng và quyền số gắn với từng mặt hàng trong giỏ hàng hóa để tính CPI không
phải là bất biến, nó được điều chỉnh khi có sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng.
Ở Việt Nam, để tính CPI từ năm 1998 đến 10/2009 sử dụng 10 nhóm
hàng sau đây:
Nhóm I: Lương thực, thực phẩm;
1
Paul. A. Samuelson và William D. Nordhans. Kinh tế học (xuất bản lần thứ 15), Tập II, tr. 392.
10
Nhóm II: Đồ uống và thuốc lá;
Nhóm III: May mặc, giày dép, mũ nón;
Nhóm IV: Nhà ở và vật liệu xây dựng;
Nhóm V: Thiết bị và đồ dùng gia đình;
Nhóm VI: Dược phẩm, y tế;
Nhóm VII: Phương tiện đi lại, bưu điện;
Nhóm VIII: Giáo dục;
Nhóm IX: Văn hóa, thể thao, giải trí
Nhóm X: Hàng hóa và dịch vụ khác.
Số lượng mặt hàng trong 10 nhóm hàng hóa thay đổi từ 396 năm 2000 lên

490 mặt hàng năm 2005.
Từ 10/2009 số lượng nhóm hàng tăng từ 10 lên 11; số lượng mặt hàng sẽ
tăng thêm 82, từ 490 – 572 mặt hàng. Quyền số của các nhóm hàng để tính CPI
ở Việt Nam cũng thay đổi dựa trên kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê.
Chẳng hạn, quyền số của nhóm lương thực, thực phẩm giảm khoảng 12,98% từ
mức 60,86% tháng 5/1997 xuống còn 47,90% năm 1999 và tiếp tục giảm còn
42,7% năm 2005.
- Bước 2: Chọn thời điểm chỉ số giá 100% sau đó tính chỉ số giá tiêu dùng
cho thời điểm tính toán. Ví dụ, giả sử ở Hoa Kỳ với các thông số đã chọn như trên
nếu chọn năm 1995 làm năm gốc thì chỉ số giá năm đó là 100%, có nghĩa là:
CPI
1995
= 100 = [(0,20 x 100) + (0,50 x 100) + (0,30 x 100)]
Năm 1996 giá thực phẩm tăng thêm 2% đạt 102%; giá nhà cửa tăng 6%
đạt 106%; giá dịch vụ y tế tăng 10% đạt 110%:
CPI
1996
= 0,20 x 102 + 0,50 x 106 + 0,30 x 110 = 106,4
Nói cách khác, nếu lấy năm 1995 làm gốc (CPI = 100) thì CPI của Hoa
Kỳ năm 1996 là 106,4.
Chỉ số CPI ở Việt Nam từ 1998-2007 được tính cho hàng tháng so với
các gốc so sánh: Cùng tháng năm trước, tháng 12 năm trước, tháng trước. Từ
9/2007 ngoài các gốc trên Tổng cục Thống kê còn tính CPI bình quân từ đầu
11
năm đến kỳ báo cáo so với cùng kỳ năm trước. Do đó, có sự khác nhau giữa các
chỉ số lạm phát theo các cách tính ở trên. Chẳng hạn, nếu tính CPI theo phương
pháp so sánh với tháng trước đó sau đó cộng dồn chỉ số lạm phát của các tháng
để tính lạm phát của cả năm thì năm 2007 chỉ số CPI của Việt Nam là 12,63%
trong khi tính theo phương pháp bình quân thì chỉ số đó chỉ là 8.13%.
Cách tính thứ nhất có ưu điểm là dễ nhận thấy những biến động của từng

thời điểm và có thể nắm được chu kỳ của nó để kịp thời có những giải pháp ứng
phó. Tuy nhiên, nhược điểm của nó CPI tính theo cách này dễ bị lệ thuộc vào
chính những biến động đó mà không phản ánh đúng tình hình của cả năm hay
của cả giai đoạn.
Cách thứ hai có ưu điểm là loại bỏ được những biến động ngắn hạn nhưng
lại không phản ánh đúng diễn biến thị trường ở những thời điểm khác nhau.
Do vậy, hiện nay ở Việt Nam thường tính toán CPI theo cả 2 phương
pháp trên.
* Sự khác nhau giữa D và CPI
- D phản ánh tình hình lạm phát của tất cả mọi hàng hóa và dịch vụ sản
xuất trong GDP, CPI chỉ phản ánh tình hình lạm phát của mặt hàng tiêu dùng cơ
bản trên thị trường của người tiêu dùng.
- D chỉ phản ánh sự thay đổi giá cả sản xuất trong nước còn CPI bao gồm
giá cả các mặt hàng nhập khẩu. Do vậy, khi giá hàng nhập khẩu tăng thì kéo CPI
tăng theo. Hiện tượng được gọi là nhập khẩu lạm phát.
- CPI thường gắn quyền số cố định cho hàng hóa tiêu dùng trong một thời
gian tương đối dài, còn D gắn với quyền số thay đổi của mọi hàng hóa sản xuất
trong nước. Do đó, CPI phóng đại giá sinh hoạt khi người tiêu dùng đã thay thế
những hàng hóa tương đối rẻ hơn cho những hàng hóa tương đối đắt hơn.
Ngoài ra CPI không thể hiện chính xác những thay đổi về chất lượng hàng
hóa và dịch vụ. Chẳng hạn, việc sử dụng các dược phẩm mới thay đổi cho
những ca phẫu thuật tốn kém trước đây cũng không được phản ánh trong CPI.
12
Năm 2008, khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam tăng cao, Chính phủ Việt
Nam đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Một số nhà
nghiên cứu kinh tế Việt Nam mà tiêu biểu là PGS,TS Vũ Ngọc Nhung đã lên
tiếng phản đối Ngân hàng nhà nước Việt Nam vì họ cho rằng lạm phát ở Việt
Nam là lạm phát giá cả chứ không phải do yếu tố tiền tệ gây ra nên không thể
dùng công cụ tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Ông cho rằng, với hành động đó giải
pháp chống lạm phát vừa không đúng vừa làm giảm động lực tăng trưởng kinh

tế và cần phải loại bỏ lạm phát giá cả ra khỏi chỉ số lạm phát.
Trên thực tế, giá trị đo bằng tiền của hàng hóa thay đổi có thể do hai
nguyên nhân chủ yếu, một là, do lượng tiền tăng nhanh hơn so với mức tăng của
cung hàng hóa thì sẽ gây ra lạm phát tiền tệ; hai là, lượng cung hàng hóa giảm
sút do các yếu tố khác nhau như thiên tai, độc quyền… gây ra lạm phát giá cả.
Do đó, không thể loại bỏ lạm phát giá cả khi đo lường chỉ số lạm phát.
Tuy nhiên, để làm cơ sở cho việc điều hành chính sách tiền tệ một số
nước đã loại bỏ ra khỏi rổ hàng hóa tính CPI các mặt hàng như lương thực, thực
phẩm, năng lượng (là những mặt hàng có giá cả biến động do thiên tai, độc
quyền mang tính chất tạm thời). Khi đó, chỉ số lạm phát được gọi là chỉ số lạm
phát cơ bản (core inflation). Bởi vì, họ cho rằng dùng công cụ tiền tệ, chẳng hạn
như nâng lãi suất không thể làm cho giá xăng thế giới giảm xuống. Nhiều
nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy rằng, các nước có cách tính lạm phát
không hoàn toàn giống nhau, không phải nước nào cũng loại nhiều hàng hóa nói
trên ra khỏi rỏ hàng hóa khi tính CPI.
Đối với Việt Nam không thể và không cần thiết phải loại bỏ những mặt
hàng lương thực, thực phẩm, năng lượng ra khỏi rổ hàng hóa để tính CPI bởi hai
lý do, một là, các mặt hàng lương thực, thực phẩm còn chiếm một tỷ trọng rất
lớn trong cơ cấu tiêu dùng của người dân nước ta; hai là, sự biến động của
những mặt hàng trên trong điều kiện hiện nay không chỉ mang tính chất tạm thời
mà đã trở thành xu hướng dài hạn do các nguồn cung ngày càng hạn chế (giới
hạn bởi các nguồn tài nguyên thiên nhiên). Nhưng, điều đáng lưu ý ở đây là, các
13
giải pháp khắc phục lạm phát cần căn cứ vào nguyên nhân của nó để "chữa trị
đúng thuốc, đúng bệnh", ngoài nguyên nhân do tiền tệ, chính sách tiền tệ chỉ sử
dụng để cứu nền kinh tế ở những thời điểm cực kỳ cần thiết khi lạm phát đang
có nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Cách tính tỷ lệ lạm phát:
t t
t

t
t
t
t
P P
%
P
P
hay
P
1
1
1
100
{ 1} 100%




Π = ∗
Π = − ∗
Trong đó:
t
: tỷ lệ lạm phát
P
t
, P
t-1
: chỉ số giá của thời kỳ t và t-1
Với ví dụ ở trên tỷ lệ lạm phát của Hoa Kỳ năm 1996 là:

,
% , %
106 4 100
100 6 4
100

Π = ∗ =
* Phân loại lạm phát
Có rất nhiều cách phân loại lạm phát và trong mỗi cách lại có nhiều cách
phân chia khác nhau tùy vào mục đích nghiên cứu. Sau đây là một số cách phân
loại cơ bản:
- Căn cứ vào mức độ (tỷ lệ) lạm phát chia thành 3 cấp độ cơ bản:
• Lạm phát vừa phải: đặc trưng của cấp độ này là giá cả tăng chậm và có
thể dự đoán được, tỷ lệ lạm phát hàng năm một chữ số (< 10%/năm).
• Lạm phát phi mã: tỷ lệ lạm phát hai chữ số hoặc và > 50%/năm).
• Siêu lạm phát: Lạm phát từ ba chữ số trở lên/năm. Lạm phát đã từng xảy
ra của Đức sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ lạm phát lên đến trên 10 chữ
số (năm 1924 là 10.000.000.000); Việt Nam năm 1986 (774,76%/năm) .
Ngoài ra cũng theo cách phân loại trên còn có một số tác giả chia lạm
phát thành 6 cấp độ: lạm phát ỳ (dưới 3%/năm), lạm phát nhẹ (dưới 8%/năm);
lạm phát vừa phải (8 – 12%/năm); lạm phát cao (hai con số và < 50%/năm); lạm
14
phát phi mã (2 con số và > 50%/năm) và siêu lạm phát (từ ba chữ số trở
lên/năm).
- Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, có các loại lạm phát sau đây:
+ Lạm phát do cầu kéo
+ Lạm phát chi phí đẩy
+ Lạm phát tiền tệ
+ Lạm phát kỳ vọng
+ Lạm phát cơ cấu

+ Lạm phát do nguyên nhân bên trong (do nội tại của nền kinh tế) và lạm
phát do nguyên nhân bên ngoài (tác động của nhân tố bên ngoài nước).
+ Lạm phát do nguyên nhân chủ quan (chủ yếu do chính sách của chính phủ)
và do nguyên nhân khách quan (do tác động từ bên ngoài và ảnh hưởng của thiên
tai, bệnh tật…). Ngoài các cách phân loại trên đây, còn có cách phân loại lạm phát
theo thời gian. Bao gồm lạm phát trong ngắn hạn và lạm phát trong dài hạn.
1.1.2. Tác động của lạm phát và thiểu phát đối với kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế - xã hội
Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội.
Lạm phát nhìn chung có tác động tiêu cực đối với phát triển kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể một tỷ lệ lạm phát vừa phải cũng có tác
động tích cực, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Một là, tác động tiêu cực của lạm phát đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, lạm phát cao gây mất ổn định kinh tế vĩ mô, làm giảm tốc độ
tăng trưởng và sản lượng của nền kinh tế.
Khi lạm phát tăng và không được kiểm soát, giá đầu vào sản xuất và giá
đầu ra của các sản phẩm biến động thường xuyên tạo ra môi trường kinh doanh
không ổn định. Điều đó sẽ dẫn đến đầu tư của doanh nghiệp giảm sút. Đầu tư
giảm làm giảm thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp, đến lượt nó sẽ làm
giảm đầu tư trong chu kỳ tiếp theo... Hiệu ứng dây chuyền đó sẽ làm giảm tốc
độ tăng trưởng và sản lượng của nền kinh tế.
15
Môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, đầu tư nước ngoài vào trong
nước sẽ giảm mạnh và điều này thêm một nguyên nhân làm giảm GDP và đây là
một tác động rất đáng kể đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Khi lạm phát cao, giá cả bị bóp méo dẫn đến phân bổ nguồn lực không
hiệu quả. Bởi vì, lạm phát cao làm biến dạng giá cả tương đối và quyết định của
khách hàng, khi đó, thị trường ít có khả năng phân bổ nguồn lực một cách hợp
lý, dẫn đến lãng phí các nguồn lực phát triển.
Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, làm tăng thêm chi phí của doanh nghiệp

do lãi suất tăng và do doanh nghiệp phải thường xuyên điều chỉnh thực đơn…
góp thêm một nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp,
giảm sản lượng, thu nhập của nền kinh tế.
Thứ hai, lạm phát cao gây ra nhiều vấn đề xã hội bức xúc
Khi đầu tư giảm sút do lạm phát gây ra như đã phân tích ở trên doanh
nghiệp sẽ phải sa thải công nhân, làm cho tình trạng thất nghiệp tăng lên, thu
nhập của người lao động bị giảm sút. Đồng thời, lạm phát cao còn làm giảm lợi
tức và tăng thêm chi phí cho người gửi tiết kiệm.
Lạm phát bất ngờ tăng cao, gây mất công bằng xã hội, người cho vay bị
thiệt và người đi vay được lợi.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam tác động của lạm phát còn
làm sâu sắc hơn chênh lệch giàu nghèo trong đó người nghèo bị thiệt hại nhiều
nhất.
Công trình nghiên cứu "lạm phát đối với các nhóm dân cư" do Từ Thúy
Anh và Đào Nguyên Thắng thực hiện, đã cho kết quả định lượng về mức độ ảnh
hưởng của lạm phát đối với các nhóm dân cư ở thành thị và nông thôn: lạm phát
có ảnh hưởng tiêu cực ở mức độ cao hơn đối với khu vực nông thôn so với khu
vực thành thị trong tất cả các tháng từ tháng 1 – 12/2006. Đồng thời, nghiên cứu
này cũng chỉ ra rằng, kết quả tác động của lạm phát đối với nhóm 10% dân cư
nghèo nhất cao hơn so với 10% dân số giàu nhất (24,45% so với 17,61%)
1
.
Thứ ba, trường hợp xẩy ra lạm phát phi mã và siêu lạm phát có thể dẫn
đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
1
Tạp chí Tài chính số 10/2008; tr. 38
16
Khi lạm phát tấn công vào nền kinh tế, sẽ làm mất niềm tin của người
dân, dân chúng ồ ạt rút tiền ở ngân hàng làm cho hệ thống ngân hàng có thể bị
lung lay, nhiều ngân hàng có khả năng bị phá sản.

Lạm phát càng lên cao, các lực lượng đầu cơ sẽ có tìm cách trục lợi (tiêu
biểu là cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở các nước châu Á vào những năm
1997-1998), dân chúng sẽ hoang mang làm cho các thị trường hỗn loạn. Điều
này có thể dẫn đến mất ổn định không chỉ kinh tế mà cả chính trị - xã hội. Điển
hình là trường hợp của Inđônêxia vào những năm cuối của thập kỷ 90 thế kỷ
XX. Đồng tiền càng mất giá, gánh nặng nợ nước ngoài càng tăng càng làm trầm
trọng thêm cán cân đối nội và đối ngoại dẫn đến mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhiều doanh nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp tăng cao, tệ nạn xã hội sẽ tăng
lên, càng làm sâu sắc hơn những bất ổn định chính trị - xã hội. Do vậy, nhiều
nước trong đó có Hoa Kỳ đã coi "lạm phát" là kẻ thù số 1 của nhân loại.
Hai là, tác động tích cực của lạm phát đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, trong những trường hợp cụ thể một sự tăng lên của mức giá ở
một mức độ vừa phải có tác động kích thích tăng trưởng kinh tế.
Từ phân tích lý thuyết các mô hình tổng cung, các nhà kinh tế đã rút ra
phương trình biểu thị mối quan hệ giữa mức giá và sản lượng:
Y =
Y
+ α (P – P
e
) (1)
Trong đó:
Y : sản lượng thực tế của nền
kinh tế ứng với mỗi mức giá.
Y
: sản lượng tiềm năng của
nền kinh tế
P
e
: mức giá dự kiến
α : hệ số co giãn của sản

lượng do sự thay đổi giữa mức giá
thực tế và mức giá dự kiến.
17
Y
1
Y
2
Y
3
P
P
P
P
e
Y Y (P P )
α
= + −
Biểu đồ 1.1. Quan hệ giữa sản
lượng và mức giá
- Khi sản lượng thấp hơn sản lượng tiềm năng
Y
một sự tăng lên trong
mức giá dự kiến từ P
1
→ P
2
sẽ làm cho sản lượng tăng lên từ Y
1
→ Y
2

.
- Kể cả khi sản lượng đã đạt được mức sản lượng tiềm năng Y, một sự
tăng lên trong mức giá từ
P
→ P
3
cũng có tác động kích thích sản lượng tăng từ
Y
→ Y
3
. Tuy nhiên, trong trường hợp này sự tăng lên của sản lượng chỉ đạt
được trong ngắn hạn, khi giá tăng lên trong một thời gian nhất định nền kinh tế
sẽ điều chỉnh về mức sản lượng tiềm năng.
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu định lượng của một số tác giả về mối quan
hệ giữa tăng trưởng và lạm phát cũng cho thấy rằng, trong những năm tỷ lệ lạm
phát ở mức vừa phải (1996-1997 và 2003-2004) tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
được ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao xấp xỉ 2 lần so với tỷ lệ lạm phát
1
.
Thứ hai, ở những trạng thái nhất định của nền kinh tế có sự đánh đổi trong
ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp, có nghĩa là một sự tăng lên trong mức giá
có tác động làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn.
Từ phương trình trong mô hình tổng cung (1) có thể rút ra phương trình
biểu thị mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp như sau:
П = П
e
- β(U – U
n
)
Trong đó: П: tỷ lệ lạm phát thực tế; П

e
: tỷ lệ lạm phát dự kiến; U: tỷ lệ thất
nghiệp thực tế; U
n
: tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên; β: độ co giãn mức chênh lệch giữa
thất nghiệp thực tế và thất nghiệp tự nhiên.
Khi nền kinh tế ở điểm A tỷ lệ lạm
phát П
1
> П
2
tỷ lệ thất nghiệp U
1
< U
2

Ngược lại, khi nền kinh tế ở điểm
B, tỷ lệ lạm phát П
2
< П
1
tỷ lệ thất nghiệp
U
2
> U
1
.
1
Nguyễn Văn Công (2005), Tạp chí kinh tế phát triển số 3/2005 và Bùi Duy Phú (2007), Tạp chí Ngân hàng số
12/2007.

18
U
1
U
n
U
2
П
2
П
П
1
П
U
A
B
A
Biểu đồ 1.2. Quan hệ giữa lạm phát
và thất nghiệp trong ngắn hạn
Tuy nhiên, sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp chỉ trong ngắn hạn,
khi tỷ lệ lạm phát còn ở mức thấp.
Khi lạm phát lên cao đến một ngưỡng nhất định thì tác động của lạm phát
đến nền kinh tế như đã phân tích ở trên. Đến khi đó, không những không có sự
đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp mà lạm phát còn làm trầm trọng thêm tình
trạng thất nghiệp.
Một số nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam về mối quan hệ giữa lạm phát và
thất nghiệp (việc làm) cũng cho thấy, trong một số năm có mối quan hệ ngược
giữa tốc độ tăng trưởng việc làm và lạm phát. Chẳng hạn, năm 2000, lạm phát
-0,6% (thiểu phát) thì tốc độ tăng trưởng việc là 1,1% (thấp nhất trong thời kỳ từ
năm 1998 – nay). Những năm tiếp theo đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng lên thì tốc độ

tăng trưởng việc làm cũng tăng. Năm 2001, tỷ lệ lạm phát 0,8% tốc độ tăng
trưởng việc làm đạt 6,95%, năm 2002-2003 tỷ lệ lạm phát tăng, tốc độ tăng
trưởng việc làm tiếp tục tăng đạt 2,5 – 2,6%/năm. Tuy nhiên, từ năm 2004 lạm
phát bắt đầu tăng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm có xu hướng giảm xuống
(năm 2005 chỉ còn 2,3%)
1
. Như vậy, cả về lý thuyết và thực tiễn Việt Nam đều
khẳng định, quan hệ đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp (việc làm) chỉ tồn tại
trong ngắn hạn, chỉ ở điều kiện khi tỷ lệ lạm phát còn ở mức thấp.
1.1.2.2. Tác động của thiểu phát đối với phát triển kinh tế - xã hội
Ngược lại với lạm phát, thiểu phát xẩy ra khi mức giá chung của nền kinh
tế liên tục giảm sút. Quan niệm về thiểu phát, hiện có nhiều ý kiến khác nhau.
Có người cho rằng khi tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4% được gọi là thiểu phát. Tuy
nhiên, đối với các nền kinh tế phát triển (Đức, Nhật Bản) tỷ lệ lạm phát 3-4%
được coi là hoàn toàn bình thường. Khi nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát âm thì tất
cả các nhà kinh tế đều thống nhất đó là hiện tượng thiểu phát.
Có 3 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thiểu phát:
- Do tổng cầu quá thấp dẫn đến giá cả thấp. Các nhà kinh tế thường gọi là
nền kinh tế rơi vào trạng thái quá lạnh.
1
Nguyễn Thị Hường (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng, lạm phát và việc làm. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
ở Việt Nam, Tổng quan đề tài cấp cơ sở, Viện Kinh tế phát triển, Học viện CT-HCQG HỒ CHÍ MINH, tr.66.
19
- Do chính phủ áp dụng các giải pháp chống lạm phát quá liều, chẳng hạn
như chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa quá mức.
- Do sử dụng các biện pháp ngăn ngừa lạm phát quá cứng nhắc như trực
tiếp kiểm soát giá của một số mặt hàng.
Tác động của thiểu phát đối với phát triển kinh tế - xã hội có thể sẽ hết
sức nghiêm trọng nếu không có những biện pháp kịp thời để khắc phục.
Thông thường tác động tiêu cực của thiểu phát đối với kinh tế - xã hội

được biểu hiện qua những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, thiểu phát làm giảm tốc độ tăng trưởng và sản lượng của nền
kinh tế.
Khi có thiểu phát, lãi suất thực cao, làm tăng chi phí vay vốn. Vì vậy, các
nhà đầu tư phải dè dặt đi vay vốn để mở rộng sản xuất và đầu tư mới. Lạm phát
thấp (đặc biệt là thiểu phát) làm cho tiền lương thực tế cao, người lao động có
thể cắt giảm thời gian làm việc để tăng thời gian nghỉ ngơi. Hơn thế nữa, khi có
thiểu phát lưu thông hàng hóa sẽ bị ngừng trệ, hàng tồn kho tăng lên, buộc các
doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng. Tất cả những tác động nói trên của thiểu
phát sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và sản lượng của nền kinh tế.
Các nhà kinh tế đã đo lường mức thiệt hại đối với sản lượng nền kinh tế
do thiểu phát gây ra bằng mức chênh lệch giữa sản lượng thực tế và sản lượng
tiềm năng. Áp dụng khái niệm này, người ta đã dự báo mức thiệt hại của nền
kinh tế Nhật Bản vào khoảng 7% của mức sản lượng tiềm năng
1
.
Hai là, thiểu phát làm tăng thất nghiệp, giảm thu nhập và có thể dẫn đến
những vấn đề xã hội nghiêm trọng.
Từ phương trình (2) cho thấy, khi tỷ lệ lạm phát giảm thì tỷ lệ thất nghiệp
tăng lên trong ngắn hạn. Nhưng khi nền kinh tế rơi vào thiểu phát, nếu không có
các giải pháp kịp thời để khắc phục thì hàng tồn kho sẽ tự động tăng lên, buộc
các doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng và sa thải công nhân. Do đó, tác động
1
Vietnamnet 22/11/2008
20
ngắn hạn trên có thể kéo dài trong dài hạn, thất nghiệp xẩy ra tràn lan và có
nguy cơ trở thành vấn đề xã hội nghiêm trọng.
Ba là, thiểu phát sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống ngân hàng
thương mại và ngân sách của nhà nước
Khi thiểu phát xẩy ra, các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, nhu cầu vay

vốn thấp, các ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng đình trệ. Mặt khác, khi đó
thâm hụt ngân sách có rất nhiều khả năng tăng cao do nguồn thu bị giảm trong
khi nhu cầu chi tiêu để khắc phục giảm phát lại tăng thêm.
Vì những tác động tiêu cực trên đây của thiểu phát nên chính phủ của các
nước luôn luôn tìm cách để ngăn ngừa và khắc phục nó.
Để chống thiểu phát thường áp dụng các giải pháp ngược chiều với chống
lạm phát.
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng. Đó là giảm lãi
suất, tăng chi tiêu chính phủ và giảm thuế để kích thích tổng cầu (đầu tư, tiêu
dùng địa phương và hộ gia đình, mở rộng xuất khẩu. Đây là giải pháp mà nhiều
nước đang sử dụng, nhất là Nhật bản đã thực hiện trong nhiều năm nay. Nhưng
mức độ thành công cũng hết sức khác nhau (chẳng hạn như Nhật Bản được xem
là kém thành công) trong chính sách chống thiểu phát.
Hai là, thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế để chuyển các lĩnh vực có năng
lực dư thừa sang các lĩnh vực khác, nhất là các lĩnh vực mới có nhiều tiềm năng
phát triển.
Về lý thuyết, các giải pháp chống thiểu phát không quá khó, nhưng phức
tạp, bởi vì rất dễ xẩy ra nguy cơ của sự "đổi chiều" giảm phát thành lạm phát.
Kinh nghiệm về chống thiểu phát chưa nhiều vì trên thực tế hiện tượng
thiểu phát xẩy ra chưa phổ biến, nhất là đối với các nước đang phát triển.
21
1.2. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT
1.2.1. Nguyên nhân lạm phát do tổng cầu tăng mạnh (lạm phát cầu
kéo) và giải pháp khắc phục
Khi tổng cầu tăng mạnh có thể làm cho sản lượng thực tế vượt quá mức
sản lượng tiềm năng của một nước, làm cho giá cả tăng lên để cân bằng tổng
cung và tổng cầu (xem hình 1.1.)
Biểu đồ 1.3. Lạm phát do tổng cầu tăng mạnh
Y
P

: Sản lượng tiềm năng của nền kinh tế
AD
1
, AD
2
là đường tổng cầu ở những mức khác nhau của nền kinh tế. Khi
sản lượng thực tế nền kinh tế (Y
1
) vượt quá mức sản lượng tiềm năng (Y
P
), nếu
tổng cầu tiếp tục tăng mạnh (từ AD
1
→ AD
2
), sản lượng thực tế Y
1
tăng không
nhiều (tới Y
2
) nhưng giá cả tăng nhanh từ P
1
→ P
2
. Nền kinh tế rơi vào tình
trạng lạm phát cầu kéo.
Tổng cầu AD = C + I + G + X - IM tăng có thể do các yếu tố của tổng
cầu tăng:
(i). Tiêu dùng của hộ gia đình tăng
* Tiêu dùng của hộ gia đình quyết định tiêu dùng quốc gia và ảnh hưởng

tới tổng cầu của nền kinh tế.
Tiêu dùng của hộ gia đình do thu nhập khả dụng hiện tại tăng.
Thu nhập khả dụng hiện tại tăng có thể do chính sách giảm thuế của
Chính phủ, chính sách tăng các khoản chi chuyển nhượng của Chính phủ tới các
22
P (giá cả)
AS
AD
2
AD
1
P
2
P
1
Y
P
Y
1
Y
2
Y (Sản lượng thực tế)
hộ gia đình và các khoản thu nhập khác mà các hộ gia đình nhận được và có thể
chi tiêu cho tiêu dùng.
Lý thuyết Keynes cho rằng, tiêu dùng của hộ gia đình tăng là do thu nhập
khả dụng hiện tại của họ tăng. Phân tích sâu hơn thu nhập khả dụng hiện tại,
Millon Friedman cho rằng thu nhập (khả dụng hiện tại) là tổng của thu nhập
thường xuyên Y
P
và thu nhập tạm thời Y

T
.
* Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét có ý
nghĩa đối với chính sách của Chính phủ khi tác động làm thay đổi tiêu dùng của
các hộ gia đình.
Một là, để giảm mức tiêu dùng của hộ gia đình, chính sách của Chính phủ
có thể làm giảm thu nhập khả dụng hiện tại của họ. Các chính sách đó có thể là
tăng thuế thu nhập cá nhân, cắt giảm các khoản chi chuyển nhượng, giảm mức
lương tối thiểu...
Hai là, chính sách cắt giảm tiêu dùng của các hộ gia đình cần chú ý tới tập
quán, thói quen tiêu dùng của người dân. Đối với những nước mà ở đó, người
dân có thói quen chi tiêu tiết kiệm, như Nhật Bản chẳng hạn (MPC nhỏ), chính
sách cắt giảm tiêu dùng bằng cách cắt giảm thu nhập khả dụng hiện tại sẽ không
khó khăn bằng chính sách của những nước có thói quen tiêu dùng cao, ví dụ như
Mỹ (MPC lớn).
Ba là, nếu người tiêu dùng tuân theo lý thuyết thu nhập thường xuyên và
kỳ vọng hợp lý thì chỉ những thay đổi chính sách bất ngờ mới tác động tới tiêu
dùng (làm tăng hoặc giảm tiêu dùng).
Do người tiêu dùng sẽ tiêu dùng ít hơn (tiết kiệm nhiều hơn) đối với những
thu nhập tạm thời và tiêu dùng nhiều hơn đối với thu nhập thường xuyên. Do đó,
các chính sách tăng thuế giảm lương tối thiểu... sẽ có tác động tức thời làm cho
người tiêu dùng điều chỉnh kỳ vọng của họ và giảm mức tiêu dùng. Nhưng sau
một thời gian áp dụng chính sách này, mức tiêu dùng của hộ gia đình sẽ không có
gì thay đổi do không có thông tin mới nào làm thay đổi kỳ vọng của họ. Mức thu
nhập thấp hơn của họ lúc này trở thành mức thu nhập thường xuyên.
23
Bốn là, các chính sách tạm thời làm giảm thu nhập của người dân sẽ
không có tác động giảm tiêu dùng của họ mà chỉ có chính sách làm giảm thu
nhập thường xuyên của họ mới làm giảm tiêu dùng của người dân.
Chẳng hạn, nếu Chính phủ công bố tăng thuế và áp dụng lâu dài mức thuế

này, dân chúng sẽ giảm tiêu dùng mạnh hơn so với trường hợp Chính phủ thông
báo biện pháp tăng thuế thu nhập (chỉ là biện pháp tạm thời).
Như vậy, có thể thấy rằng, mức tiêu dùng của hộ gia đình chịu tác động
chi phối của nhiều yếu tố. Chính sách của Chính phủ làm giảm tiêu dùng của hộ
gia đình không hề đơn giản vì phải chú ý tới nhiều yếu tố, trong đó có nhiều yếu
tố Chính phủ khó có thể kiểm soát được.
(ii). Đầu tư tư nhân tăng
Đầu tư ở đây là đầu tư phát triển. Nó bao gồm đầu tư cố định vào sản xuất
kinh doanh, đầu tư vào nhà ở và đầu tư vào hàng tồn kho. Đầu tư tư nhân tăng là do
một trong ba loại đầu tư này tăng hay hai hoặc cả ba loại đầu tư này tăng.
Như vậy, để thay đổi đầu tư tư nhân, Chính phủ có thể tác động tới 3 loại
đầu tư trong đầu tư tư nhân này. Chính sách của Chính phủ cần chú ý tới những
điểm sau đây: Một là, chính sách Chính phủ có thể thay đổi đầu tư cố định vào
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách tác động tới chi phí đầu tư, sản
phẩm cận biên của vốn MPK. Hai là, để điều chỉnh đầu tư vào nhà ở, chính sách
của Chính phủ có thể tác động vào giá nhà ở tương đối (
H
P
P
, đó là tỷ số giữa giá
nhà P
H
và mức giá chung). Chính sách làm tăng giá nhà tương đối sẽ làm tăng
đầu tư vào nhà ở mới và ngược lại. Ba là, chính sách của chính phủ có thể làm
thay đổi đầu tư hàng tồn kho bằng cách tác động vào lãi suất thực mà các doanh
nghiệp phải gánh chịu khi dự trữ hàng tồn kho. Bốn là, đầu cơ đầu tư của doanh
nghiệp phụ thuộc vào kỳ vọng vào sự tăng trưởng, mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế. Chính phủ điều chỉnh đầu tư tư nhân không chỉ thông qua những quyết
định tạo môi trường đầu tư mà còn có thể tác động gián tiếp thông qua điều tiết
sản lượng nền kinh tế bằng các chính sách kinh tế vĩ mô khác.

24
Những nhận xét trên đây cho thấy chính sách của Chính phủ điều chỉnh
đầu tư tư nhân là vấn đề không hề đơn giản. Bởi lẽ, đầu cơ đầu tư của doanh
nghiệp chịu tác động đồng thời của nhiều yếu tố. Do đó, phản ứng của doanh
nghiệp rất có thể không diễn ra theo những dự kiến của Chính phủ về những
quyết định chính sách mà Chính phủ đưa ra.
(iii). Xuất khẩu ròng thay đổi
Xuất khẩu ròng thay đổi (tăng hoặc giảm) do những yếu tố nào?
Nhập khẩu của một nước tăng/giảm do sản lượng, thu nhập của nước đó
tăng/giảm. Khi thu nhập tăng lên, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư trong nước tăng
và làm cho nhập khẩu tăng.
Thêm vào đó, giá tương đối giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu
cũng làm thay đổi khối lượng và kim ngạch nhập khẩu của một nước. Khi giá
hàng trong nước tăng cao tương đối so với hàng nhập khẩu, người dân và doanh
nghiệp sẽ chọn mua hàng nhập khẩu nhiều hơn và do đó nhập khẩu sẽ tăng. Cuối
cùng, tỷ giá nội tệ giảm sẽ làm cho giá hàng nhập khẩu đắt tương đối so với
hàng trong nước và giá hàng xuất khẩu rẻ hơn so với hàng nước ngoài trên thị
trường thế giới, hàng xuất khẩu nước đó có khả năng cạnh tranh hơn trên thị
trường thế giới. Trong trường hợp đó, nhập khẩu giảm, xuất khẩu ròng tăng.
Cũng như nhập khẩu, xuất khẩu thay đổi (tăng hoặc giảm) còn phụ thuộc
vào giá tương đối của hàng xuất khẩu của nước đó và giá hàng hoá cạnh tranh
của chúng trên thị trường quốc tế. Nếu giá hàng xuất khẩu của nước đó rẻ tương
đối so với hàng hoá xuất khẩu của nước khác, người nước ngoài sẽ nhập khẩu
hàng nước đó nhiều hơn và do đó, nước đó sẽ xuất khẩu được nhiều hơn. Mặt
khác, xuất khẩu của một nước còn phụ thuộc vào thu nhập và sản lượng của các
nước bạn hàng. Khi kinh tế các nước bạn hàng tăng trưởng cao, sản lượng và thu
nhập tăng, nhu cầu nhập khẩu của họ tăng và do đó xuất khẩu của những nước
này có thể gia tăng.
25

×