mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động kinh tế ở nông thôn đặc biệt là sản xuất nông nghiệp
luôn gắn liền với đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ là địa điểm để
tiến hành sản xuất kinh doanh nh trong các ngành kinh tế khác, mà đất đai còn
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, hơn nữa còn là t liệu sản xuất đặc biệt.
Nhận thấy đợc tầm quan trọng của đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp, trong
những năm qua Đảng và Nhà nớc ta đã có nhiều chủ trơng, chính sách phù hợp
trong việc khai thác sử dụng đất đai góp phần thúc đẩy nền nông nghiệp nớc nhà
phát triển. Trong đó, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận đợc
sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đợc triển khai trên phạm vi cả nớc và
đạt đợc một số kết quả nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế
hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nớc đã đợc Quốc hội thông qua ngày
15/6/2004 tại kỳ họp thứ 5, khoá XI. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã đợc
triển khai ở tất cả 64 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ơng trong cả nớc và đợc
Thủ tớng Chính phủ phê duyệt.
Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất vẫn còn bộc lộ một số tồn tại. Đặc biệt sau khi quy hoạch, sử dụng đất đợc
phê duyệt và đa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc thực hiện quy
hoạch còn nhiều bất cập diễn ra dẫn đến tình trạng "quy hoạch treo" hoặc không
điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá trình thực thi quy
hoạch tại địa phơng.
Do đó, tôi lựa chọn đề tài " Quy hoch, s dng t nụng nghip
phỏt trin cõy cụng nghip tnh Kon Tum " để nghiên cứu, khảo sát tình
hình quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thực tế trên địa bàn tỉnh Kon Tum
nhằm đa ra những giải pháp điều chỉnh kịp thời, những nội dung sử dụng đất
nông nghiệp bất hợp lý, không phù hợp với phơng án quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp đã đợc phê duyệt góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp ở địa phơng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi đổi mới đến nay, ở nớc ta việc nghiên cứu vấn đề đất nông nghiệp
đã có một số công trình, bài viết về vấn đề này nh:
- "Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông lâm
nghiệp ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Cạn" của Ngô Xuân Hoàng, Luận án tiến
sĩ, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, 2003.
- "Khai thác nguồn lực đất đai để phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng
Nai", của Bùi Thị Thuận, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- "Khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng
hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ" của Nguyễn Tiến Khôi, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1999.
- "Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay" của Hà Công Nghĩa,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- "Quản lý sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên" của TS. Nguyễn Thế
Toàn (chủ nhiệm đề tài), Đề tài khoa học cấp bộ, 2000.
- "Thực trạng quản lý nhà nớc về đất đai nông nghiệp ở Việt Nam và
kiến nghị" Nguyễn Mạnh Tuân, Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
số 7/2004.
- "Quản lý và sử dụng đất ở các nông, lâm trờng các tỉnh miền núi phía
Bắc" Bùi Quang, Tài nguyên và môi trờng, số 12/2004.
Đối với Kon Tum, những đề tài đi sâu vào nghiên cứu quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp cha có công trình nào. Do
đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài này hy vọng góp một phần nhỏ trong việc tìm ra
những giải pháp để phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai trong việc phát
triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp; phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp ở
Kon Tum, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum.
* Nhiệm vụ:
- Khái quát, hệ thống hoá lý luận về đất nông nghiệp và quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp của tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm quy hoạch, sử dụng có hiệu quả đất
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum trong thời gian tới.
4. Đối tợng nghiên cứu
Nghiên cứu quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để phát triển cây công
nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phơng pháp luận và phơng
pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, nh phơng pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, trừu tợng hoá khoa học, trong đó đặc biệt coi trọng ph-
ơng pháp phân tích, tổng hợp thống kê, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để
phát triển cây công nghiệp ở tỉnh Kon Tum từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp từng bớc hoàn thiện quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển cây công nghiệp ở Kon Tum trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chơng, 6 tiết.
Chơng 1
đất nông nghiệp và quy hoạch, sử dụng
đất nông nghiệp
1.1. đất nông nghiệp, đặc điểm và vai trò của đất nông nghiệp
1.1.1. Đất nông nghiệp và đặc điểm của đất nông nghiệp
* Khái niệm đất nông nghiệp:
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là t liệu sản xuất
chủ yếu và đặc biệt là của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố quan
trọng nhất của môi trờng sống, là địa bàn phân bố dân c, xây dựng các cơ sở
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, và quốc phòng; có ý nghĩa kinh tế, chính trị,
xã hội sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nh vậy, đất đai đợc
dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống. Theo từng
ngành sản xuất, từng lĩnh vực của đời sống, đất đai đợc phân thành các loại
khác nhau và gọi tên theo ngành, lĩnh vực chung đợc sử dụng.
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất đợc sử dụng chủ yếu vào sản xuất
của các ngành nông nghiệp nh trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc
để sử dụng nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi đất nông
nghiệp, đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp còn đợc gọi là ruộng đất.
Khi nói đất nông nghiệp ngời ta nói đất đợc sử dụng chủ yếu vào sản xuất
của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trờng hợp đất đai đợc sử dụng vào
những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trờng hợp đó, đất đai đợc sử
dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới đợc coi là đất
nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ theo việc sử dụng vào mục đích
nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng đất, trên thực tế ngời
ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà không cần
có sự đầu t nào lớn cả là đất nông nghiệp cho dù đất đó đã đa vào sản xuất nông
nghiệp hay cha.
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu của đất đai, tại Điều 13 luật đất đai
năm 2003 có ghi:
* Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn
nuôi, đất trồng cây hàng năm khác.
- Đất trồng cây lâu năm.
- Đất rừng sản xuất.
- Đất rừng phòng hộ.
- Đất rừng đặc dụng.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản.
- Đất làm muối.
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
Nh vậy, có thể hiểu đất nông nghiệp là đất đợc sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của ngành nông nghiệp bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây
lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi
trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khai thác theo quy định của
Chính phủ.
* Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:
ở mỗi quốc gia đất đai đều đợc sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau,
riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, đợc biểu hiện cụ
thể:
Một là, đất nông nghiệp là t liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu.
Đất nông nghiệp là tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là t liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế đợc của ngành nông - lâm nghiệp. Nó là cơ sở tự
nhiên là tiền đề trớc tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ: "đất
là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt
động của loài ngời" [24, tr.473].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định "đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là t liệu sản xuất
đặc biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn của đất nớc" [8, tr.61].
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là t liệu sản xuất chủ yếu
và đặc biệt không thể thay thế đợc. Vì đất nông nghiệp vừa là t liệu lao động
vừa là đối tợng lao động. Đối với các loại đất chuyên dùng khác thì đất đai chỉ
là đối tợng lao động, con ngời phải sử dụng t liệu lao động để tác động vào tạo
ra sản phẩm.
Đất nông nghiệp là đối tợng lao động khi con ngời sử dụng công cụ sản
xuất tác động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng, nh cày, bừa, lên luống...
quá trình đó làm tăng chất lợng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng
năng suất và chất lợng cây trồng. Ngợc lại, khi con ngời sử dụng công cụ sản
xuất tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học và
các thuộc tính khác của đất để tác dụng lên cây trồng. Trong quá trình này đất
nông nghiệp đóng vai trò là t liệu lao động. Sự kết hợp của đối tợng lao động và
t liệu lao động đã làm cho đất nông nghiệp trở thành t liệu sản xuất trong sản
xuất nông nghiệp.
Hai là, đất nông nghiệp có vị trí cố định và không thể di chuyển đợc.
Đất đai nói chung, đất nông nghiệp nói riêng là tài nguyên thiên nhiên
không sinh sản đợc. Bởi vì, không giống nh vốn, chúng không thể sản sinh thêm
thông qua quá trình sản xuất. Đất nông nghiệp có vị trí cố định không di chuyển
đợc và có khả năng tái tạo đợc.
Các t liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần
thiết, nhng hầu hết đều không có khả năng tái tạo lại đợc. Ngợc lại, đất nông
nghiệp là t liệu sản xuất chủ yếu, nhng lại có vị trí cố định không thể di chuyển
từ vị trí này sang vị trí khác, nó gắn liền với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế
- xã hội của mỗi vùng. Đặc tính này đồng thời nó quy định tính giới hạn về quy
mô theo không gian gắn liền với môi trờng mà đất đai chịu sự chi phối, gắn liền
với nguồn gốc hình thành của đất đai, địa hình, khí hậu, kết cấu đất, độ màu mỡ,
vị trí của đất... vị trí của đất nông nghiệp có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế trong quá
trình khai thác sử dụng đất. Thông thờng, đất nông nghiệp ở gần các khu đô thị,
thuận tiện về giao thông thờng đợc khai thác sử dụng triệt để hơn đất đai ở các
vùng xa xôi, hẻo lánh, và do đó vị trí đất mang lại cho đất nông nghiệp đặc tính
xã hội là có giá trị sử dụng lớn hơn.
Mặt khác, cùng với xu thế đô thị hoá ngày càng nhanh, chủ thể sử dụng
đất có xu hớng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các mục
đích khác để thu đợc hiệu quả kinh tế cao hơn. Quá trình này làm cho diện tích
đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. ở Việt Nam xu hớng này đã và đang
diễn ra ngày một nhanh chóng, trong 10 năm từ năm 1990 - 2000 đất trồng lúa
nớc ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ bị giảm không có diện
tích bù đã lên tới 62.612ha thờng là ruộng lúa tốt [4, tr.15].
Đặc điểm này đòi hỏi để sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, cần kết
hợp sức lao động với các t liệu sản xuất khác một cách hợp lý. Muốn thế, một
mặt phải quy hoạch đồng bộ các khu vực canh tác đất nông nghiệp, bố trí các
trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân c hợp lý; mặt khác, phải cải thiện
điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng
nhằm tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, nâng cao đời sống
nông dân và từng bớc thay đổi bộ mặt nông thôn.
Ba là, đất nông nghiệp bị giới hạn về mặt diện tích, nhng sức sản xuất
của nó lại là không giới hạn.
Do đặc điểm tự nhiên của đất đai quy định, cho nên diện tích đất nông
nghiệp đa vào canh tác luôn bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm: giới
hạn tuyệt đối và giới hạn tơng đối. Xét trên góc độ giới hạn tuyệt đối thì diện
tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa phơng là
những con số hữu hạn, có thể lợng hoá bằng những con số cụ thể. Ví dụ, tổng
diện tích đất tự nhiên của tỉnh Kon Tum là 961.450ha của cả nớc Việt Nam là
32.924,1 nghìn ha [4, tr.5], tổng diện tích đất có tiềm năng sản xuất nông
nghiệp của thế giới là khoảng 3.200 triệu ha, trong đó có 46% đang đợc canh
tác [15, tr.17]. Theo tính toán của Liên hợp quốc, có khoản 23% diện tích trên
toàn thế giới là sa mạc hoặc đất cằn, 20% là nửa khô cằn, khoảng 80 triệu ngời
sống ở những vùng đất hầu nh không sử dụng đợc vì xói mòn, bãi cát hoặc ngập
mặn.
Không phải tất cả diện tích tự nhiên đều đa vào canh tác đợc, tùy thuộc
vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế của từng nớc mà
diện tích đất nông nghiệp đa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm thích hợp.
Đó là giới hạn tơng đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng quỹ đất tự
nhiên bởi tác động của yếu tố đất đai, khí hậu, thời tiết đa dạng, phức tạp dẫn
đến việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực và
tính thời vụ rõ rệt.
ở nớc ta tỷ lệ đất nông nghiệp so với tổng quỹ đất tự nhiên năm 2000
chiếm 28,38%, có khả năng đa lên tối đa là 35% với tổng diện tích tự nhiên
329.241km
2
, Việt Nam là nớc có quy mô trung bình, xếp thứ 66 trong tổng số
trên 200 nớc, nhng là nớc đông dân thứ 13 thế giới nên bình quân đất đai theo
đầu ngời rất thấp, chỉ bằng 1/6 mức bình quân của thế giới (0,45ha), đứng hàng
thứ 8 Đông Nam á và thứ 170 trong số trên 200 nớc trên thế giới [4, tr.5].
Trong những năm gần đây, quỹ đất nông nghiệp ở nớc ta đã có những
biến động đáng kể theo hớng tăng lên từ mức xấp xỉ 7 triệu ha năm 1990 lên
9.345.200 ha vào năm 2000. Nhng đó chủ yếu là sự gia tăng mạnh về diện tích
đất trồng cây lâu năm ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên lên mức 1.467.951,
chiếm 67,3% diện tích trồng cây lâu năm của cả nớc, còn diện tích trồng lúa lại
giảm xuống. Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp luôn chịu ảnh hởng của
giới hạn về diện tích đất tự nhiên, nhất là những vùng hay khu vực có quỹ đất tự
nhiên gần nh đã đợc đa vào khai thác và sử dụng hết thì việc mở rộng diện tích
tự nhiên gặp rất nhiều trở ngại. Mặt khác, không phải toàn bộ diện tích đất tự
nhiên đều có thể dễ dàng chuyển hoá thành đất nông nghiệp. Trên thực tế, việc
chuyển hoá đất tự nhiên thành đất nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu
tố nh địa hình, kết cấu của đất, điều kiện canh tác, khả năng tới tiêu...
Tuy nhiên, dù bị giới hạn về mặt không gian, nhng sức sản xuất của
đất nông nghiệp lại không có giới hạn, nghĩa là trên mỗi đơn vị diện tích đất
nông nghiệp, nếu không ngừng tăng cờng đầu t vốn, sức lao động, đa khoa
học và công nghệ mới vào sản xuất thì số lợng sản phẩm đem lại trên một
đơn vị sản phẩm là ngày càng nhiều hơn và chất lợng hơn. Đây là con đờng
chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển kinh tế
nông thôn nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản phẩm cung cấp cho xã
hội.
Adam Smith đã viết: "đất, trong hầu hết các tình huống, sản sinh ra một
lợng lơng thực nhiều hơn so với số lợng đủ để duy trì sự sống của ngời lao
động" [1, tr.240].
Nh vậy, xét về tổng thể, quỹ đất tự nhiên nói chung và quỹ đất nông
nghiệp nói riêng luôn bị giới hạn về mặt diện tích, trong khi đó nhu cầu về nông
sản phẩm của con ngời ngày càng tăng lên. Do đó, phải sử dụng đất nông
nghiệp hết sức tiết kiệm và xem xét kỹ lỡng hợp lý khi bố trí sử dụng các loại
đất. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng khả năng phục hồi
và tái tạo của đất đai.
Bốn là, đất nông nghiệp vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của
lao động.
Đất nông nghiệp vốn là sản phẩm của tự nhiên, nó xuất hiện và tồn tại
ngoài ý muốn của con ngời. Đất nông nghiệp đợc hình thành do quá trình phong
hoá đá và sự tác động của vi sinh vật, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... và do con ng-
ời tiến hành khai phá, đa vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của con ngời. Trong
quá trình lịch sử lâu dài đó, lao động của con ngời qua nhiều thế hệ đã đợc kết
tinh vào đó. Do đó, ngày nay đất nông nghiệp vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa
là sản phẩm của lao động.
C.Mác viết: "Tuy có những thuộc tính nh nhau, nhng một đám đất đợc
canh tác có giá trị hơn một đám đất bị bỏ hoang" [24, tr.246].
Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng con ngời cần phải không
ngừng cải tạo và bồi dỡng, đồng thời phải khai thác đất nông nghiệp cho hợp lý
làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn. Thực tế cho thấy, đất đai là t liệu sản xuất
chủ yếu không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì đất
đai ngày càng tốt hơn. Việc sử hợp lý ruộng đất hay không là tuỳ thuộc vào quá
trình sử dụng có kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng ruộng đất với việc bảo
vệ, bồi dỡng và cải tạo đất đai hay không. Vì thế trong quá trình sử dụng đất
nông nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo vệ đất, chống xói mòn, rửa trôi.
Phải thờng xuyên coi trọng công tác bồi dỡng và cải tạo đất làm tăng độ phì
nhiêu của đất đai.
ở nớc ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nớc, với t cách là đại diện
cho quyền sở hữu đó, thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để thực hiện
việc giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất đối với các tổ chức và các hộ gia đình
và cá nhân có nhu cầu. Qua đó thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất đai một
cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khuyến khích ngời lao động định hớng, lựa
chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ơng khoá IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc
biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã
hội; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nớc, ngời đầu t và ngời sử dụng đất,
trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của nhà nớc, của xã hội..." [9, tr.61].
Nh vậy, việc Đảng và Nhà nớc ta thừa nhận quyền sử dụng đất là một
hàng hoá đặc biệt đã tạo cho lĩnh vực nông nghiệp có bớc phát triển mới. Nó
đòi hỏi ngời sản xuất nông nghiệp phải sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm để đem lại
hiệu quả cao nhất.
Năm là, đất nông nghiệp có chất lợng không đồng đều
Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lợng do sự khác nhau giữa các
yếu tố dinh dỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình hình
thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con ngời. Độ màu
mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dỡng cho cây trồng.
Con ngời không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất, mà còn có khả
năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngợc lại, nếu sử dụng không hợp lý thì
làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn ra ở một số vùng miền
núi và trung du nớc ta. ở những vùng này, trớc đây con ngời chỉ lợi dụng độ
màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác, không chú ý bồi dỡng, cải tạo
nên đất bị bạc màu, một số diện tích trớc đây có độ màu mỡ cao nay đã kiệt
quệ.
Vì vậy, trong quá trình sử dụng, khai thác đất nông nghiệp cần thiết
phải thờng xuyên cải tạo và bồi dỡng cho đất, không ngừng nâng cao độ
đồng đều của đất nông nghiệp ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt năng
suất cây trồng cao. Nó đòi hỏi ngời sản xuất phải xác định tỷ lệ về các
nguồn lực tơng xứng một cách hợp lý nh vốn, nhân lực, loại cây trồng vật
nuôi... có nh vậy thì mới có thể đem lại đợc hiệu quả kinh tế cao cho
mình.
C.Mác viết: "Ưu thế của đất là những khoản đầu t liên tiếp có thể đem lại
lợi nhuận mà không làm thiệt hại đến những khoản đầu t trớc, u thế đó của đất
đồng thời cũng bao hàm cả khả năng có những sự chênh lệch trong sản phẩm
của những khoản đầu t liên tiếp ấy" [24, tr.1845].
Điều này có nghĩa là việc nâng cao chất lợng, độ phì nhiêu, độ đồng đều
của đất là điều cần thiết để vừa không ngừng nâng cao năng suất và chất lợng nông
sản, lại vừa bảo vệ đất, giữ cho đất đợc sử dụng lâu dài và bền vững.
Mặt khác, không phải bất kỳ trờng hợp nào cũng cần đến việc nâng cao
độ đồng đều, trong một số trờng hợp xuất phát từ đặc điểm chất lợng đất phân
bố không đồng đều, mỗi loại đất ở những vị trí nhất định lại chịu sự chi phối
của các đặc tính tự nhiên của vị trí, dẫn đến nó chỉ cho phép trồng trọt hay chăn
nuôi những loại cây trồng và vật nuôi thích hợp. Từ đó, ở những nơi có chất l-
ợng đất đặc biệt cần phải chuyên canh những loại cây trồng và vật nuôi thích
hợp nhất, để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, nhằm khai thác tối đa lợi thế so
sánh có đợc.
1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến toàn bộ
hoạt động sản xuất của ngành nông nghiệp. Vai trò này thể hiện ở những nội
dung sau đây:
* Đất nông nghiệp là một điều kiện tối cần thiết cho hoạt động kinh tế
nông thôn
Từ xa xa đến nay, hoạt động kinh tế của nông dân chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp. Để sản xuất, họ phải sử dụng công cụ lao động tác động vào đất
đai. Đất đai là t liệu sản xuất đặc biệt quan trọng không thể thiếu đợc đối với
ngời nông dân. Nếu không có đất để sản xuất thì không thể có bất cứ một nền
nông nghiệp nào. Điều này đúng với mọi thời đại.
Đất đai là tặng vật của tự nhiên cho con ngời. Nhờ có đất mà nông
dân đã sản xuất ra lơng thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu của họ, gia đình
và của cả xã hội. Trong điều kiện kinh tế nông nghiệp, đất đai đã trở thành
t liệu sản xuất quan trọng nhất và là điều kiện sống còn đối với hoạt động
sản xuất nông nghiệp của ngời nông dân. Ngời nông dân không thể tiến
hành sản xuất nông nghiệp nếu nh không có đất. Đất nông nghiệp là điều
kiện tối cần thiết để ngời nông dân đem kết hợp nó với sức lao động sẵn có
của mình để tạo ra sản phẩm nông sản Điều này có nghĩa là họ không thể
sống đợc nếu không đợc hởng lợi do việc sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy,
đất nông nghiệp là một t liệu sản xuất không thể thiếu đối với bất kỳ ngời
nông dân nào.
* Đất nông nghiệp là một nguồn lực đầu vào đặc biệt quan trọng của
sản xuất nông nghiệp
Nguồn lực là tất cả các nguồn tài nguyên đang đợc sử dụng hoặc có thể
đợc sử dụng vào sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ. Về mặt kinh tế, các yếu
tố nguồn lực của sản xuất là phạm trù kinh tế dùng để chỉ những nguồn tài
nguyên thiên nhiên, kinh tế và xã hội đã, đang và sẽ đợc sử dụng vào hoạt động
kinh tế để tạo ra của cải vật chất hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu nhất định của xã
hội.
Khi nói đến vai trò của đất đai, C.Mác viết: "đất là không gian, yếu tố
cần thiết của tất thảy mọi sự sản xuất và mọi hoạt động của loài ngời"
[24, tr.474]. Cũng nh đối với sản xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp tất yếu
cần đến sự tham gia của đất đai.
Thật vậy, để có đợc nông sản, cần phải kết hợp hai yếu tố sức lao động
với t liệu sản xuất, trong đó quan trọng nhất và cũng là nhân tố không thể thiếu
đợc của t liệu sản xuất là đất nông nghiệp. Đất nông nghiệp không chỉ thuần tuý
là t liệu sản xuất, mà là một loại t liệu sản xuất đặc biệt. Nó là một trong những
nhân tố quyết định đến giá trị của nông phẩm hàng hoá sản xuất ra.
Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp có tính đặc thù cao so với các ngành sản
xuất khác. Đó là ngành sản xuất dựa trên mối quan hệ của các cơ thể sinh vật
sống với môi trờng, tuân theo các quy luật sinh học và chịu ảnh hởng trực tiếp
bởi điều kiện ngoại cảnh. Đặc biệt, đất nông nghiệp vừa là nơi c ngụ của các
sinh vật sống, vừa là nơi cung cấp nớc, chất dinh dỡng, vừa là môi trờng cho
mọi hoạt động sống, sinh trởng, phát triển của các sinh vật sinh sống diễn ra.
Nếu không có đất hoặc thiếu đất thì mọi hoạt động sinh học đó không thể diễn
ra một cách bình thờng.
Nh vậy, đất nông nghiệp là một trong những nguồn lực đầu vào quan
trọng không thể thiếu đợc của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực nông nghiệp. Tất nhiên, trong hoạt động kinh tế, con ngời có thể làm
tăng độ phì của đất, có thể tìm kiếm, lựa chọn cây trồng, vật nuôi thích hợp để
làm tăng và phát huy vai trò của đất nông nghiệp trong sản xuất. Nếu không có
phơng thức canh tác hợp lý thì các tiềm năng của đất nông nghiệp không trở
thành hiện thực tức là không thể phát huy đợc vai trò của nó đối với sản xuất
của con ngời.
* Đất nông nghiệp là một nhân tố tự nhiên đặc biệt quan trọng trong
việc xây dựng cơ cấu kinh tế
Việc phát hiện ra đặc tính của từng loại đất có ý nghĩa quan trọng trong
phân bổ đất đai giữa các ngành nông nghiệp, qua đó xây dựng cơ cấu nông
nghiệp hợp lý.
Trong sản xuất nông nghiệp có câu thành ngữ "đất nào cây ấy". Tức là
mỗi loại đất đều có một thành phần cơ giới nhất định, đợc tạo nên từ các loại
đá mẹ nhất định. Từ đó, các loại đất khác nhau có độ phì khác nhau, thành
phần các nguyên tố đa lợng, vi lợng chứa đựng trong chúng là khác nhau, đặc
tính thấm hút nớc, độ tơi xốp cũng khác nhau. Cho nên, từng loại đất chỉ phù
hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Chỉ trong điều kiện đợc canh
tác trên loại đất phù hợp với đặc tính sinh lý, sinh hoá của cây trồng, vật nuôi
thì chúng mới có thể cho thu hoạch sản phẩm năng suất cao, chất lợng tốt.
Đặc biệt, là đối với cây trồng sử dụng trực tiếp các chất dinh dỡng có sẵn
trong đất để sinh trởng và phát triển. Do vậy, việc phát hiện ra đặc tính của
các loại đất khác nhau có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc lựa
chọn và phân bổ đất đai trong quá trình canh tác. Từ đó, mới có thể xây dựng
một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, tận dụng có hiệu quả các tiềm năng sẵn
có của đất đai nhằm phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá có sức cạnh
tranh trên thị trờng thế giới.
1.1.3. Những nhân tố ảnh hởng đến sử dụng đất nông nghiệp
- Về điều kiện tự nhiên:
Khi sử dụng đất nông nghiệp, ngoài bề mặt không gian (diện tích trồng
trọt), cần lu ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái
tự nhiên của đất cũng nh các yếu tố bao quanh mặt đất (nhiệt độ, ánh sáng, l-
ợng ma, không khí và các khoáng sản dới lòng đất). Trong đó, điều kiện tự
nhiên, khí hậu là yếu tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là
điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhỡng) và các yếu tố khác.
* Yếu tố khí hậu:
Yếu tố khí hậu ảnh hởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và
điều kiện sinh hoạt của con ngời. Sự khác nhau về nhiệt độ, độ ẩm trong ngày,
giữa các mùa ma trong năm hay các khu vực khác nhau... trực tiếp ảnh hởng
đến sự phân bố, sinh trởng và phát triển của cây trồng, rừng tự nhiên... Cờng độ
ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng dài hay ngắn cũng có tác dụng
nhất định đối với sinh trởng, phát triển và quang hợp của cây trồng. Chế độ nớc,
lợng ma nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc
giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất đai, cũng nh khả năng đảm bảo cung cấp nớc cho
sinh trởng của cây trồng, thảm thực vật, gia súc và thuỷ sản...
* Điều kiện đất đai:
Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nớc biển, độ dốc
và sự xói mòn mặt đất... thờng dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ
đó làm ảnh hởng tới sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,
hình thành sự phân dị địa giới theo chiều thẳng đứng đối với nông nghiệp. Địa
hình và độ dốc ảnh hởng lớn đến phơng thức sử dụng đất nông nghiệp. Điều
kiện thổ nhỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì
nhiêu của đất là tiêu chí quan trọng về sản lợng cao hay thấp. Độ dầy của tầng
đất và tính chất đất có ảnh hởng lớn đối với sinh trởng cây trồng.
Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ,
nguồn nớc và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công
dụng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất
nông nghiệp cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt hiệu
quả cao nhất về kinh tế.
- Về điều kiện kinh tế - xã hội:
Điều kiện kinh tế - xã hội thờng có ý nghĩa quyết định chủ đạo đối với
việc sử dụng đất nông nghiệp. Phơng hớng sử dụng đất nông nghiệp đợc quyết
định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Điều kiện tự nhiên của đất nông nghiệp cho phép xác định khả năng thích ứng
về phơng thức sử dụng đất nông nghiệp. Còn sử dụng đất nh thế nào đợc quyết
định bởi sự năng động của con ngời và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật
hiện có; quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế kỹ thuật và bởi nhu
cầu của thị trờng.
Trong phạm vi một vùng, điều kiện vật chất tự nhiên của đất nông
nghiệp thờng có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhng với
điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất nông
nghiệp đợc khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời và đã đem lại những hiệu quả
kinh tế xã hội rất cao; ngợc lại, có nơi bị bỏ hoang hoá hoặc khai thác với
hiệu quả rất thấp... Có thể nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất nông nghiệp
chỉ là một tồn tại khách quan, khai thác và sử dụng đất nông nghiệp yếu tố
quyết định vẫn là con ngời. Dù điều kiện tự nhiên có nhiều lợi thế, nhng các
điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật không tơng ứng, thì u thế tài nguyên cũng
khó trở thành sức sản xuất hiện thực, cũng nh chuyển hoá thành u thế kinh tế.
Ngợc lại, điều kiện kinh tế, kỹ thuật đợc ứng dụng vào khai thác và sử dụng
đất, sẽ phát huy mạnh mẽ tiềm lực sản xuất của đất nông nghiệp, biến điều
kiện tự nhiên từ bất lợi thành có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Về không gian:
Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất, đều cần đến
đất đai nh điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí và
mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh cửu của tự
nhiên ban phát cho xã hội loài ngời.
Không gian mà đất nông nghiệp cung cấp có đặc tính vĩnh cửu và cố
định, vị trí khi sử dụng và số lợng sử dụng không thể vợt quá quy mô hiện
có. Do vị trí không gian của đất nông nghiệp không thể bị mất đi và cũng
không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới hạn sức tải
nhân khẩu và số lợng lao động. Có nghĩa tác dụng hạn chế của không gian
đất nông nghiệp luôn xảy ra trong khi dân số và kinh tế xã hội luôn phát
triển.
Sự bất biến của tổng diện tích đất nông nghiệp không chỉ hạn chế khả
năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ
cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số l-
ợng đợc sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội
nhằm đảm bảo lực tải của đất nông nghiệp.
Việc khẳng định chuyển đợc của đất nông nghiệp dẫn đến việc phân
bố về số lợng và chất lợng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng với
mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lợng đầu t sẽ có sự
khác biệt rõ rệt. Tài nguyên đất nông nghiệp có hạn, lại giới hạn về không
gian, đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất nông nghiệp ở
nớc ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất nông
nghiệp hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi tr-
ờng.
1.2. quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
"Đất đai" là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên
hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhỡng, điều kiện địa hình, địa chất, thuỷ văn,
chế độ nớc, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính...), tạo ra
những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Nh
vậy, để sử dụng đất nông nghiệp trớc hết cần phải làm quy hoạch, đây là quá
trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa mục đích từng phần
lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nông nghiệp nhất định.
Về mặt bản chất, đất nông nghiệp là đối tợng của các mối quan hệ sản
xuất trong lĩnh vực sử dụng đất (gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ chức
sử dụng đất nông nghiệp nh "t liệu sản xuất đặc biệt" gắn chặt với phát triển
kinh tế - xã hội. Nh vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp sẽ là một hiện t-
ợng kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời 3 tính chất: kinh tế (thể hiện bằng hiệu
quả sử dụng đất), kỹ thuật (bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật: điều
tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định xử lý số liệu...) và pháp chế (xác
nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo sử dụng và
quản lý đất nông nghiệp theo pháp luật).
Từ đó, có thể đa ra định nghĩa: "quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là
hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp chế của nhà nớc về tổ chức, sử
dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông
qua việc phân bổ quỹ đất nông nghiệp (khoanh định cho các mục đích) và tổ
chức sử dụng đất nh t liệu sản xuất (các giải pháp sử dụng đất nông nghiệp cụ
thể), nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai
và môi trờng".
Nh vậy, về thực chất quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là quá trình
hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đa đất đai vào sử dụng bền vững
để mang lại lợi ích kinh tế cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: điều
chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất nông nghiệp nh t liệu sản
xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp với
bảo vệ đất đai và môi trờng.
Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phơng hớng, nhiệm vụ và mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. Quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp đợc tiến hành nhằm định hớng cho các cấp, các ngành trên địa bàn
lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp chi tiết của mình. Xác lập
sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nớc về đất đai; làm cơ sở để
tiến hành giao cấp đất và đầu t để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lơng
thực phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội.
Mặt khác, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp còn là biện pháp hữu hiệu
của nhà nớc nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất nông nghiệp theo đúng mục
đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục
đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc
biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); ngăn chặn các hiện tợng
tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô
nhiễm môi trờng dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh
tế - xã hội và các hậu quả khó lờng về những tình hình bất ổn định chính trị, an
ninh quốc phòng ở từng địa phơng, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển sang nền
kinh tế thị trờng.
1.2.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử
- xã hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung hạn và dài hạn,
là bộ phận hợp thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và
kinh tế quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp đợc
thể hiện cụ thể nh sau:
- Tính lịch sử - xã hội :
Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy hoạch,
sử dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phơng thức sản
xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lợng sản xuất (mối quan hệ giữa
ngời với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và quan hệ sản xuất
(quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất). Trong quy hoạch sử
dụng đất luôn nảy sinh quan hệ giữa ngời với đất đai - là sức tự nhiên (nh
điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế...) cũng nh quan hệ giữa ngời với ngời
(nhận bằng văn bản về sở hữu và quyền sử dụng đất giữa những ngời chủ
đất). Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thể hiện đồng thời là yếu tố thúc
đẩy phát triển lực lợng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy các mối quan hệ sản
xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận của phơng thức sản xuất của xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp mang tính tự phát, hớng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về
mặt pháp lý (là phơng tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền t hữu đất đai: phân
chia, tập trung đất đai để mua bán, phát canh thu tô...). ở nớc ta quy hoạch, sử
dụng đất nông nghiệp phục vụ nhu cầu của ngời sử dụng đất và quyền lợi của
toàn xã hội. Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong
nền kinh tế thị trờng, quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp góp phần giải quyết
các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã hội và môi trờng nảy sinh
trong quá trình sử dụng đất, cũng nh mâu thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau.
- Tính tổng hợp :
Tính tổng hợp của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp biểu hiện chủ yếu
ở hai mặt; đối tợng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ... toàn
bộ tài nguyên đất nông nghiệp cho nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Quy
hoạch, sử dụng đất nông nghiệp đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế
và xã hội nh: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số, sản xuất nông nghiệp,
môi trờng sinh thái...
Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu cầu
sử dụng đất; điều hoà các mâu thuẫn về đất đai, xác định và điều phối phơng h-
ớng, phơng thức phân bố sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo
đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn
định.
- Tính dài hạn :
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế
xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật; đô thị hoá, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp...), từ đó xác định quy hoạch trung và dài
hạn về đất đai, đề ra các phơng hớng, chính sách và biện pháp có tính chiến lợc,
tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp hàng
năm và dài hạn.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội. Cơ cấu và phơng thức sử dụng đất, đợc điều chỉnh từng bớc
trong thời gian dài (cùng với quá trình phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho
đến khi đạt đợc mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phơng hớng, chính sách
và biện pháp sử dụng đất nông nghiệp để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội)
của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thờng từ 5 năm đến 10 năm hoặc lâu
hơn.
- Tính chiến lợc và chỉ đạo vĩ mô :
Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp chỉ dự
kiến trớc đợc các xu thế thay đổi phơng hớng, mục tiêu, cơ cấu và phân bổ sử
dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến đợc các hình thức và nội dung cụ
thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp là quy
hoạch mang tính chiến lợc, các chỉ tiêu của quy hoạch mang tính vĩ mô tính ph-
ơng hớng và khái lợc về sử dụng đất nông nghiệp nh:
+ Phơng hớng, mục tiêu và trọng điểm chiến lợc của việc sử dụng đất
nông nghiệp trong vùng.
+ Cân đối tổng quát nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp.
+ Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp và phân bố đất nông nghiệp
trong vùng.
+ Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất nông
nghiệp trong vùng.
+ Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt đợc mục tiêu của ph-
ơng hớng sử dụng đất nông nghiệp.
Do khoảng thời gian dự báo tơng đối dài, chịu ảnh hởng của nhiều nhân
tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lợc hoá, quy
hoạch sẽ càng ổn định.
- Tính chính sách:
Quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị
và chính sách xã hội. Khi xây dựng phơng án phải quán triệt các chính sách và
quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nớc, đảm bảo thể hiện cụ
thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, tuân thủ các quy định, các chỉ tiêu khống chế về dân
số, đất đai và môi trờng sinh thái.
- Tính khả biến :
Dới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trớc, chỉ là một trong
những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp
hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển,
khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các
dự kiến của quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp không còn phù hợp. Việc chỉnh
sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần
thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch, sử dụng đất
nông nghiệp luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc
"quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện..." với
chất lợng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
1.2.2. Những căn cứ pháp lý của quy hoạch sử dụng đất
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - dịch vụ -
nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày càng lớn đối với đất đai (bình quân
mỗi năm phải chuyển khoảng 30.000 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng
sang mục đích khác).
Kinh nghiệm thực tiễn cùng với đổi mới t duy và nhận thức đã trả lại cho
đất đai giá trị đích thực vốn có của nó. Luật đất đai năm 1993 nhấn mạnh "đất đai
là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là t liệu sản xuất, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trờng sống, là địa bàn phân bố các khu vực dân c, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng".
Với ý nghĩa đó việc sử dụng hợp lý đất đai liên quan chặt chẽ tới mọi
hoạt động của từng ngành và từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất.
Do đó, Đảng và Nhà nớc nớc ta luôn coi đây vấn đề bức xúc, cần đợc quan tâm
hàng đầu.
ý chí của toàn Đảng, toàn dân về vấn đề đất đai thể hiện rõ trong các văn
bản pháp luật nh hiến pháp, luật và các văn bản dới luật. Những văn bản này tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giúp
giải quyết về mặt nguyên tắc những vấn đề đặt ra.
- Sự cần thiết về mặt pháp lý phải lập ra quy hoạch sử dụng đất :
Hiến pháp nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1991 đã khẳng
định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân", "nhà nớc thống nhất quản lý đất đai theo
quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả " (ch-
ơng II, Điều 18).
Điều 1 luật đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung cũng nêu rõ "đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nớc thống nhất quản lý".
Điều 13 luật đất đai xác định một trong những nội dung quản lý nhà nớc
về đất đai là "quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất".
Điều 19 luật đất đai khẳng định "căn cứ để quyết định giao đất, cho thuê
đất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã đợc cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền xét duyệt".
Nghị quyết số 01/1997/QH9 Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 (tháng
4/1997) và kế hoạch sử dụng đất cả nớc năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy
hoạch sử dụng đất các cấp trong cả nớc...
Nghị định số 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
Luật đất đai năm 2003 đã đợc Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua cũng dành hẳn một mục gần 10 điều
quy định các nội dung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (mục 2 - từ điều 21
đến điều 30).
Nh vậy, để sử dụng và quản lý đất đai (thuộc sở hữu toàn dân, là t liệu
sản xuất đặc biệt) một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả nhất thì cần phải có
sự quy hoạch đất đai đồng bộ.
- Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất:
Điều 15 (luật đất đai năm 2003) quy định rõ trách nhiệm lập quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đai theo các cấp lãnh thổ hành chính.
Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
của cả nớc.
Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) tổ chức thực hiện việc lập quy
hoạch theo lãnh thổ hành chính - trừ trờng hợp các đơn vị hành chính cấp dới
thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị). Trình hội đồng nhân dân thông qua
trớc khi trình cơ quan nhà nớc có thẩm quyển xét duyệt.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải đợc trình đồng thời với kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội.
- Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất :
Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nớc do
chính phủ trình.
Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ơng.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng xét duyệt quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dới trực tiếp.
Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất xã không thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị.
1.2.3. Quy hoạch sử dụng đất và sự nghiệp công nghiệp hoá nông
nghiệp nông thôn
Do đặc thù nền kinh tế nớc ta, vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp và
nông thôn có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Công nghiệp hoá nông thôn là quá trình phát triển
kinh tế - xã hội mà nội dung chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội ở
nông thôn gắn liền với công nghệ theo hớng công nghiệp và dịch vụ. Nói cách
khác, công nghiệp hoá nông thôn là quá trình áp dụng phơng tiện vật chất - kỹ
thuật, phơng pháp sản xuất công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn ở
nông thôn. Về mặt hình thức, công nghiệp hoá nông thôn đợc biểu hiện trên các
mặt sau:
Phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, cung cấp năng lợng, bu
chính viễn thông, giáo dục, đào tạo, y tế...) cho sản xuất nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông
thôn (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất, tới tiêu, vận chuyển, bảo quản
chế biến, sử dụng giống mới, phơng pháp canh tác tiên tiến).
Phát triển công nghiệp (bao gồm cả xây dựng) và dịch vụ ở nông thôn
gồm, các ngành gắn với đầu vào cũng nh đầu ra của nông nghiệp (nh sản xuất
và sửa chữa nông cụ, sản xuất nguyên liệu), các ngành tận dụng lao động, vốn
tay nghề ở nông thôn để sản xuất ra các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Quy hoạch sử dụng đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, đặc
biệt là cấp huyện, xã với nội dung: phân bổ đất đai phù hợp với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn chiếm vị