Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu quy định quyền bề mặt trong luật đất đai và một số khuyến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742 KB, 6 trang )

GTuân ^íhínn CDần - 2022

NGHIÊN CỬU QUY ĐỊNH[QUYÊN BÊ MẶT
TRONG LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ MỘT số KHUYÊN NGHỊ
LÊ ĐĂNG KHOA
*

Quyền bề mặt lần đầu tiên được ghi nhận ứong Bộ luật Dân sự năm 2015 đó là quyên của
các chủ thể đối vói khoảng khơng từphía trên bê mặt đất, mặt đất và phía dưới lịng đất. Tuy
nhiên, trong thời gian qua, vãn chưa có các quy định của pháp luật chuyên ngành nhàm triển
khai và thực thi quyên bề mặt. Do đó, việc sửa đơi, bổ sung Luật Đất đai nên xem xét ghi
nhận cụ thể hon quyền bê mặt là cần thiết nhàm hướng tới những cải cách tốt hon trong
chính sách quản lý, sử dụng đất đai và khai thác tốt nhất những lọi ích từ đất đai. Bài viết đê
xuất một số khuyến nghị nhằm thế chế hóa quyền bê mặt vào Luật Đất đai để có thể tạo ra
những điều kiện tốt nhất cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai ở Việt Nam.
Tù khóa: Quyền sử dụng đất; quyên bề mặt; vật quyền; nghiên cứu; Luật Đất đai.
The surface rights were first recognized in the 2015 Civil Code and defined as an entity's rights
to the ground, space thereon and earth bowel of the land. However, there has been an
absence ofspecialized legal provisions for the implementation and enforcement of surface
rights. Therefore, it is necessary to recognize and concretize the surface rights in the amendment
and supplement of the Land Law for improvement ofland use and managementpolicies and
best exploitation of the land benetìts. The article proposed some recommendations to
institutionalize the surface rights into the Land Law in order to provide the best conditions
for the effective land exploitation and use in Viet Nam.
Keywords: Land use right; surface rights; property rights; studying; Land Law.

NGÀYNHẬN: 02/12/2021

NGÀYPHẢN BIỆN, ĐÁNH GIÁ 05/01/2022

1. Quyền bề mặt và quyển sử dụng đất một số vấn đề thực tiễn đặt ra



Quyền bề mặt (QBM) được ghi nhận tại
“Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác
đối với tài sản” trong Bộ luật Dân sự năm
2015 (BLDS 2015). Quy định về QBM trong
pháp luật dân sự tạo nền tảng chung, đưa ra
góc nhìn cơ bản về QBM. Thơng qua đó,
chúng ta thấy được sự liên hệ giữa QBM với
quyền sử dụng đất (QSDĐ). QSDĐ là quyền
Tạp chí Quản lý nhà nước-Sơ 312 (1/2022)

NGÀYDUYỆT: 17/01/2022

khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước1, là quyền phái sinh (có
sau) quyển sở hữu đất đai của Nhà nước.
Trong khi đó, “Quyền bề mặt lại là quyền
phái sinh sau quyền sử dụng đất của người
có quyền khai thác đất đai của nhà nước
phục vụ cho lợi ích của mình”2. Như vậy,
dưới góc nhìn pháp lý, chúng ta có thể nhận

* TS, Trường Đại học Kiêm sát Hà Nội

Sỉ


Nghiên cứu - Trao đổi


ra QSDĐ và QBM là hai quyền năng tách
bạch nhau, có mối liên hệ vói nhau và thuộc
về hai chủ thể khác nhau. Do vậy, việc ghi
nhận cụ thể hon về QBM trong pháp luật đất
đai là cần thiết và tạo cơ chế tốt hơn để cho
các chủ thể thực hiện được quyền năng này.
Vê việc xác lập quyền, QBM được xác lập
theo quy định của pháp luật, theo thỏa
thuận hoặc theo di chúc. Quan trọng hơn là,
chúng ta chỉ có thể xác định được chủ thể
của QBM khi đã biết chác chán người có
QSDĐ là ai3.
Về phạm vi quyên, từ góc độ pháp lý có
thể nhận thấy phạm vi QBM không đầy đủ
bàng QSDĐ. Chủ thể QBM chỉ có quyền khai
thác, sử dụng mặt đất, mặt nước, khoảng
không gian trên mặt đất, mặt nước và lịng
đất để xây dựng cơng trình, trồng cây, canh
tác mà không được thực hiện các giao dịch
liên quan đến việc chuyển nhượng QSDĐ đó.
Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận chủ thể QBM
vẫn được chuyển nhượng QBM đó trong giói
hạn về phạm vi và thòi hạn được cấp QBM.
Đây cũng chính là điều giúp cho các chủ thể
có thể linh động hơn, thuận lọi hơn và có
nhiều lựa chọn hơn để khai thác sử dụng
QBM được cấp mà không bị tác động từ chủ
thể có QSDĐ. Theo đó, QBM có mối liên hệ
gán bó, mật thiết, là quyền phái sinh từ
QSDĐ. Dưới góc độ chung, hai quyền này có

thể song song cùng tồn tại độc lập với nhau,
thuộc về các chủ thể khác nhau, mà trong đó
chủ thể có QBM được tồn quyền khai thác
lọi ích, tạo lập tài sản, có quyền sở hữu đối vói
tài sản được tạo lập trên đất, có quyền tự do
chuyển đổi; chuyển nhượng QBM mà khơng
phụ thuộc vào ý chí của người có QSDĐ. Từ
đây, có thể thấy, việc ghi nhận thêm các quy
định cụ thể hơn về QBM trong Luật Đất đai
là có cơ sở và cần thiết. Như vậy, có thể thấy,
QBM có sự liên hệ mật thiết với QSDĐ nhưng
vẫn bảo đảm được tính độc lập của mình nhờ
những thuộc tính riêng có của nó.

84

Trong thực tiễn, có những vấn đề đặt ra
dưới nhiều góc độ khác nhau có liên quan
đến QBM mà nếu như chúng ta có đầy đủ
hơn nữa các quy định, các thiết chế thực thi
QBM thì đã có thể giải quyết được nhiều vấn
đề nảy sinh trong thực tiễn. Một số vấn đề
pháp lý liên quan đến các tranh chấp hoặc
liên quan đến các vấn đề về quyền sử dụng
nhà ở, QSDĐ, quyền sử dụng khoảng không
trên đất... mà thực tiễn có những vướng mác,
chưa có những biện pháp xử lý hữu hiệu.
Một số vấn đề liên quan đến việc mua
bán, chuyển nhượng tài sản là quyền sử
dụng các căn hộ thuộc các chung cư mini

được xây dựng bởi người dân. Trường họp
vợ chồng ở Quảng Ninh đến Hà Nội lập
nghiệp đã bỏ ra khoảng 700 triệu đồng để
mua một căn hộ chung cư mini 30m2 ở quận
Thanh Xn. Qua tìm hiểu, họ biết căn hộ
khơng có sổ hồng riêng cho từng căn mà
phải dùng chung sổ hồng của cả tịa nhà,
nhưng với khả năng tài chính hạn hẹp và
đang có con nhỏ, nên lúc đó, lựa chọn mua
chung cư mini ở nội đô, theo họ là giải pháp
họp lý nhất. Đến nay, vướng mác nảy sinh
khi mẹ của người chồng ở quê đang ốm
nặng, cần tiền để trang trải viện phí và cũng
muốn chuyển về quê sinh sống (bởi bản
thân họ cũng đang khơng có việc làm ổn
định). Tuy nhiên, họ không thể chuyển
nhượng được căn hộ mini mà muốn mang
thế chấp ngân hàng cũng không được. Lý do
vì căn nhà chưa được cấp sổ hồng, do đó,
căn hộ khơng có đầy đủ pháp lý4.
Một tình huống thực tiễn khác, “Ngày
15/8/2014, bốn đồng chủ sở hữu bao gồm:
ông Dương Việt H, Lã Quang D, Nguyễn
Xuân Đ, Hồng Ngọc T đã nhận chuyển
nhượng tù ơng Vũ Văn N và Đinh Quang H
tài sản bao gồm 159,3 m2 đất ở lâu dài và tài
sản gán liền với đất, bao gồm: nhà 5 tầng và
1 turn, diện tích xây dựng tầng 1 là 116,8 m2;
tổng diện tích sàn xây dựng là 678,28 m2 loại
Tạp chí Quản lý nhà nước-Số 312 (1/2022)



(Ằýuủn ơtliâin
nhà bê tông. Ngày 04/3/2017, ông Dương
Việt H đại diện bốn đồng chủ sở hữu đã bán
cho vợ chồng ông Lê Đức Q và bà Lê Hồi G
một căn phịng số 101 chung cư mini tại số
04 ngách 92/40 đường NKT, quận CG, thành
phô' HN. Tổng diện tích căn hộ là 26 m2 và
giá bán là 540 triệu đồng. Hai bên chỉ thực
hiện làm họp đồng viết tay với nhau. Ngày
23/10/2021, vợ chồng ông Lê Đức Q và bà Lê
Hoài G muốn chuyển nhượng lại cho bà
Iran Thu H căn hộ nêu trên. Bà H muốn hai
bên mua bán phải thơng qua thủ tục cơng
chứng vì căn hộ trên được coi là bất động
ỉản. Tuy nhiên, các phịng cơng chứng đều
thơng thực hiện cơng chứng cho giao dịch
này, bải lẽ, ông Lê Đức Q và bà Lê Hồi G
khơng được cấp giấy chứng nhận quyển sở
tiửu nhà đối vói căn hộ số 101 nêu trên và tài
ỉản này là tài sản được gán liền trong khối tài
ỉản chung của bốn đồng chủ sở hữu quyền
sử dụng 159,3 m2 đất ở như đã nêu trên. Như
rây, mặc dù vợ chồng ơng Lê Đức Q và bà Lê
Hồi G đã bỏ tiền ra mua căn hộ số 101
ahưng về mặt pháp lý lại không được ghi
nhận quyền sở hữu căn hộ trên cho ông Q và
nà G, dẫn đến rất khó khăn cho ơng bà khi

ihuyển nhượng lại cho người khác (bà H)”5.
Từ tình huống thực tiễn nêu trên để giải
quyết được thì cần có sự đồng bộ các quy
íịnh pháp luật từ Luật Đất đai, Luật Xây
dựng và các văn bản liên quan. Tuy nhiên,
lếu xem xét dưới góc độ coi những căn hộ
:rên là những bề mặt khơng gian được định
lình, mỗi chủ sở hữu đối với căn hộ trong
uột khu chung cư được coi là chủ sở hữu có
5BM nằm trên diện tích đất chung của khu
±ung cư và được cấp QBM đối với cản hộ đó
thì việc chuyển nhượng sẽ dể dàng và thuận
iện hơn rất nhiều. Điều này sẽ rất thuận lợi
:ho các giao dịch:
Thứ nhất, giao dịch giữa người có QSDĐ,
xây các căn hộ trên đất của mình, rồi sau đó
ihượng bán các căn hộ đó cho những người
Tạp chí Quản lý nhà nước-Sơ 312 (1/2022)

khác: dưới góc độ của QBM thì giao dịch này
như một giao dịch cấp QBM từ người có
QSDĐ sang cho người mua căn hộ trên đất.
Và như vậy, khi nào QSDĐ cịn tồn tại thì
người mua căn hộ vẫn cịn có QBM, vẫn bảo
đảm quyền sử dụng đối với căn hộ của mình.
Thứ hai, giao dịch giữa người có quyền sử
dụng căn hộ trong khu chung cư với người
khác (người thứ ba): trong giao dịch này
người có QBM sẽ có quyền tự do chuyển
nhượng quyền sử dụng căn hộ đó cho người

thứ ba mà khơng bị chi phối bởi người có
QSDĐ. Dưới góc độ này, chúng ta có thể
nhìn nhận vấn đề pháp lý xa hơn đó là việc
sử dụng QBM này để thay thế cho việc cấp sổ
hồng đối với tài sản là căn hộ chung cư như
hiện tại đang thi hành.
Thực tiễn gần đây, rất nhiều cơng trình
xây dựng lớn được thực hiện trên bề mặt đất
như đường sát trên cao Cát Linh - Hà Đơng,
xây dựng các cơng trình giao thơng ngầm ở
các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh... hoặc các dự án về condotel (một sản
phẩm mới của thị trường bất động sản) đều
đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết về
mặt pháp lý. Trường họp khi Nhà nước xây
dựng các cơng trình ngầm dưới lịng đất như
đường tầu điện ngầm, đường đi bộ ngầm nếu
đi qua đất của những cá nhân, hộ gia đình,
tổ chức đã được cấp QSDĐ thì sẽ phải giải
quyết như thế nào, có phát sinh QBM khơng?
Nếu có thì người có QSDĐ đó được những
quyền lợi gì, trách nhiệm gì và Nhà nước
phải có trách nhiệm, nghĩa vụ gì? Giới hạn
QBM của chủ thể có QSDĐ đến đâu xét theo
chiều thẳng đứng từ trên xuống dưới?
Trường họp Nhà nước xây dựng các cơng
trình trên cao như cầu, đường dây tải điện,
đường tầu điện trên cao... nếu đi qua đất mà
Nhà nước đã giao QSDĐ cho các chủ thể
khác thì có ảnh hưởng gì đến QBM của các

chủ thế đó khơng? Có phải bồi thường các
chi phí cho các chủ thể đó hay khơng?...

85


Nghiên cứu - Trao đổi

Một vấn đề đặt ra là nếu chúng ta chỉ tiếp
cận QSDĐ trong pháp luật đất đai như hiện
tại, nghĩa là, chúng ta chỉ quan tâm đến bề
mặt đất và chỉ nhìn nhận chế độ sử dụng đất
ở góc độ “đon nhiệm” thì dường như chưa
thể khai thác hết được tồn bộ giá trị, lọi ích
kinh tế từ đất được giao. Điều này được hiểu
là ví dụ như đất nơng nghiệp được giao mục
đích đất nơng nghiệp thì người được giao
khơng thể được tiếp cận vấn đề xây dựng nhà
trên đó để sử dụng vào mục đích khác. Khi
tiếp cận QSDĐ dưới góc độ này thì rất khó
cho việc thực hiện triển khai được QBM vào
trong thực tiễn cuộc sống. Khi tiếp cận đa
chiều hon, Nhà nước có thể cho phép chủ
thể QSDĐ xây nhà trên đất, kể cả đất mặt
nước để vừa sử dụng đất vừa sử dụng được
mặt nước ở dưới để canh tác, chăn ni...
Những vướng mác, bất cập liên quan đến
loại hình condotel cũng đặt ra những vấn đề
liên quan đến QBM.
Trong thực tiễn đòi sống pháp luật hiện

nay cho thấy một số vấn đề bất cập khác liên
quan đến QBM, như: pháp luật hiện hành
cịn thiếu tính hệ thống trong quy định về
QBM, thể hiện điển hình như pháp luật chưa
bao quát đầy đủ các tầng quan hệ về QBM
trên cùng một thửa đất. Sự thiếu tính hệ
thống nêu trên làm cho quy định về QBM
không được tiếp cận đầy đủ các tầng quan hệ
- cát lóp các chủ thể có lợi ích trên cùng một
thửa đất, trong đó tầng quan hệ giữa chủ thể
có QSDĐ với đất đai thuộc sở hữu toàn dân
là cơ bản và quan trọng nhất. Dẫn đến, cơ
chế pháp lý xác lập, thực hiện QBM trên thửa
đất thuộc QSDĐ của chủ thể khác còn chưa
đầy đủ, thống nhất6.
Bên cạnh thực tiễn về pháp luật, yêu cầu
đòi hỏi từ việc phát triển kinh tế - xã hội liên
quan đến khai thác đất đai cũng đặt ra
những vấn đề thách thức. Dưói góc độ kinh
tế - xã hội, chúng ta cần phải gia tăng năng
suất, gia tăng giá trị trên cùng một thửa đất,

Sỗ

khai thác được tất cả các giá trị của thửa đất
theo từng lát cắt theo không gian. Đặc biệt,
trong bối cảnh dân số thế giới cũng như dân
số Việt Nam ngày càng tăng, người nước
ngoài đến làm việc và công tác ở nước ta
ngày càng nhiều hơn, nhu cầu xã hội về nhà

ở tăng cao, nhà chung cư và cao tầng ngày
càng nhiều, các công trình ngầm trong lịng
đất cũng ngày càng nhiều hơn, địi hỏi này
đặt ra sự cần thiết phải có những thay đổi về
chính sách sử dụng đất đai cũng như khai
thác đất đai ở nhiều chiều cạnh hơn nữa.
Chỉ nhìn nhận đơn giản về vấn đề pháp
lý liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở cho người nước ngồi
hiện nay cũng có những vướng mác nhất
định. Sự không thống nhất giữa Luật Nhà ở
năm 2014 và Luật Đất đai năm 2013 trong
quy định về QSDĐ của cá nhân nước ngoài
tại Việt Nam gây ảnh hưởng đến việc cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà cho người
nước ngoài. Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 đã
bỏ quy định cá nhân nước ngoài là người sử
dụng đất tại Việt Nam, tức là khơng có năng
lực pháp luật sử dụng đất. Trong khi đó, Luật
Nhà ở năm 2014 lại cho phép cá nhân nước
ngoài được mua và sở hữu nhà ở. Nghị định
so 99/2015/NĐ-CP ngày 20/5/2015 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở
không quy định về QSDĐ của cá nhân nước
ngoài trong trường họp mua và sở hữu nhà
ở. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2014, việc mua bán
nhà phải gán vói QSDĐ. Tương tự, theo quy
định của Nghị định số43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Đất đai, tỷ lệ
phần QSDĐ của người mua căn hộ chung cư
được tính bàng tỷ lệ diện tích căn hộ chia cho
tổng diện tích sàn của các căn hộ trong nhà
chung cư.
Từ những căn cứ trên, người nước ngồi
khi mua nhà sẽ có QSDĐ dù là nhà ở riêng lẻ
Tạp chí Quản lý nhà nước - Sơ' 312 (1/2022)


(Xjutui f)Uiảni 'Wan - 2022
hay căn hộ chung cư7. Điều này lại chưa phù
họp vói chính sách của Nhà nước ta đối vói
việc người nước ngồi có quyền được quyền
sở hữu nhà ở chung cư, tài sản trên đất và
hạn chế việc cấp QSDĐ cho người nước
ngồi. Từ đó, dẫn đến bất cập khác là người
nước ngồi gặp khó khăn trong việc được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở,
gây ra khó khăn trong việc chuyển nhượng,
tặng cho, chuyển giao lại cho người nước
ngồi khác khi có nhu cầu và trong điều kiện
được chuyển giao theo luật định.
3. Một số khuyến nghị về việc xây dựng
quyền bề mặt ttong pháp luật đất đai

Từ phần phân tích như trên để thấy được
việc cần thiết nghiên cứu QBM trong Luật
Đất đai để thể chế hóa sâu hon nữa quyền
này, nhàm tạo điều kiện cho quyền này được

thực thi trong thực tiễn để có thể giải quyết
các vướng mác, bất cập về mặt quy định
pháp luật và cơ chế thực thi QBM. Do vậy,
tác giả nghiên cứu đưa ra một số khuyến
nghị như sau:
Một là, khi xây dựng chế định QBM trong
Luật Đất đai cần nhìn nhận rõ ràng mối quan
hệ mật thiết giữa QBM với QSDĐ. Cần phải
nhìn nhận các quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 về QBM là nền tảng nhưng phải
được thể chế hóa rõ hơn, cụ thể hon trong
Luật Đất đai và các văn bản hướng dần.
Hai là, cần ghi nhận QBM là một quyền
tồn tại, song hành vói QSDĐ của người được
cấp QSDĐ. Người được cấp QSDĐ về cơ bản
sẽ là người có QBM. Tuy nhiên, giói hạn của
QBM này từ đâu đến đâu, theo chiều cao là
bao nhiêu, theo chiều sâu là bao nhiêu tính
từ bề mặt đất thì cần phải được điều chỉnh
trong Luật Đất đai dựa theo từng loại đất
khác nhau và cần được điều chỉnh hỏi các
luật chuyên ngành khác, như: Luật Khoáng
sản, Luật Xây dựng,...
Việc quy định rõ về QBM này vừa bảo
đảm QBM cho chủ thể có quyền, đồng thời,
Tạp chí Quản lý nhà nước-Sơ 312 (1/2022)

giúp Nhà nước quản lý khoảng không gian và
cũng như sử dụng tốt các bề mặt để phục vụ
lợi ích cơng cộng.

Ba là, về mặt pháp lý, cần thể chế hóa để
phân tách được QBM vói QSDĐ và QBM
phải được đăng ký khi mà các bên thực hiện
việc cấp QBM cho nhau. Kể từ thời điểm
đăng ký QBM, các bên có thể khai thác, sử
dụng bể mặt, có thể chuyển nhượng, trao
đổi, mua bán quyền này trong giói hạn phạm
vi quyền và trong thời hạn cấp quyền vói
điều kiện khơng trái vói quy định chung của
pháp luật.
Bốn là, cần có quy định về điều kiện và
hình thức thực hiện các giao dịch liên quan
đến QBM. Vói sự nhìn nhận của quyền dưới
góc độ “cắt lóp” và phân tách khoảng khơng
thì sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi cho
việc giao dịch, chuyển giao các quyền này.
Dưới tâm nhìn của tương lai, chúng ta cịn
phải nhìn thấy định hướng xây dựng thị
trường trao đổi đối với QBM.
Năm là, cần xây dựng trong Luật Đất đai
các quy định nhầm phân định quyền và
nghĩa vụ và trách nhiệm liên đới vói nhau
giữa các chủ thể khác nhau được cấp QBM
trên cùng một thửa đất. Chẳng hạn, cùng một
bề mặt đất, chủ thể có QSDĐ có thể cấp bề
mặt phía trên cho một người nhàm xây dựng
nhà để kinh doanh ăn uống, có thể cấp quyền
cho người khác sử dụng diện tích đất đó để
đào ao và nuôi cá. Mối liên hệ chung là các
chủ thể có QBM phải khai thác QBM được

cấp như thế nào để không làm ảnh hưởng lần
nhau, không gây hại cho người có QSDĐ.
Sáu là, cần phải thể chế hóa việc chấm
dứt QBM được hình thành từ các loại đất
khác nhau và chú trọng theo hướng bảo vệ
quyền của người có QSDĐ. Cần căn cứ vào
nguyên tắc bề mặt đất thuộc về chủ sở hữu
đất (trong ngôn ngữ la tinh là “Superficies
solo cedit” hay là “the surface yields to the
ground”)8 để xây dựng các thiết chế liên


Nghiên cứu - Trao đổi

bàng văn hóa khai [Tilling. hoa văn hóa nai nai rộ nử.
Phố văn minh xây đựng, nếp văn minh chốn chốn íám hơng.
Lâm Bằng (Thanh Hóa)

quan đến chấm dứt QBM nhàm bảo đảm
quyền và lợi ích họp pháp của ngi có
QSDĐ cũng nhu chủ thể có QBM.
Bảy là, cần thể chế hóa quy định về cơng
tác quản lý đất đai, quy hoạch đất đai dựa
trên ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo cơ sở
dữ liệu đa chiều (3D) nhàm phân tách QBM,
xác định vị chí chủ thể đuợc cấp quyền, luu
giữ các thông tin thay đổi đối vói chủ thể
QBM, bảo đảm thuận tiện cho việc quản lý,
tạo sự thống nhất quản lý về đất đai trong
việc thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất theo phân cấp của Nhà nuớc.
Nhu vậy, nếu triển khai đuợc những quy
định cụ thể về QBM trong Luật Đất đai sẽ là
buớc tiến lớn trong việc khai thác, sử dụng
đất, phát triển tốt hơn lợi ích kinh tế của đất
đai, đổng thời, tạo ra cơ sở pháp lý vũng
chác hơn nữa cho các chủ thể tham gia khai
thác QBMD

khăn và hướng tháo gỡ để thực hiện chế định
quyền bê mặt ở Việt Nam hiện nay. Tham luận
Hội thảo “Khuyến nghị chính sách pháp luật đất
đai để thực hiện quyển bề mặt ở Việt Nam” của
Viện Chiến lược, Chính sách tài ngun mơi
trường kết họp vói HSF tổ chức tại Hà Nội, ngày
16/11/2021.
7. Chế định về sở hữu nhà ở của ngưịi nước
ngồi tại Việt Nam. , ngày
01/01/2019.
8. Lê Đăng Khoa. Hệ thống các vật quyền
trong pháp luật dân sự Việt Nam. Luận án tiến
sỹ, Đại học Luật Hà Nội, 2018, tr. 104.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyền Ngọc Đào. Luật La Mã. NXB Tổng
họp Đồng Nai, 2000, tr. 32.
2. Nguyễn Ngọc Điện. Sự cần thiết của việc
xây dựng chế định vật quyền, trái quyên trong
luật dân sự. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23

(184) tháng 12/2010.
3.
Hiến pháp năm 2013.
4.
Luật Đất đai năm 2013.
5.
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
Chú thích:
6.
Luật Nhà ởnăm 2014.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình
Luật Đất đai. H. NXB Tư pháp, 2005, tr. 92.
7. Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung
năm 2020).
2, 3. Nguyễn Minh Oanh. Vật quyền trong
pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại. H. NXB
8. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
Công an nhân dân, 2018, tr. 299,301.
15/5/2014 của Chính phủ quy định chỉ tiết thi
4. Mua chung cưmini, “đỏ mắt’’ chờ sổ hồng. hành một số điêu của Luật Đất đai.
, ngày 27/9/2021.
9. Phùng Trung Tập - Kiều Thị Thùy Linh.
5. Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng Tài sản và Vật quyền. H. NXB Công an nhân
đất và tài sản gán liền vói đất của Văn phịng
dân, 2021.
Công chứng Bác Từ Liêm, số công chứng 89L
10. Nguyễn Minh Oanh. Vật quyền trong
2014/CNQSDĐ ngày 15/8/2014.
pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại. H. NXB
6.

Nguyễn Hồng Hải. Những thách thức, khóCơng an nhân dân, 2018, tr. 299.

Tạp chí Quản lý nhà nước-Sô'312 (1/2022)



×