Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế trong cptpp, evfta và yêu cầu đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.83 KB, 6 trang )

BÀN VÉ Dự ÁN LUẬT

TIÊU CHUẨN BẢO Hộ SÁNG CHẾ TRONG CPTPP, EVFTA
VÀ YÊU CẦU DỐI VỚI VIỆT NAM
Phan Quốc Nguyên

TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin bài viết:

Tóm tắt:

Từ khóa: Sáng chế, tiêu chuẩn
bảo hộ, CPTPP, EVFTA, Việt
Nam.

Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định Đối tác tồn diện và tiến bộ xun
Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU
(EVFTA). Đây là hai hiệp định tự do thếhệ mới điều chỉnh nhiều vấn đề quan
trọng về thương mại, đầu tư, mơi trường, tài chính,... và đặc biệt là vấn đề sở
hữu trí tuệ. Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế quy định trong hai Hiệp định này khá
là cao. Bên cạnh những thuận lợi và cơ hội, những tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế
quy định trong hai Hiệp định lớn này đặt ra một số yêu cầu đối với Việt Nam.

Lịch sử bài viết:

Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài

05/11/2021
22/12/2021


23/12/2021

Article Infomation:

Abstract:

Keywords: Invention; standards
for patent protection; CPTPP;
EVFTA; Vietnam.

In recent years, Vietnam has entered both the Comprehensive and Progressive
Agreement for Trans-Paciftc Partnership (CPTPP) and the EU-Vietnam Free
Trade Agreement (EVFTA). Both new generation free trade agreements
govern important matters such as trade, investment, environment, finance,
etc. and also especially intellectual property. The standards of patent
protection in these two Agreements are quite high. Besides the opportunities,
these standards of patent protection which are regulated in these agreements
put a number of challenges for Vietnam.

Article History.
Received
Edited
Approved

: 05 Nov. 2021
: 22 Dec. 2021
: 23 Dec. 2021

1. Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế theo quy định
của pháp luật Việt Nam

1.1 Khái niệm sáng chế
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng
sản phẩm hoặc quy trình nhàm giải quyết một
vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy
luật tự nhiên1. 1Sáng chế là sản phẩm, quy trình
cơng nghệ do con người tạo ra chứ khơng phải
là những gì đã tồn tại trong thiên nhiên được
con người phát hiện ra. Thuộc tính cơ bản của
sáng chế là đặc tính “Áỹ thuật”', bởi vì, sáng chế
là giải pháp kỳ thuật, biện pháp kỹ thuật để giải
quyết một vấn đề. Sáng chế có thể được thể
hiện dưới năm (05) dạng sau đây2:

a) Cơ cấu là tập hợp các chi tiết có chức

năng giống nhau hoặc khác nhau, liên kết với
nhau để thực hiện một chức năng nhất định. Ví
dụ: cơng cụ, máy móc, thiết bị, chi tiết máy,
cụm chi tiết máy, các sản phẩm khác,...
b) Chất là tập hợp các phần tử có quan hệ
tương hỗ với nhau, được đặc trưng bởi sự hiện
diện, tỷ lệ và trạng thái của các phần tử tạo
thành và có chức năng nhất định. Chất có thể là
hợp chất hóa học, hồn hợp chất. Ví dụ: vật liệu,
chất liệu, thực phẩm, dược phẩm.
c) Phương pháp là quy trình thực hiện các
công đoạn hoặc hàng loạt các công đoạn xảy
ra cùng một lúc hay liên tiếp theo thời gian,
trong điều kiện kỹ thuật xác định nhờ sử dụng
phương tiện xác định. Ví dụ: phương pháp


1 Điều khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ.
2 Theo tài liệu Hướng dẫn Đăng ký sáng chế/giài pháp hữu ích, Cục Sở hữu trí tuệ, 2004, tr. 1.
-------------------------------- ỵ

NGHIÊN cịru

Số 04 (452) - T2/2022\_IẬP PHÁP

25


BÀN VÊ Dự ÁN LUẬT
hoặc quy trình sản xuất, xử lý, khai thác, đo
đạc, thăm dò,...
d) Vật liệu sinh học là vật liệu có chứa các
thơng tin di truyền, có khả năng tự tái tạo hoặc
được tái tạo trong hệ thống sinh học. Ví dụ: tế
bào, gen, cây chuyển gen.
e) Sử dụng một cơ cấu (hoặc một chất, một
phương pháp, một vật liệu sinh học) đã biết
theo chức năng mới là sử dụng chúng với chức
năng khác với chức năng đã biết. Ví dụ: việc
sử dụng phomat làm thuốc chừa bệnh đau răng.
Sáng chế là thành quả lao động sáng tạo trí
tuệ của con người, được Nhà nước bảo hộ dưới
hình thức thừa nhận và bảo vệ quyền của người
đã tạo ra nó.
1.2. Điều kiện chung đoi với sáng che
được bảo hộ

Theo quy định của Điều 58 Luật Sở hữu trí
tuệ (SHTT) năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2009, 2019 (Luật SHTT), sáng chế được
bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền
sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng cơng nghiệp.
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp
Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu khơng
phải là hiểu biết thơng thường và đáp ứng các
điều kiện sau đây:

a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng cơng nghiệp.
Giải pháp hữu ích khơng phải là một khái
niệm mới có riêng ở Việt Nam mà một số quốc
gia khác cũng có quy định về vấn đề này. Một số
giải pháp kỹ thuật có thể được bảo hộ dưới dạng
mẫu hữu ích hay dưới dạng sáng chế nhỏ (petty
patent). Một trong những điểm quan trọng để
phân biệt sáng chế và giải pháp hữu ích chính

là tiêu chuẩn về trinh độ sáng tạo. Để đánh giá
trình độ sáng tạo của một giải pháp kỹ thuật
dưới dạng sáng chế, mỗi quốc gia sẽ có những
quy chế thẩm định, quy định chuyên ngành về
việc này. Horn nữa, việc đánh giá này cũng phụ
thuộc một phần vào các thẩm định viên.
1.3. Tính mới của sáng chế


Theo Điều 60 Luật SHTT, sáng chế được
coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ cơng khai
dưới hình thức sử dụng, mơ tả bàng văn bản
hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước
hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký
sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường
hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền
ưu tiên. Tính mới của sáng chế cần được hiểu
là mới tuyệt đối, mới ở cấp độ thế giới chứ
không chỉ mới trong từng quốc gia.

Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ cơng
khai nếu chỉ có một so người có hạn được biết
và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó. Sáng
chế cũng khơng bị coi là mất tính mới nếu được
cơng bố trong các trường hợp sau đây với điều
kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời
hạn sáu (06) tháng kể từ ngày công bố:
a) Sáng chế bị người khác công bố nhưng
không được phép của người có quyền đăng ký
quy định tại Điều 86 về Quyền đăng ký sảng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí của
Luật SHTT3;
b) Sáng chế được người có quyền đăng ký
quy định tại Điều 86 của Luật SHTT công bố
dưới dạng báo cáo khoa học;

c) Sáng chế được người có quyền đăng ký
quy định tại Điều 86 của Luật SHTT trưng bày

tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc
tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được
thừa nhận là chính thức.

3 Theo Điều 86 Luật SHTT liên quan đến Quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố tri: 1)
Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết ke bố trí: a) Tác giả tạo ra
sáng chê, kiêu dáng công nghiệp, thiết kế bô trí bằng cơng sức và chi phí của mình; b) Tổ chức, cá nhân đầu
tư kinh phí, phưorng tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có
thoả thuận khác và thỏa thuận đó khơng ưái với quy định tại khoản 2 Điêu này. 2) Chính phủ quy định quyền
đăng ký đối với sáng ché, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra do sử dụng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, kinh phí từ ngân sách Nhà nước.
ọc

NGHIÊN CỨU

ỵ---------------------------------

LẬP PHÁPSố 04 (452) - T2/2022


BÀN VỀ Dự ÁN LUẬT
1.4. Trình độ sáng tạo của sáng chế

Một sáng chế nếu chỉ có tính mới là chưa đủ
vì nó chỉ đáp ứng u cầu về mặt số lượng mà
chưa đáp ứng yêu cầu về mặt chất lượng, chưa
làm nâng tầm trình độ kỳ thuật của sáng chế4.
Do vậy, sáng chế còn cần đáp ứng yêu cầu về
trình độ sáng tạo.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, sáng

chế được coi là có trinh độ sáng tạo nếu căn
cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ
cơng khai dưới hình thức sử dụng, mơ tả bằng
văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở
trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp
đcm hoặc trước ngày ưu tiên của đon đăng ký
sáng chế trong trường hợp đon đăng ký sáng
chế được hưởng quyền ưu tiên. Sáng chế đó
là một bước tiến sáng tạo, khơng thể được tạo
ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết
trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tưong ứng5. Do
đó, một sáng chế được coi là có trình độ sáng
nếu nó là kết quả cùa sự nỗ lực trí tuệ và so
sánh với trình độ kỳ thuật chung của thế giới
tại ngày ưu tiên của đơn đăng ký, sáng chế đó
sẽ khơng nảy sinh một cách hiển nhiên đối với
người có trinh độ trung bình trong lĩnh vực kỹ
thuật tương ứng6. Sáng tạo có nghĩa là việc tạo
ra một cái mới và sáng tạo khác với phát minh7.
Nhìn qua quy định về trình độ sáng tạo,
có thể thấy rằng, để xác định được tiêu chuẩn
không phải là dễ. Nhiều người sẽ lầm tưởng
giữa tính mới và trình độ sáng tạo. Thực chất,
đây là hai khái niệm có sự khác biệt. Một giải
pháp kỹ thuật có thể đáp ứng tiêu chuẩn về tính
mới nhưng chưa chắc đã đáp ứng điều kiện về
trình độ sáng tạo hoặc ngược lại. Việc đáp ứng
cả hai tiêu chuẩn, tính mới và trinh độ sáng tạo,

của một giải pháp kỹ thuật cần được xác định

rõ và điều này thường không hề đơn giản.

1.5. Khả năng áp dụng công nghiệp của
sáng chế
Theo Điều 62 Luật SHTT, sáng chế được
coi là có khả năng áp dụng cơng nghiệp nếu có
thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng
loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy
trình là nội dung của sáng chế và thu được kết
quả ổn định.
1.6. Đối tượng không được bảo hộ với
danh nghĩa sáng che
Theo quy định của Điều 59 Luật SHTT, các
đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh
nghĩa sáng chế:
a) Phát minh, lý thuyết khoa học, phương
pháp toán học;
b) Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương
pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn
luyện vật ni, thực hiện trị chơi, kinh doanh,
chương trình máy tính',
c)
Cách thức thể hiện thơng tin;
d)
Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ;

e)

Giống thực vật, giống động vật;


f) Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ
yếu mang bản chất sinh học mà khơng phải là
quy trình vi sinh;
g) Phương pháp phịng ngừa, chấn đốn và
chữa bệnh cho người và động vật.
Bên cạnh đó, Luật SHTT khơng bảo hộ các
đối tượng SHTT trái với đạo đức xã hội, trật
tự công cộng, có hại cho quốc phịng, an ninh.
Quy định về các đối tượng không được bảo
hộ dưới danh nghĩa sáng chế có thể khác nhau
trong từng quốc gia cụ thể.

4 Xem Japan Patent Office, Bảo hộ sáng chế, cẩm nang dành cho doanh nhân {Patent protection, Handbook
for business persons), Asia-Pacific Industrial Property Center, Japan Institute of Invention and Innovation và
Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2002, tr. 19 - 20.
5 Theo Điều 61 Luật SHTT.
6 Japan Patent Office, Bảo hộ sáng chế, cẩm nang dành cho doanh nhân {Patent protection, Handbookfor
business persons), sdd, tr. 19.
7 Japan Patent Office, Sách giáo khoa chuẩn về quyền sở hữu công nghiệp - Yêu cầu cap Bang độc quyên
sáng chế (Patent) tại Nhật Bàn, Japan Patent Office và Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2001,
tr.40.
-------------------------------- ỵ

NGHIÊN Cứu

Số 04 (452) - T2/2022\_LẠP PHÀP

n-Ị





BÀN VẾ Dự ÁN LUẬT
Thời hạn bảo hộ sáng chế được quy định tại
Điều 93 Luật SHTT. Hiệu lực của văn bằng bảo
hộ có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết
hai mươi (20) năm kể từ ngay nộp đơn.

chế CĨ tính hữu ích. Thực tế, tính khơng hiển
nhiên được hiểu như trình độ sáng tạo.

Khoản 1 Điều 18.37 Hiệp định về đối tượng
có thể được cấp bằng độc quyền sáng chế quy
định”: “...tùy thuộc vào khoản 3 và khoản 4
của Điều này, mỗi Bên phải quy định bằng độc
quyền sáng chế có thế được cấp cho bất kỳ một
sáng chế nào, dù là sản phẩm hay là quy trình,
thuộc mọi lĩnh vực cơng nghệ, với điều kiện
sáng chế đó mới, có trình độ sáng tạo và có khả
năng áp dụng cơng nghiệp'”.
Có thể thấy rằng, quy định của Luật SHTT
về tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế hiện nay đã đáp
ứng đầy đủ và theo đúng chuẩn mực do CPTPP
đặt ra. Cụ thể, cả Hiệp định CPTPP và Luật
SHTT đều đưa ra hai dạng sáng chế chuẩn khi
nộp đơn là sáng chế dạng quy trình hoặc dạng
sản phẩm. Đây là quy định mang tính chuẩn
mực chung nhưng lại mang tính thực tiền giúp
cho việc thẩm định hình thức bản mô tả sáng
chế được thống nhất; cả Hiệp định và Luật

SHTT đều đặt ra ba yêu cầu coi như điều kiện
cần và đủ: đó là tính mới, trình độ sáng tạo và
khả năng áp dụng công nghiệp.

Hơn nữa, khoản 2 Điều 18.37 quy định:
“Tùy thuộc vào khoản 3 và khoản 4 và phù họp
với khoản 1, các Bên khẳng định rằng bằng
độc quyền sáng chế có thế được cấp cho các
sáng chế có u cầu bảo hộ cho ít nhất một
trong các đối tượng sau: các công dụng mới
của một sàn phẩm đã biết, các phương pháp sử
dụng mới của một sản phẩm đã biết, hoặc các
quy trình sử dụng mới của một sản phẩm đã
biết. Một Bên có thế giới hạn các quy trình mới
này ở những quy trình khơng u cầu bảo hộ
đơn thuần việc sử dụng sản phẩm”. Quy định
tại điều khoản này được biết đến trên thế giới
là dạng bảo hộ “second method” hoặc “second
use”. Với cách hiểu này, một sáng chế có thể
được tiếp tục bào hộ nếu từ cùng một họp chất
đã biết nhung lại tìm được một cơng dụng hoặc
chức năng khác mới để xin bảo hộ. Thực chất
trong thời gian qua chúng ta cũng đã thực hiện
việc bảo hộ cho dạng này trên thực tế nên việc
áp dụng điều khoản, quy định mới này đối với
chúng ta không phải là vấn đề lớn. Tuy nhiên,
vớiheo quy định này, chúng ta cần cân nhắc
việc áp dụng rộng rãi và mạnh mẽ hay khơng
vì việc áp dụng một mặt sẽ tạo điều kiện cho
việc cấp bằng sáng chế mới về công dụng cho

những chủ sở hữu sáng chế đã được bảo hộ,
bộc lộ trước đó, làm tăng thời hạn độc quyền
của sáng chế nhung mặt khác lại dẫn đến hạn
chế việc tiếp cận sáng chế của cơng chúng.

Bên cạnh đó, Chú thích thứ 30 của Hiệp định
còn mở rộng hơn khả năng bảo hộ sáng chế bằng
quy định: “Một Bên có thể coi thuật ngữ “có
trình độ sáng tạo ” và “có khả năng áp dụng công
nghiệp” là tương đương với thuật ngữ tương
ứng: “khơng hiến nhiên ” và “hữu ích ”. Trong
việc quyết định trình độ sáng tạo, hoặc khơng
hiển nhiên, mỗi Bên phải xem xét liệu sáng chế
được đề nghị bảo hộ có là hiển nhiên với chuyên
gia, hoặc người có hiểu biết thông thường trong
lĩnh vực tương ứng hay không, có tinh đến tình
trạng kỹ thuật đã biếr. Neu theo cách hiểu này,
ttong tương lai, chúng ta hồn tồn có thể mở
rộng thêm khả năng cấp bằng cho những sáng

Khoản 3 và khoản 4 Điều 18.37 quy định:
“Một Bên có thế loại trừ không cấp bằng độc
quyền sáng chế cho những sáng chế cần phải
bị cấm khai thác nham mục đích thương mại
trong phạm vi lãnh tho của mình để bảo vệ trật
tự công cộng hoặc đạo đức xã hội, kế cả để
bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ của con người,
động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây nguy
hại nghiêm trọng tới tự nhiên hoặc môi trường,
với điều kiện những ngoại lệ này được quy định

khơng chi vì lý do duy nhất là việc khai thác
các sáng chế này bị cấm bởi pháp luật cùa Bên
đó. Một Bên cũng có thê loại trừ khơng cấp
bằng độc quyền sảng chế cho:

2. Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế trong CPTPP
Điều 18 Hiệp định CPTPP quy định về
SHTT nói chung và sáng chế nói riêng. Tuy
nhiên, Hiệp định này khơng đưa ra định nghĩa
sáng chế.

AQ

NGHIÊN cứu

ỵ---------------------------------

LẬP PHÁP

Số 04 (452) - T2/2022


BÀN VỀ Dự ÁN LUẬT
(a) các phương pháp chấn đoán, các
phương pháp nội và phương pháp ngoại khoa
để chữa bệnh cho người hoặc động vật; (b)
động vật mà không phải là các chủng vi sinh,
các quy trình sản xuất thực vật và động vật chủ
yếu mang tính chất sinh học mà khơng phải là
các quy trình phi sinh học hoặc vi sinh; và


Một Bên cũng có thể loại trừ khơng cấp
bằng độc quyền sảng chế cho thực vật mà
không phải là các chủng vi sinh. Tuy nhiên,
phù hợp với khoản 1 và tùy thuộc vào khoản 3,
moi Bên khắng định rang bang độc quyển sáng
chế có thể được cấp ít nhất cho các sáng chế có
nguồn gốc từ thực vật”.
Trong việc xác định sáng chế có mới hoặc
có trình độ sáng tạo hay không, Điều 18.38 của
Hiệp định quy định rằng “mỗi Bên phải bỏ qua
ít nhất là các thơng tin đã được bộc lộ công
khai nếu việc bộc lộ công khai này
( a) do người nộp đơn sáng chế hoặc người
có được thơng tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ
người nộp đơn sáng chế; và

( b) xảy ra trong vòng 12 tháng trước ngày
nộp đơn trong lãnh thổ của Bên đó”.

Chú thích thứ 31 và thứ 32 giải thích rõ
hơn đồng thời đưa ra các khả năng khác nhau
“Không Bên nào phải bỏ qua thông tin trong
các đơn hoặc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ đã
được cơng bố cho công chúng tiếp cận hoặc
được cơ quan sáng chế cơng bố, trừ khi việc
cơng bố này do sai sót hoặc trừ khi đơn được
người thứ ba có được thơng tin trực tiếp hay
gián tiếp từ tác giả sáng chế nộp nhưng không
được sự đồng ý của tác giả sáng chế hoặc người

thừa kế của họ. Để rõ ràng hơn, một Bên có thể
hạn chế việc áp dụng Điều này cho việc bộc lộ
do, hoặc có được một cách trực tiếp hay gián
tiếp từ, tác giả sáng chế hoặc đồng tác giả sáng
chế. Để rõ ràng hơn, một Bên có thể quy định
ràng, với mục đích của Điều này, thơng tin có
được một cách trực tiếp hay gián tiếp từ người
nộp đơn sáng chế có thể là thơng tin được bộc
lộ cho công chúng dưới sự cho phép bởi, hoặc
xuất phát từ, người nộp đơn sáng chế”.

Có thể thấy rằng, kể từ ngày Hiệp định
CPTPP có hiệu lực, quy định tại khoản 3 Điều
60 Luật SHTT về các trường hợp sáng chế
khơng bị coi là mất tính mới được áp dụng
như sau:

- Sáng chế được bộc lộ công khai bởi người
có quyền đăng ký sáng chế hoặc người có được
thơng tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người có
quyền đăng ký sáng chế (bất kể cách có được
thơng tin này là có sự đồng ý hay khơng của
người có quyền đăng ký sáng chế); và

- Việc bộc lộ công khai trong trường hợp
nêu trên xảy ra trong thời hạn không quá 12
tháng trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế tại
Cục SHTT (khơng tính ngày ưu tiên).
- Thơng tin bộc lộ công khai trong trường
họp nêu trên không được lấy làm tài liệu đối

chứng để xác định tính mới hoặc trình độ sáng
tạo của sáng chế liên quan.
Liên quan đến thời hạn bảo hộ sáng chế,
Hiệp định mở ra thêm một khả năng thời hạn
sáng chế được cấp có thế được xem xét kéo dài
vì một số lý do cụ thể nào đó. Điều 18.46 trong
Hiệp định bắt buộc các Bên phải điều chỉnh
thời hạn bảo hộ sáng chế do sự chậm trễ của cơ
quan cấp bằng sáng chế như sau trong khoản 3:
“Nếu có sự chậm trễ bất họp lý trong việc cấp
bằng sáng chế của một Bên, Bên đó phải quy
định các biện pháp để, và theo đề nghị của chủ
sở hừu bàng sáng chế phải, điều chỉnh thời hạn
bằng sáng chế nhằm bù đắp cho những chậm
trễ như vậy” và khoản 4: “..., sự chậm trễ bất
hợp lý ít nhất phải bao gồm sự chậm trễ trong
việc cấp bằng sáng chế kéo dài hơn năm (05)
năm kể từ ngày nộp đơn trong lãnh thổ của Bên
đó, hoặc ba (03) năm sau khi có đề nghị thẩm
định đơn, tùy thời điểm nào muộn hơn. Một
Bên, trong việc xác định sự chậm trễ, có thể
loại trừ những khoảng thời gian khơng xảy ra
trong quy trình xử lý hoặc thẩm định đơn sáng
chế của cơ quan cấp bằng sáng chế; khoảng
thời gian không trực tiếp do cơ quan cấp bằng
sáng chế; cũng như những khoảng thời gian do
người nộp đơn”. Chú thích thứ 38 giải thích
-------------------------------- X

NGHIÊN Cứu


SỐ 04 (452) - T2/2022

LẬP PHÁP

ỌQ


BÀN VỀ Dự ÁN LUẬT
tiếp: “Một Bên có thể coi “sự chậm trễ không
trực tiếp do cơ quan cấp bằng sáng chế” là sự
chậm trễ nằm ngoài chủ định hoặc phạm vi
kiểm soát của cơ quan cấp bằng sáng chế.”
Tiếp tục nhấn mạnh về việc điều chỉnh thời
hạn bảo hộ sáng chế đối với dược phẩm do bị
rút ngắn bất hợp lý, Điều 18.48, khoản 2 quy
định: “Đối với dược phẩm (hay dược chất theo
Chú thích thứ 45) là đối tượng của một sáng
chế, mỗi Bên phải có các quy định điều chinh
thời hạn bảo hộ sáng chế để bù đắp cho chủ sở
hữu sáng chế vì sự rút ngắn bất hợp lýthời hạn
bảo hộ hiệu quả của sáng chế do q trình nộp
đơn cấp phép lưu hành”. Tóm lại, vì sự chậm
trễ của cơ quan sáng chế hoặc sự rút ngắn bất
hợp lý bảo hộ sáng chế dược phẩm thì các quốc
gia thành viên cần phải đền bù. Điều này thực
sự là một thách thức đối với chúng ta khi sự
quá tải đang là gánh nặng phải giải quyết.

3. Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế trong EVFTA


Giống với CPTPP, EVFTA cũng không định
nghĩa sáng chế. Tuy nhiên, khác với CPTPP,
Hiệp định EVFTA không quy định về điều kiện
cấp bàng sáng chế cụ thể. Do vậy, có thể thấy
rằng, quy định của EVFTA khơng u cầu có
sự khác biệt nào trong điều kiện cấp bằng sáng
chế so với quy định hiện hành của Việt Nam.
Liên quan đến việc quy định điều chỉnh thời
hạn bảo hộ sáng chế, Hiệp định EVFTA cũng
tạo thêm sức ép cho Việt Nam trong việc đưa ra
quy định bồi thường, thậm chí có phần cịn cụ
thể hơn CPTPP, về thời gian làm chậm trễ cấp
bằng sáng chế, nhất là sáng chế dược phẩm,
vi những lý do hành chính. Cụ thể, Điều 8.3,
khoản 1 và khoản 2 quy định: “...Các Bên quy
định một cơ chế thích họp và hiệu quả để bồi
thường cho chủ bằng sáng chế nhằm giảm thời
hạn bằng sáng chế có do sự chậm trễ bất hợp lý
trong việc cấp giấy phép tiếp thị đầu tiên trong
lãnh thổ tương ứng. Đền bù này có thể được
thực hiện dưới hình thức gia hạn thời gian của
các quyền được trao bởi việc bào vệ bằng sáng
chế, bằng với khoản thời gian mà thời gian đề
cập trong chú thích 15 bị vượt quá. Thời gian
QQ

NGHIÊN Cứu

ỵ---------------------------------


LẬP PHÁPJ Số 04 (452) - T2/2022

gia hạn tối đa không được vượt quá hai (02)
năm. Ngoài khoản 1 của Điều này, mồi Bên
có thể thực hiện gia hạn khơng q năm (05)
năm thịi hạn của các quyền có được nhờ bảo
vệ bằng sáng chế để bồi thường cho chủ bằng
sáng chế cho việc giảm thời hạn của bằng sáng
chế có hiệu quả như kết quả thủ tục cấp phép
tiếp thị. Thời gian gia hạn có hiệu lực từ cuối
thời hạn hợp pháp của bằng sáng chế với một
khoảng thời gian bằng thời gian trôi qua giữa
ngày nhận được đơn xin cấp bằng sáng chế đã
được nộp và ngày ủy quyền tiếp thị đầu tiên để
đưa sản phẩm vào thị trường các bên, được rút
ngắn một khoản thời gian là năm (05) năm”.

Hơn nữa, Chú thích thứ 16 giải thích thêm:
“Thời gian nãm (05) năm nói trên có thể được
kéo dài thêm sáu (06) tháng trong trường hợp
dược phẩm phục vụ cho việc nghiên cứu nhi
khoa đó đang được tiến hành và các kết quả
của những nghiên cứu này được thể hiện trong
thông tin sản phẩm”. Rõ ràng là việc điều chỉnh
luật để tăng thời hạn bảo hộ cho sáng chế bị trễ
vì lý do hành chính sẽ tạo nhiều áp lực hơn,
nhất là cho cơ quan quản lý quyền. Việc chậm
trễ trong việc thẩm định nội dung sáng chế
hiện nay do nhiều lý do nhưng phàn lớn là vì

chúng ta thiếu thẩm định viên trong điều kiện
số lượng sáng chế nộp đơn ngày càng lớn. Việc
bổ sung nhân lực thẩm định viên đã được đề
cập nhưng cơ chế, ngân sách cho việc bổ sung
nhân lực và hệ thống đào tạo liên tục thẩm định
viên là vấn đề cần phải quan tâm hơn nữa, ít
nhiều cũng tạo áp lực cho chúng ta.
Có thể thấy rằng, chúng ta cần phải đưa các
quy định mới, cụ thể cho việc điều chỉnh thời
hạn bảo hộ sáng chế, bù đắp vì các lý do hành
chính, liên quan đến sáng chế dược phẩm. Thứ
hai, chúng ta cần đưa các quy định nhằm cân
bằng lợi ích các bên trong việc bảo hộ sáng
chế. Do vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của chúng ta có thể đề xuất việc sửa đổi Điều
93 Luật SHTT để đưa vào quy định bù đắp thời
gian theo cách thức và điều kiện như đã cam
kết trong Hiệp định ■



×