NGHIÊN cứu- TRAO Đờỉ
HÀNH VI PHÂN BỆT GIÁ
DƯỚI GÓC ĐỘ KINH TỂ VÀ LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ VÂN ANH *
Tóm tắt: Phân biệt đối xử về giá (gọi tẳt là phân biệt giả) là một dạng phổ biến của các hành vi
phân biệt đối xử trong giao dịch kinh doanh, về mặt kinh tế học, hành vi phân biệt giá do các doanh
nghiệp thực hiện nhằm chiếm giữ thặng dư tiêu dùng (consumer surplus) và thu được lợi nhuận tối
đa không luôn mang lại hậu quả bất lợi cho xã hội và cũng khơng ln có mục đích hoặc tác dụng
cản trở cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử về giá cùa doanh nghiệp có thể
gây tác động hạn chế cạnh tranh, tơn hại cho người tiêu dùng. Trên cơ sở phân tích bản chất kinh tế
của hành vi phân biệt giả, bài viết phân tích, bình luận quy định tại điểm d khoản 1 và điểm a khoản 2
Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 về hành vi áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các
giao dịch tương tự.
Từ khóa: Cạnh tranh; phân biệt giá: lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; lạm dụng vị trí độc
quyền; Luật Cạnh tranh
Nhận bài: 25/01/2022
Hoàn thành biên tập: 28/3/2022
Duyệt đăng: 28/3/2022
PRICE DISCRIMINATION FROM THE PERSPECTIVE OF ECONOMICS AND COMPETITION
LAW IN VIETNAM
Abstract: Discrimination on price (in short, price discrimination) is a common type of discrimination
in business transactions. In terms of economics, price discrimination exercised by businesses to
capture consumer surplus and maximize profits does not necessarily result in adverse consequences
for the society, nor does it always have the purpose or effect of hindering competition in the market.
However, such acts ofprice discrimination may restrict competition, and cause harms to consumers.
On the basis of analyzing the economic nature ofprice discrimination, this article analyzes and gives
comments on the application of various trade conditions under Point d, Clause 1 and Point a, Clause
2, Article 27 of the 2018 Law on Competition in similar transactions.
Keywords: Competition; price discrimination; abuse of a dominant position on the market; monopoly
abuse; competition law
Received: Jan 25th, 2022; Editing completed: Mar 28th, 2022; Acceptedfor publication: Mar 28th, 2022
1. Khái niệm và bản chất kinh tế của
hành vi phân biệt giá
Trong kinh doanh, định giá bán sản
phẩm là vấn đề quan trọng nhất trên thương
* Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
E-mail:
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
trường. Định giá bán sản phẩm ở mức nào
mà thị trường chấp nhận là vấn đề then chốt
trong kinh doanh.
Dưới góc độ kinh tế học vi mơ, trên thị
trường cạnh tranh hồn hảo (khơng chủ thể
kinh doanh nào có sức mạnh thị trường), giá
67
NGHIÊN cửu- TRAO ĐỐI
cả được quyết định bởi cung và cầu thị
trường nên các doanh nghiệp sẽ là người
phải chấp nhận giá. Mỗi nhà sản xuất phải có
khả năng dự báo thị trường và sau đó tập
trung vào việc quản lí chi phí sản xuất để có
thể bán sản phẩm với mức giá bằng chi phí
biên để tối đa hóa lợi nhuận. Trên thị trường
cạnh tranh khơng hồn hảo (bao gồm thị
trường độc quyền, độc quyền nhóm hoặc thị
trường cạnh tranh mang tính độc quyền), giá
cả trong điều kiện tồn tại sức mạnh thị
trường sẽ do doanh nghiệp quyết định. Các
doanh nghiệp đều có khả nàng định giá để
giành lợi thế thị trường nên có khả năng
định mức giá cao hem chi phí biên và có
nhiều lợi nhuận. Đặc biệt khi có sức mạnh
thị trường ở mức độ nhất định, cao hom là ở
vị trí thống lĩnh thị trường hay ở vị trí độc
quyền, các doanh nghiệp thường khơng bán
sản phẩm của mình theo cùng một mức giá.
Họ sẽ thực hiện chiến lược phân biệt giá
nhằm chiếm giữ thặng dư tiêu dùng và thu
được lợi nhuận tối đa1.
Trong kinh tế học, có nhiều định nghĩa
về phân biệt giá (Price discrimination). Theo
Robinson Joan: “Sự phân biệt giá là việc
định các mức giá khác nhau cho cùng một
sản phẩm hoặc cùng một mức giá cho sản
1 Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Kinh tế - Luật, Kinh tế vi mô nâng cao,
Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM, 2013, tr. 57.
Thặng dư tiêu dùng là mức sẵn lịng trả của người
tiêu dùng cho một hàng hóa trừ cho số tiền mà
người đó thực tế phải trả cho hàng hóa đó, N.
Gregory Mankiu, Kinh tế học vi mị, Nxb. Hồng
Đức, 2016, tr. 155.
68
phẩm khác biệt”7'. Theo George Joseph Stigler:
“Phân biệt giá là việc bán các sản phẩm
khác nhau ở mức giá khơng tỉ lệ thuận với
chi phí cận biên của sản phẩm”1
234. Theo J.S.
Bains: “Sựphân biệt giả dựa vào việc người
bản thực hiện việc định giá khác nhau cho
những người mua khác nhau đôi với cùng
một hàng hỏa,A.
Mặc dù các học giả đưa ra những định
nghĩa khác nhau về phân biệt giá nhưng có
thể hiểu một cách khái quát nhất về phân
biệt giá như sau: “Phân biệt giá là việc nhà
sản xuất bản cùng một loại hàng hóa cho
nhiều khách hàng khác nhau với mức giả
khác nhau, cho dù chỉ phỉ sản xuất chúng
như nhau ”5.
Dưới giác độ của kinh tế học vi mô, căn
cứ vào chủ thể mà hành vi phân biệt giá tác
động đến, cũng như căn cứ vào mức độ chiếm
giữ thặng dư tiêu dùng của doanh nghiệp,
phân biệt giá được chia thành 3 hình thức cơ
bản là phân biệt giá cấp I, cấp II và cấp III6.
Phân biệt giá cấp I (phân biệt giá hoàn
hảo) là trường họp doanh nghiệp định giá
2 truy cập
02/12/2021.
3 truy cập
02/12/2021.
4 truy cập
02/12/2021.
5 Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Kinh tế - Luật, sđd, ư. 45.
6 Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình Kinh
tế học, tập 1, Vũ Kim Dung, Nguyễn Văn Công
(đồng chủ biên), Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân,
2013, tr. 341 - 344.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
NGHIÊN CỨU - TRA o ĐÔI
khác nhau cho từng khách hàng và đối với
từng sản phẩm. Trong trường hợp lí tưởng,
doanh nghiệp định giá cho mỗi khách hàng ở
mức giá mà họ sẵn sàng chi trả. Phân biệt giá
ở cấp độ này giúp doanh nghiệp thu được tất
cả thặng dư tiêu dùng hiện có cho mình. Tuy
nhiên, trong thực tế doanh nghiệp khó thực
hiện được phân biệt giá cấp I hồn hảo bởi
doanh nghiệp khó có thể biết được mức giá
mà từng khách hàng sằn sàng chi trả.
Phân biệt giá cấp II là trường hợp các
doanh nghiệp có thể bán các mức giá khác
nhau theo khối lượng sản phẩm được tiêu
thụ của cùng một loại sản phẩm tức là định
các mức giá khác nhau cho những khối
lượng tiêu thụ khác nhau. Chiến lược định
giá cấp II thường xảy ra ở những ngành có
tính kinh tế theo quy mơ như ở các công ti
điện lực, công ti cấp nước, công ti cung cấp
dịch vụ viễn thông... Ở những ngành này,
mồi người tiêu dùng khơng mua duy nhất
một đơn vị hàng hóa trong một khoảng thời
gian dài nhất định và nhu cầu của người tiêu
dùng giảm dần theo số lượng đã mua. Khi
tiêu dùng tăng lên thì sự sẵn sàng chi trả của
họ giảm xuống nên trong trường hợp này
doanh nghiệp thực hiện phân biệt giá theo số
lượng tiêu dùng và thường áp dụng chiết
khấu thương mại cho các khách hàng mua
khối lượng lớn.
Phân biệt giá cấp III là trường hợp doanh
nghiệp bán sản phấm cho các nhóm khách
hàng khác nhau với các mức giá khác nhau.
Doanh nghiệp phân chia thị trường thành các
tiểu thị trường theo thu nhập, theo giới tính,
theo độ tuổi, theo khu vực địa lí... và định
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
giá khác nhau cho các tiểu thị trường này
căn cứ vào khả năng chi trả của họ. Phân biệt
giá cấp III còn được thể hiện ở chiến lược
định giá thay đổi theo thời điểm tiêu thụ sản
phẩm của khách hàng. Chiến lược định giá
cấp III thường thực hiện ở các công ti kinh
doanh dịch vụ hàng không, dịch vụ du lịch...
Như vậy, doanh nghiệp có sức mạnh thị
trường ở mức độ nhất định, đặc biệt là các
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
hay vị trí độc quyền sẽ thực hiện các chiến
lược phân biệt giá nêu trên để tăng lợi nhuận
hơn so với việc thực hiện chính sách một giá
cho tất cả các khách hàng7. Khi doanh
nghiệp thực hiện các chiến lược phân biệt
đổi xử về giá thường tạo ra những tác động
không rõ ràng, có thể bao gồm cả tác động
tích cực lẫn tiêu cực đối với người tiêu dùng
và đối với nền kinh tế. Phân biệt giá có thể
giúp các cơng ti tăng sản lượng từ đó tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng hiệu quả
kinh tế cho xã hội. Nhiều khách hàng có khả
năng mua được sản phẩm khi doanh nghiệp
định giá cao cho những khách hàng có khả
năng trả giá cao và giảm giá cho khách hàng
có khả năng trả giá thấp8. Tuy nhiên, hành vi
phần biệt giá có thể gây tổn hại cho khách
hàng, cho người tiêu dùng khi doanh nghiệp
lạm dụng sức mạnh thị trường của mình để
định giá quá cao vượt quá khả năng chi trả
của phần lớn người tiêu dùng hoặc phân
7 N. Gregory Mankiu, Kinh tể học vi mơ, Nxb. Hồng
Đức, 2016, tr. 355.
8 truy cập 18/01/2022.
69
NGHIÊN cửu - TRA o ĐỚI
biệt giá nhằm mục đích loại bỏ, cản trở
doanh nghiệp khác gia nhập, mở rộng thị
trường gây tác động hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể. Ví dụ, Cơng ti M có vị trí
thống lĩnh thị trường trên thị trường cung
ứng thiết bị lắp đặt kính chắn gió đã áp
dụng mức chiết khấu cho cơng ti E là 40%,
trong khi áp dụng 50% cho các công ti
khác. Việc công ti M phân biệt về giá bán
cho bên mua như vậy làm cho trong quá
trình cạnh tranh trên thị trường lấp đặt kính
chắn gió, cơng ti E sẽ bị bất lợi hơn so với
các công ti khác, dẫn đến khả năng cơng ti
E có thể bị loại bỏ khỏi thị trường.
Từ những phân tích ở trên cho thấy dưới
giác độ kinh tế hành vi phân biệt giá không
luôn là hành vi gây tổn hại cho xà hội, cho
thị trường và cho người tiêu dùng. Dưới giác
độ pháp luật cạnh tranh, lình vực pháp luật
có mục tiêu bảo vệ cạnh tranh trên thị trường,
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Do đó, pháp
luật cạnh tranh nên quy định đối với hành vi
này theo hướng: Thừa nhận hành vi tích cực
và kiểm sốt hành vi gây ảnh hưởng tiêu cực
đến cạnh tranh trên thị trường. Hành vi phân
biệt đối xử trong giao dịch nói chung và phân
biệt giá nói riêng chỉ bị xử lí theo ngun tắc
hợp lí (rule of reason) mà không thể bị áp
dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (per se
rule). Điều này đã được thể hiện rõ trong
hướng dẫn của Bộ Tư pháp Mỹ về Cạnh
tranh và độc quyền: Hành vi lạm dụng vị trí
theo Điều 2 Luật Sherman9.
Với mục tiêu là để bảo vệ cạnh tranh
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị
trường, Luật Cạnh tranh năm 2004 trước đây
và Luật Cạnh tranh năm 2018 hiện nay của
Việt Nam đã có quy định nhằm kiểm sốt
hành vi phân biệt đối xử trong đó có hành vi
phân biệt đối xử về giá của doanh nghiệp
hay một nhóm doanh nghiệp. Luật Cạnh
tranh năm 2018 đã có một số thay đổi so với
Luật Cạnh tranh năm 2004 về hành vi này
theo hướng nhấn mạnh vào hậu quả, tác
động gây ra của hành vi và phản ánh bản
chất phản cạnh tranh của hành vi đồng thời
được xây dựng trên cơ sở các phương pháp
phân tích, đánh giá về kinh tế đảm bảo điều
chỉnh quan hệ cạnh tranh và thực thi luật có
hiệu quả10.
2. Quy định về hành vi phân biệt giá
trong Luật Cạnh tranh năm 2018
Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng như
Luật Cạnh tranh năm 2018 đều không quy
định trực tiếp về hành vi phân biệt giá. Theo
Luật Cạnh tranh năm 2004, Điều 13, Điều 14
quy định các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền bị cấm,
trong đó có hành vi áp đặt điều kiện thương
mại khác nhau trong giao dịch tương tự
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Hành vi này được xác định rõ tại Điều 29
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh
ngày 15/9/2005 của Chính phủ là: hành vi
phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về
9 />poly-single-firm-conduct-under-section-2-shermanact-chapter-5#giiic, truy cập 18/01/2022.
10 Điều này được thể hiện trong Tờ trình Chính phủ
số 6993/TTr-BCT ngày 03/8/2017 của Bộ Cơng
thương về dự án Luật Cạnh tranh(sửa đổi), tr 7, 14.
70
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
NGHIÊN CỨU - TRA o ĐÓI
điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh
toán, số lượng trong các giao dịch mua, bán
hàng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị
hoặc tính chất hàng hóa, dịch vụ để đật một
hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh
tranh có lợi hon so với doanh nghiệp khác.
Theo Luật Cạnh tranh năm 2018, hành vi áp
dụng điều kiện thưong mại khác nhau trong
các giao dịch tưong tự dần đến hoặc có khả
năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác
tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ
doanh nghiệp khác là hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường bị cấm (điểm d khoản 1
Điều 27) và là hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền bị cấm (điểm a khoản 2 Điều 27). Do
pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi cạnh
tranh trong kinh doanh mà những hành vi
này luôn phong phú đa dạng nên pháp luật
quy định mang tính mơ tả hành vi sẽ không
phù hợp với thực tiễn kinh doanh luôn biến
động. Bởi vậy, khác với Nghị định số
116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày
15/9/2005, Nghị định số 35/2020/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 24/3/2020 chỉ quy định
chi tiết những điều trong Luật Cạnh tranh
xác định Chính phủ sẽ quy định chi tiết.
Nghị định này khơng có những quy định
mang tính hướng dẫn, xác định các biểu hiện
cụ thể của các hành vi hạn chế cạnh tranh
nói chung và hành vi liên quan đến phân biệt
đối xử của doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh
nghiệp có vị trí độc quyền nói riêng.
Như vậy, theo quy định của Luật Cạnh
tranh, phân biệt giá là một trong những biểu
hiện của sự phân biệt đối xử trong thương
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
mại, gồm: phân biệt đối xử về giá cả hàng
hóa, điều kiện mua, bán, thời hạn thanh toán,
số lượng và các yếu tố khác. Căn cứ vào
điểm d khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 27
Luật Cạnh tranh năm 2018, hành vi phân
biệt giá trong giao dịch kinh doanh sẽ bị cấm
khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành sau:
- về chủ thế thực hiện hành vi
Luật Cạnh tranh năm 2018 và Luật Cạnh
tranh năm 2004 đều quy định chủ thể thực
hiện hành vi phân biệt giá phải là “doanh
nghiệp”, bao gồm các “tổ chức, cá nhân kinh
doanh” có vị trí thống lĩnh thị trường hay vị
trí độc quyền cùng hành động gây tác động
hạn chế cạnh tranh mà khơng có sự thỏa
thuận trước như các dạng hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: một
doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh
thị trường khi có sức mạnh thị trường đáng
kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị
trường liên quan. Nhóm doanh nghiệp được
coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng
hành động gây hạn chế cạnh tranh và có sức
mạnh thị trường đáng kể hoặc có tổng thị
phần thuộc các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 24 Luật này. Như vậy, Luật
Cạnh tranh năm 2018 đã xác định một doanh
nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường khi có sức mạnh thị
trường đáng kể căn cứ vào một hoặc một số
yếu tố để xác định11 chứ không phải chỉ căn
cứ vào một yếu tố duy nhất là thị phần của
doanh nghiệp trên thị trường liên quan như11
11 Điều 26 Luật Cạnh tranh và Điều 12 Nghị định số
35/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/3/2020
quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh.
71
NGHIÊN CỨU - TRA o ĐÓI
quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004
trước đây. Thay đổi này đảm bảo tính hợp lí
về mặt kinh tế của quy định, giúp phản ánh
chính xác vị thế của doanh nghiệp và thực
tiễn cạnh tranh trên thị trường.
- Biểu hiện khách quan của hành vi
Theo điểm d khoản 1 và điểm a khoản 2
Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018, hành vi phân
biệt giá được nhận diện khi doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường hay có vị trí độc
quyền trên thị trường liên quan áp dụng mức
giá bán hàng hóa, dịch vụ theo mức cao, thấp
khác nhau cho ít nhất từ hai chủ thể trơ lên
trong các giao dịch tương tự, đây là điểm
khác so với quy định trong Luật Cạnh tranh
năm 2004. Trước đây, khoản 4 Điều 13 Luật
Cạnh tranh năm 2004 xác định được coi là
hành vi phân biệt giá khi doanh nghiệp áp
dụng các mức giá khác nhau trong các giao
dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong
cạnh tranh. Trong thực tế sẽ khó tồn tại các
giao dịch giống nhau, bởi vậy Luật Cạnh
tranh năm 2018 quy định theo hướng phù
hợp hơn so với Luật Cạnh tranh năm 2004.
Theo Luật Cạnh tranh năm 2018, nếu doanh
nghiệp đặt các mức giá khác nhau theo các
chiến lược phân biệt giá cấp I, phân biệt giá
cap II, phân biệt giá cap III (đã nêu ở mục 1)
thì khơng ln bị coi là vi phạm Luật Cạnh
tranh khi: 1) doanh nghiệp không ờ vào vị trí
thống lĩnh thị trường hay vị trí độc quyền
trên thị trường liên quan; 2) Việc định giá
khác biệt ở trong các giao dịch hồn tồn
khác biệt khơng có tính tương tự.
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
72
của Luật Cạnh tranh năm 2004 đã mô tả dấu
hiệu nhận diện hành vi áp đặt điều kiện
thương mại khác nhau trong điều kiện giao
dịch như nhau là hành vi được giới hạn trong
giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ và chỉ
gắn với biểu hiện là: có sự tương tự về mặt
giá trị hoặc tính chất hàng hóa, dịch vụ. So
với Luật Cạnh tranh năm 2004 và Nghị định
số 116/2005/NĐ-CP có thể thấy, Luật Cạnh
tranh năm 2018 đã mở rộng phạm vi việc
lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền để
phân biệt đối xử về giá bị cấm là trong các
giao dịch tương tự mà không giới hạn chỉ
trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ
cũng như khơng giới hạn sự tương tự chỉ về
giá trị hoặc tính chất hàng hóa, dịch vụ mà là
tương tự về bất cứ yếu tố nào của giao dịch
đều bị xem xét. Tuy nhiên, pháp luật hiện
hành không quy định các dấu hiệu để nhận
diện giao dịch tương tự nên sẽ gây khó khăn
cho các doanh nghiệp trong việc tuân thủ
Luật Cạnh tranh bởi doanh nghiệp không
biết trong trường hợp nào hành vi đặt các
mức giá khác nhau cho các khách hàng sẽ bị
coi là vi phạm Luật Cạnh tranh.
- Hậu quả tác động của hành vi
Điều 13, Điều 14 Luật Cạnh tranh năm 2004
và Điều 29 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP
xác định hành vi phân biệt giá của các chủ
thê sẽ bị cấm nếu nó tạo ra sự bất bình đẳng
trong cạnh tranh giữa các khách hàng, cụ thể
đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí
cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp
khác. Quy định này mang tính mơ tả về hình
thức biểu hiện của hành vi phân biệt giá mà
chưa nhấn mạnh vào hậu quả, tác động bất
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
NGHIÊN CỦI - TRAO DO/
lợi gây cản trở cạnh tranh của hành vi này
bởi như phân tích bản chất của hành vi này
dưới góc độ kinh tế thì việc phân biệt giá
chắc chắn sẽ có doanh nghiệp được lợi hon
doanh nghiệp khác nhưng chưa chắc đã làm
ảnh hưởng đến cạnh tranh. Mặt khác, theo
quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, tất
cả các hành vi phân biệt đối xừ về giá trong
giao dịch tưomg tự đều bị cấm theo nguyên
tắc vi phạm mặc nhiên (per se rule). Quy
định như vậy là chưa hợp lí, chưa phù hợp
với bản chất kinh tế của hành vi này như đã
phân tích ở trên.
Trong hon 10 năm thực thi Luật Cạnh
tranh năm 2004, cơ quan cạnh tranh chưa xử
lí vụ việc cạnh tranh nào về hành vi phân
biệt đối xử về giá. Điều đó xuất phát từ
nhiều lí do khác nhau, trong đó có nguyên
nhân do quy định về hành vi phân biệt đối
xừ trong các giao dịch bị cấm (trong đó có
hành vi phân biệt giá) chưa rõ ràng, chưa
phù hợp với thực tiền. Tuy nhiên, có vụ
việc điển hình đã bị xử lí với hành vi lạm
dụng vị trí độc quyền bị cấm theo quy định
tại Điều 14 Luật Cạnh tranh năm 2004 và
có tình tiết liên quan đến hành vi phân biệt
giá là vụ Công ti xăng dầu hàng không
(Vinapco) từ chổi cung cấp nhiên liệu cho
Hãng hàng không Jetstar Pacific AirInes
(JPA), trước ngày 23/5/2008 có tên là Hãng
hàng khơng Pacific Airlines (PA). Nội dung
vụ việc như sau12:
Ngày 31/12/2007, Công ti Xăng dầu
hàng khơng Vinapco và Hãng hàng khơng kí
12 dơngcanhtranh.gov.vn/default.aspx?
page=news&do=detail&id=97, truy cập 28/11/2021.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SĨ 3/2022
Hợp đồng mua bán nhiên liệu hàng khơng
JET A-l số 344’A2008. Theo đó hai bên đã
thỏa thuận mức phí cung ứng nhiên liệu.
Ngày 12/3/2008, Vinapco mời PA đến họp
để xác định lại mức phí cung ứng mới. Ngày
24/3/2008, Vinapco và PA đã họp tại trụ sở
của Vinapco.
Tại cuộc họp này, PA thừa nhận việc
tăng phí cung ứng khi chi phí thị trường tăng
là hợp lí nhưng u cầu phí cung ứng phải
bình đăng giữa các hãng hàng không nội địa,
cụ thể là giữa PA và Tổng công ti Hàng
không Việt Nam (VNA). Ngày 26/3/2008,
PA gứi công văn đến Vinapco bày tỏ sự
không chấp nhận việc Vinapco áp dụng mức
phí cung ứng mới khác nhau giữa VNA và
PA, đồng thời đề nghị Vinapco và PA cùng
kiến nghị Chính phủ và các bộ liên quan
xem xét, quyết định. Ngày 28/3/2008,
Vinapco gửi fax cho PA yêu cầu PA phải
chấp thuận bằng văn bân mức phí cung ứng
mới và kết thúc thỏa thuận, đàm phán trước
ngày 31/3/2008. Ngày 31/3/2008, Vinapco
có cơng văn gửi cho các xí nghiệp xăng dầu
của Vinapco ở các khu vực đề nghị các xí
nghiệp này ngừng tra nạp nhiên liệu JET A-l
cho mọi chuyến bay của PA từ OhOO ngày
01/4/2008 cho đến khi có chỉ đạo mới bằng
văn bản của Vinapco. Ngày 31/3/2008,
Vinapco gửi công văn đến PA thông báo
ngừng tra nạp nhiên liệu JET A-l cho mọi
chuyến bay của PA từ OhOO ngày 01/4/2008.
Tháng 5/2008, Cục Quản lí cạnh tranh
đã quyết định điều tra chính thức vụ việc.
Ngày 14/4/2009, Hội đồng Xữ lí vụ việc
cạnh tranh tiến hành phiên điều trần để xử lí
73
NGHIÊN cửu - TRA o ĐÔI
vụ việc. Hội đồng kết luận Cơng ti Xăng dầu
hàng khơng Vinapco đã có hành vi lạm
dụng độc quyền trên thị trường nhiên liệu
hàng không vi phạm các khoản 2 và 3 Điều
14 Luật Cạnh tranh. Hội đồng nhận định
rằng, căn cứ vào quy định của pháp luật,
Vinapco là doanh nghiệp duy nhất trên thị
trường xăng dầu hàng khơng Việt Nam có
quyền nhập khẩu xăng dầu hàng không và
cung ứng cho các hãng hàng không. Nói
cách khác, Vinapco là doanh nghiệp có vị trí
độc quyền và có thể dựa vào rào cản pháp
luật để duy trì vị trí thống lĩnh thị trường
hiện có. Hành vi từ chối bán hàng của
Vinapco đã tạo ra ảnh hưởng làm hỗn nhiều
chuyến bay của JPA, từ đó tạo ra tổn hại
nghiêm trọng cho khách hàng. Hội đồng Xử
lí vụ việc cạnh tranh nhất trí cho rằng hành
vi của Vinapco đã vi phạm quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 14 Luật Cạnh
tranh, thuộc vào trường hợp hành vi “áp đặt
điều kiện bất lợi cho khách hàng” và “lợi
dụng vị trí độc quyền để đom phưomg thay
đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà
khơng có lí do chính đáng”.
Hội đồng Xừ lí vụ việc cạnh tranh quyết
định phạt Vinapco 3,378 tỉ đồng về các hành
vi vi phạm và 100 triệu đồng phí xử lí vụ việc.
Vinapco đã khiếu nại quyết định xử lí
của Hội đồng Xử lí vụ việc lên Hội đồng
Cạnh tranh. Khơng nhất trí với Quyết định
Giải quyết khiếu nại của Hội đồng Cạnh
tranh, Vinapco đã khởi kiện ra Toà án nhân
dân thành phố Hà Nội. Ngày 12/12/2010,
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra
phán quyết bác đom kiện của Vinapco.
74
Không đồng ý với bản án cùa Tịa Hành
chính - Tịa án nhân dân thành phổ Hà Nội,
Vinapco đã gửi đơn kháng cáo lên Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 19/9/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao đã mở phiên tồ phúc thấm
cơng khai xét xử theo kháng cáo của
Vinapco. Sau khi xem xét vụ việc, Tòa án
cho rằng do Vinapco khơng thể đưa ra chứng
cứ chứng minh tính hợp lí của việc tăng giá,
trong khi Quyết định của Hội đồng Xử lí vụ
việc cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh về
tính chất hành vi và mức xử phạt đều có căn
cứ pháp luật, phù hợp với quy định của Luật
Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Hội đồng xét xử phúc thẩm đã không
chấp nhận kháng cáo của Vinapco và giữ
nguyên quyết định của Hội đồng Cạnh tranh
về xử lí vụ việc.
Có thể thấy, đây là vụ việc cạnh tranh có
liên quan đến hành vi phân biệt giá gây tổn
hại cho người mua. Theo quy định của Luật
Cạnh tranh năm 2004, một trong những yếu
tố cấu thành quan trọng của hành vi phân
biệt giá là đổi tác giao dịch phải là các chủ
thể kinh doanh có điều kiện tương đồng. Từ
lập luận của Vinapco có thể thấy, mức tiêu
thụ xét trên mồi lần nạp nhiên liệu của VNA
cao gấp 10 lần mức tiêu thụ của JPA, trong
khi chi phí nhân cơng và thời gian là như
nhau, khơng phụ thuộc vào việc nạp nhiên
liệu nhiều hay ít. Như vậy khơng thể nói
trong quan hệ với Vinapco, hai cơng ti này
tịn tại giao dịch tương đồng. Vì vậy, việc
định giá khác biệt ở đây thuộc vào chiến
lược phân biệt giá cap II (đã trình bày ở mục
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
NGHIÊN cúu - TRA o ĐỊI
1) do đó khơng mặc nhiên là hành vi vi
phạm pháp luật. Hành vi của Vinapco chỉ bị
cấm nếu việc chiết khấu đó vượt quá giới
hạn hợp lí theo suy đốn và nhận định của
Hội đồng Xử lí vụ việc cạnh tranh. Trong
trường hợp này, Hội đồng xử lí vụ việc đã
suy đốn việc tăng giá đối với JPA thêm
26,5% (có thể hiểu tương ứng là chiết khấu
26,5% đối với Vietnam Airlines) là khơng
hợp lí nên đã ra phán quyết cho rằng hành vi
của Vinapco là vi phạm pháp luật cạnh tranh
với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền để áp
đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và
đơn phương thay đôi hợp đồng đã giao kết
mà khơng có lí do chính đáng13.
Phán quyết của Hội đồng Xử lí vụ việc
cạnh tranh vào thời điểm đó chưa được
Vinapco “tâm phục” nên đã bị khiếu nại qua
nhiều cấp. Khắc phục những hạn chế trong
quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004,
điểm d khoản 1 và điểm a khoản 2 Luật
Cạnh tranh năm 2018 đã quy định cụ thể,
hành vi phân biệt đối xử về giá chỉ bị cấm
khi doanh nghiệp ở vào vị trí thống lĩnh thị
trường hoặc vị trí độc quyền đưa ra các mức
giá khác nhau trong các giao dịch tương tự
và phải dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến
hậu quả sau (hậu quả này có thể đã xảy ra
hoặc có thể xảy ra trong tương lai):
- Ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia,
mở rộng thị trường;
Loại bỏ doanh nghiệp khác.
13 Đào Ngọc Báu, “Phân tích kinh tế học pháp luật
đối với hành vi kì thị giá và đề xuất hồn thiện Luật
Cạnh tranh 2004”, Tạp chí Khoa học Cơng nghệ
Việt Nam, số 4/2018, tr. 26, 27.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
Giống với cách quy định về dấu hiệu thứ
hai của hành vi phân biệt đối xử về giá, dấu
hiệu hậu quả của hành vi trong Luật Cạnh
tranh năm 2018 chỉ quy định chung chung
mà khơng có giải thích thế nào là ngăn cản
doanh nghiệp khác tham gia thị trường, thế
nào là mở rộng thị trường, thế nào là loại bỏ
doanh nghiệp khác. Điều này gây khó khăn,
lúng túng cho các doanh nghiệp trong việc
nhận biết hành vi phân biệt giá do mình thực
hiện có vi phạm Luật Cạnh tranh khơng?
3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm
thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh
năm 2018 về hành vi phân biệt giá
Từ những phân tích ở mục 2 cho thấy,
quy định tại điểm d khoản 1 và điểm a khoản
2 Điều 27 Luật Cạnh tranh năm 2018 và một
số điều khác có liên quan đã có thể nhận
diện hành vi phân biệt giá theo hướng đảm
bảo tính hợp lí về mặt kinh tế và nhấn mạnh
vào hậu quả, tác động gây bất lợi cho cạnh
tranh của hành vi để vừa phát huy các tác
động tích cực, kiểm sốt được tối đa các tác
động phản cạnh tranh của hành vi. Đây là
cách tiếp cận phù hợp với kinh nghiệm quốc
tế luôn coi Luật Cạnh tranh là phương tiện
được nhà nước sử dụng để điều chỉnh quan
hệ cạnh tranh trên thị trường trên cơ sở kết
hợp tư duy pháp lí và tư duy kinh tế. Trong
q trình xử lí các vụ việc hạn chế cạnh
tranh nói chung và vụ việc về hành vi phân
biệt giá nói riêng bên cạnh những quy định
pháp luật, cơ quan cạnh tranh cũng cần phải
sử dụng các phân tích, đánh giá kinh tế phục
vụ cho việc đánh giá vụ việc14.
14 Bộ Cơng thương, Tờ trình Chính phủ, tlđd, tr. 7.
75
NGHỈỂ.y CÚI - TRA o ĐÔI
Tuy nhiên để những quy định tiến bộ của
Luật Cạnh tranh có thể được áp dụng trên
thực tế để bảo vệ cạnh tranh, bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng kiểm sốt được các hành vi,
thủ đoạn thực hiện việc phân biệt giá gây cản
trở cạnh tranh trên thị trường, trước hết cần
thực hiện những công việc sau:
Thứ nhất, cần nhanh chóng thành lập,
kiện tồn, ổn định tồ chức, hoạt động của Uy
ban Cạnh tranh quốc gia
Theo Luật Cạnh tranh năm 2018, cơ
quan thực thi pháp luật về cạnh tranh là ủy
ban Cạnh tranh quốc gia, có nhiệm vụ và
quyền hạn tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ
Cơng thương thực hiện chức năng quản lí
nhà nước về cạnh tranh. Cơ quan này trực
tiếp tiến hành tố tụng cạnh tranh; kiêm soát
tập trung kinh tế; quyết định việc miền trừ
đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị
cấm; giải quyết khiếu nại quyết định xử lí vụ
việc cạnh tranh. Trước đây, Luật Cạnh tranh
năm 2004 quy định: Cơ quan thực thi pháp
luật về cạnh tranh là Cục Cạnh tranh và Bảo
vệ người tiêu dùng và Hội đồng Cạnh tranh,
ủy ban Cạnh tranh quốc gia sẽ được thành
lập trên cơ sở hợp nhất Cục Cạnh tranh và
Bảo vệ người tiêu dùng và Hội đồng Cạnh
tranh. Tuy nhiên, đến hết tháng 11/2021, ủy
ban Cạnh tranh quốc gia chưa được thành
lập15. Dự thảo Nghị định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
15 Cổng thông tin điện tử Chính phù nước CHXHCN
Việt Nam, Thường trực Chinh phủ họp về mơ hình
tổ chức của ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, http://bao
chinhphu.vn/Thoi-su/Thuong-truc-Chinh-phu-hopve-mo-hinh-to-chuc-cua-Uy-ban-Canh-tranh-Quocgia/394929.vgp, truy cập 28/11/2021.
76
cua ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đã hết hạn
lấy ý kiến đóng góp nhưng hiện nay vẫn
chưa được ban hành16. Do ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia chưa được thành lập nên các
hoạt động tiến hành tố tụng cạnh tranh đổi
với hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh
không lành mạnh, tập trung kinh tế nói
chung và hành vi phân biệt giá nói riêng
chưa thể được thực thi đầy đủ góp phần bảo
đảm cạnh tranh lành mạnh, cơng bằng,
giúp bình ổn thị trường, bình ổn giá và bảo
vệ người tiêu dùng.
Thứ hai, sau khi ủy ban Cạnh tranh
Quốc gia được thành lập, với tư cách là cơ
quan giúp Bộ trưởng Bộ Công thương quàn
li nhà nước về cạnh tranh, cơ quan này cần
có tài liệu hướng dần về việc nhận diện hành
vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh nói chung, hành vi phân
biệt về giá nói riêng để chủ thể kinh doanh
hiêu được quy định của Luật Cạnh tranh và
áp dụng tránh những vi phạm do không hiểu
quy định của Luật. Như mục 2 đã chỉ ra hai
đặc trưng cua hành vi phân biệt giá là về
biểu hiện của hành vi và về hậu quả của
hành vi, Luật Cạnh tranh năm 2018 mặc dù
quy định theo hướng tiến bộ hơn so với
Luật Cạnh tranh năm 2004 nhưng nếu
khơng có hướng dẫn chính thống của cơ
16 Cổng thơng tin điện tử Chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam, Dự thảo Nghị định quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tố chức cùa Uy ban
Cạnh tranh Quốc gia, />porta 1/page/portal/chinhphu/congdan/DuThaoVanB
an?_pirefl35_27935_135_27927_27927.mode=dis
playreply&_pirefl35_27935_135_27927_27927.id
=2845, truy cập 04/7/2021.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
NGHIÊN CỨU - THA o ĐÓI
quan thực thi Luật Cạnh tranh thì khơng thể
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
trong việc tuân thủ các quy định của Luật.
Ớ nhiều nước trên the giới, cơ quan cạnh
tranh thường ban hành những hướng dần cụ
thể để giải thích cho một hoặc một số điều
khoản được quy định trong Luật Cạnh tranh
hoặc trong các quy định có liên quan đến
cạnh tranh. Ví dụ, năm 2008, Bộ Tư pháp
Mỹ đã có hướng dẫn chi tiết về cạnh tranh
và độc quyền: Hành vi lạm dụng vị trí theo
Điều 2 Luật Sherman, trong đó có hướng
dẫn về hành vi phân biệt giá17. Năm 2021,
ủy ban Cạnh tranh và người tiêu dùng úc
đã có hướng dẫn số 29 vào tháng 9/2021
liên quan tới yêu cầu không phân biệt đối
xử trong phần XIC cùa Luật Cạnh tranh và
tiêu dùng năm 2010 và phần 8 Luật Viễn
thông năm 199718.
Thứ ba, nhìn chung các quy đinh kiểm
sốt hành vi phân biệt đối xử về giá trong
Luật Cạnh tranh năm 2018 tương tự với
quy định trong pháp luật cạnh tranh của
nhiều nước trên thế giới và phù hợp với
bản chất kinh tế của hành vi này. Do đó, cơ
quan cạnh tranh Việt Nam nên tập hợp các
án lệ đã được áp dụng ở nước ngoài và giới
thiệu để các doanh nghiệp và những ai
quan tâm biết19.
Phân biệt giá là hành vi tất yếu của các
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh
www.usdoj.gov/atr/public/reports/236681.ht, truy
cập 04/7/2021.
18 truy cập 04/7/2021.
19 Tham khảo thêm các án lệ về phân biệt đối xử giá
trong bài viết của Đào Ngọc Báu, sđd.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2022
nhằm mục đích thu được lợi nhuận tối đa.
Tuy nhiên, hành vi này nếu dẫn đến hậu quả
gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể thì
cần thiết phải ngăn cản để bảo vệ cạnh tranh,
bảo vệ phúc lợi xã hội. Để thực hiện được
mục đích này thi pháp luật cạnh tranh cần
phải có quy định hợp lí và phải có cơ chế
thực thi có hiệu quả. Luật Cạnh tranh năm
2018 đã quy định về hành vi này theo hướng
hợp lí hon so với Luật Cạnh tranh năm 2004,
phù hợp với thông lệ tốt về cạnh tranh trên
thế giới. Tuy nhiên, hiệu quả của Luật chỉ tốt
khi nó được thực thi trên thực tế, bởi vậy các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như
những người có liên quan đến việc thực thi
Luật Cạnh tranh năm 2018 cần quan tâm và
khân trương thực hiện các giải pháp để Luật
Cạnh tranh năm 2018 phát huy hiệu quả
trong thực tiễn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. N. Gregory Mankiu, Kinh tế học vi mô,
Nxb. Hồng Đức, 2016.
2. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, Trường Đại học Kinh tế - Luật,
Kinh tể vi mô nâng cao, Nxb. Đại học
Quốc gia TP. HCM, 2013.
3. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo
trình Kỉnh tế học, tập 1, Vũ Kim Dung,
Nguyễn Văn Công (đồng chủ biên), Nxb.
Đại học Kinh tế Quốc dân, 2013.
4. Đào Ngọc Báu, “Phân tích kinh tế học
pháp luật đối với hành vi kì thị giá và đề
xuất hồn thiện Luật Cạnh tranh 2004”,
Tạp chí Khoa học Cơng nghệ Việt Nam,
số 4/2018.
77