Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo "Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.67 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
14 - Tạp chí luật học

Pháp nhân có thể là chủ thể
của tội phạm hay không?

TS. Phạm Hồng Hải *
1. Câu hỏi pháp nhân có thể là chủ thể
của tội phạm hay không từ trớc tới nay
vẫn đang còn là vấn đề tranh ci giữa các
nhà nghiên cứu khoa học pháp lí không
những ở nớc ta mà còn ở những nớc
khác trên thế giới trong đó có cả các quốc
gia mà ở đó pháp luật hình sự hiện hành
đ coi pháp nhân nh một trong những
chủ thể của tội phạm. ở nớc ta, từ trớc
tới nay, pháp luật hình sự luôn luôn
không coi pháp nhân là chủ thể của tội
phạm. Ngay trong khoa học hầu nh cũng
không ai đặt vấn đề có nên hay không
nên coi pháp nhân là chủ thể của tội
phạm. Trong mấy năm gần đây, vấn đề
pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm
hay không đợc bàn nhiều đến bởi một số
lí do sau đây: Thứ nhất, vừa qua Nhà
nớc đ tiến hành sửa đổi cơ bản Bộ luật
hình sự nên việc nghiên cứu, đánh giá lại
tất cả các chế định của luật hình sự trong
đó có chế định về chủ thể của tội phạm đ


đợc các nhà khoa học quan tâm và mặc
dù trong Bộ luật hình sự (BLHS) sửa đổi
vừa đợc Quốc hội thông qua đầu tháng
12/1999 pháp nhân vẫn cha đợc coi là
chủ thể của tội phạm; thứ hai, trong
những năm gần đây sự giao lu của nớc
ta với các nớc trong khu vực trên tất cả
các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực khoa
học pháp lí hình sự ngày càng đợc mở
rộng và điều này đặt ra cho những nhà
khoa học pháp lí vấn đề nên, cha nên
hoặc không nên học tập kinh nghiệm
trong lĩnh vực lập pháp của các quốc gia
khác; thứ ba, trong thời gian qua nhiều
trung tâm thông tin đ su tầm tài liệu,
đặc biệt đ biên dịch nhiều văn bản pháp
luật hình sự của nớc ngoài để cho Ban
soạn thảo BLHS, các cơ quan giúp việc
của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và nhân
dân tham khảo khi đóng góp ý kiến xây
dựng BLHS và điều này đ gây không ít
tranh luận trong giới khoa học cũng nh
các cán bộ làm công tác thực tiễn về chế
định chủ thể tội phạm. Giờ đây, pháp
nhân có thể đợc coi là chủ thể của tội
phạm không đ và luôn là câu hỏi nghiêm
túc trớc những ngời làm công tác
nghiên cứu khoa học pháp lí hình sự và
nó cũng cần có câu trả lời nghiêm túc và
khoa học.

2. Vi phạm pháp luật là hiện tợng x
hội mang tính giai cấp và tính lịch sử. Tội
phạm là một trong các loại vi phạm pháp
luật nên nó cũng có những tính chất nh
vậy. Việc quy định hành vi nào là tội
phạm, ai là chủ thể của tội phạm (ngời
thực hiện hành vi bị coi là tội phạm có thể
bị xử lí về hình sự) phụ thuộc vào ý chí
của giai cấp thống trị x hội (đây cũng là
một trong những biểu hiện tính giai cấp
của tội phạm). Tuy nhiên, trong mọi lĩnh
vực, ý chí của giai cấp thống trị không
phải là bất biến mà ngợc lại, nó cũng
thay đổi theo tiến trình phát triển của x
hội. Vào thời kì này, Nhà nớc coi những
* Viện nghiên cứu nhà nớc và pháp luật
TTKHXH & Nhân văn quốc gia


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 15

hành vi này là tội phạm, những ngời này
là chủ thể của tội phạm nhng vào thời kì
khác do những điều kiện lịch sử cụ thể
chi phối, Nhà nớc có thể thay đổi những
quy định của mình về tội phạm. Đây
chính là biểu hiện của tính lịch sử của tội
phạm.
Xuất phát từ tính giai cấp và tính lịch

sử của tội phạm nên việc quốc gia nào đó
có sự thay đổi chính sách hình sự của
mình trong đó có sự thay đổi về quan
niệm cũng nh các quy định về chủ thể
tội phạm cũng là điều dễ hiểu, cũng chính
vì thế không thể vội vàng nhận xét luật
hình sự của nớc này không khoa học khi
nó quy định hay không quy định pháp
nhân là chủ thể của tội phạm. Trong
trờng hợp này, điều cần đánh giá là vào
thời điểm nào đó khi luật hình sự quy
định hay không quy định pháp nhân là
chủ thể của tội phạm có phù hợp với
những điều kiện lịch sử cụ thể hay
không?
3. ở nớc ta, luật hình sự là một trong
những ngành luật ra đời sớm nhất. Nhìn
lại lịch sử của nớc Việt Nam từ thời kì
có pháp luật thành văn đến nay, pháp luật
hình sự vẫn đứng vị trí đầu tiên cả về thời
điểm xuất hiện cũng nh số lợng các
văn bản. ở mỗi thời kì khác nhau, do
những đặc điểm về địa lí, chính trị, x hội
nên pháp luật hình sự nớc ta ít nhiều bị
ảnh hởng bởi pháp luật hình sự của nớc
ngoài. Trong thời gian hơn nửa thế kỉ qua,
pháp luật hình sự của nớc ta đ chịu ảnh
hởng rất nhiều bởi pháp luật hình sự của
các nớc x hội chủ nghĩa, đặc biệt là của
Liên Xô (cũ). Và cũng nh ở các quốc gia

đó, pháp luật hình sự của nớc ta cha
bao giờ coi pháp nhân là chủ thể của tội
phạm. Bộ luật hình sự mới nhất của Liên
bang Nga đợc Đuma quốc gia thông qua
ngày 24/5/1996 cũng không coi pháp
nhân là chủ thể của tội phạm. Điều 19 Bộ
luật hình sự Liên bang Nga năm 1996
quy định: "Trách nhiệm hình sự chỉ thuộc
về thể nhân có đủ năng lực trách nhiệm
đạt tới độ tuổi do Bộ luật này quy định".
ở các nớc XHCN Đông Âu trớc đây
pháp luật hình sự cũng không quy định
pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Lập
luận cho điều này, các nhà khoa học pháp
lí hình sự đều căn cứ vào nguyên tắc cá
thể hóa trách nhiệm hình sự và tính mục
đích của hình phạt. Pháp nhân là tập thể
của những con ngời cụ thể và hành vi vi
phạm của pháp nhân đợc thực hiện bởi
hành vi của những con ngời cụ thể nên
pháp nhân không phải chịu trách nhiệm
hình sự mà chịu trách nhiệm hình sự
chính là những ngời (thể nhân) cụ thể đ
thực hiện các hành vi vi phạm. Một trong
những mục đích của hình phạt là giáo
dục, cải tạo và hình phạt sẽ không có tác
dụng nếu nó đợc áp dụng với pháp nhân
mà không đợc áp dụng với con ngời cụ
thể.
Nghiên cứu những tài liệu hiện có ở

Việt Nam, chúng tôi thấy rằng, trên thế
giới hiện đ có một số nớc mà ở đó pháp
luật hình sự quy định pháp nhân là chủ
thể của tội phạm. Điều 2.07 BLHS mẫu
của Mĩ quy định trừ các công ti và hiệp
hội đợc thành lập với t cách là cơ quan
của Nhà nớc hoặc do Nhà nớc thành
lập nhằm thực hiện các chơng trình của
Nhà nớc còn các công ti và hiệp hội
khác đều có thể trở thành chủ thể của tội
phạm. Pháp nhân bao gồm các công ti và
hiệp hội có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự khi không thực hiện những nghĩa
vụ, nhiệm vụ mà luật quy định pháp nhân


nghiên cứu - trao đổi
16 - Tạp chí luật học

phải thực hiện; ban lnh đạo hoặc một đại
diện của pháp nhân thiếu thận trọng trong
hành vi của mình nhân danh pháp nhân
dẫn tới phạm tội.
Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp 1994
tại Điều 121.2 có quy định trừ Nhà nớc,
các pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình
sự trong các trờng hợp quy định trong
luật về các tội phạm đợc thực hiện vì lợi
ích của họ bởi các cơ quan, đại diện của
họ. Các pháp nhân phải chịu trách nhiệm

hình sự về các tội phạm đợc thực hiện
khi đ có thoả thuận về sự ủy quyền công
vụ để thi hành các hoạt động của pháp
nhân. Luật hình sự của Cộng hòa Pháp
phân chia tội phạm thành ba loại: Trọng
tội, khinh tội và tội vi cảnh nên khi pháp
nhân phạm tội loại nào thì sẽ có hình phạt
tơng ứng, phù hợp với loại tội đó.
ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
trớc đây, pháp luật hình sự cũng không
quy định pháp nhân là chủ thể của tội
phạm. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự
mới nhất đợc thông qua tháng 3 năm
1997 đ có các quy định pháp nhân cũng
là chủ thể của tội phạm. Tiết 4 chơng III
BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với
tên gọi "Tội phạm có chủ thể là các cơ
quan, đơn vị và tổ chức" có hai điều luật
quy định về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân. Điều 30 quy định: "Công ti, xí
nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể thực
hiện hành vi nguy hiểm cho x hội thì
cũng bị coi là phạm tội và phải chịu trách
nhiệm hình sự"; Điều 31 quy định: "Công
ti, xí nghiệp, cơ quan tổ chức, đoàn thể
phạm tội sẽ bị phạt tiền; Ngời phụ trách
và những ngời có trách nhiệm trực tiếp
khác của đơn vị cũng phải chịu trách
nhiệm hình sự. Phần riêng của Bộ luật
này và những luật khác có những quy

định liên quan đều phải dựa trên quy
định này".
Qua thực tế thì thấy rằng, quan điểm
coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm đ
có từ lâu và hiện nay nó đ đợc chính
thức thừa nhận ở một số quốc gia trong
đó có cả những quốc gia từ trớc tới nay
không những không thừa nhận mà còn
thậm chí còn phê phán. Những quốc gia
có pháp luật hình sự coi pháp nhân là chủ
thể của tội phạm là những quốc gia có
nền kinh tế phát triển hoặc đang phát
triển. Cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với pháp nhân đợc giải thích rằng, ở
các quốc gia này những vụ phạm tội với
thủ đoạn lợi dụng danh nghĩa pháp nhân
không còn là cá biệt và đ trở thành tơng
đối phổ biến; mặc dù không phải là con
ngời cụ thể (thể nhân) nhng có thể coi
pháp nhân nh một "con ngời pháp lí"
cũng có năng lực tơng tự nh những thể
nhân; bản thân pháp nhân cũng có khả
năng chịu một số hình phạt nhất định của
Nhà nớc nh phạt tiền, giải thể, đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ lĩnh vực hoạt động nào
đó
Mặc dù là thực thể trừu tợng nhng
pháp nhân đợc con ngời lập ra và hoạt
động của nó (hành vi khách quan) chỉ có
thể thực hiện đợc thông qua những con

ngời cụ thể. Những con ngời đó hoặc là
chỉ huy, lnh đạo hoặc là đại diện của
pháp nhân. Khi những ngời này thực
hiện nghĩa vụ hoặc nhiệm vụ của pháp
nhân thì ý chí và hành vi của họ đợc coi
là ý chí và hành vi của pháp nhân. Trong
điều kiện hiện nay, các hoạt động của x
hội về cơ bản là các hoạt động mang tính
kinh tế do các cá nhân hoặc pháp nhân
thực hiện. Các vi phạm và tội phạm kinh
tế hoặc là do cá nhân hoặc do pháp nhân


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 17

thực hiện, vì vậy, nếu pháp nhân không
đợc coi là chủ thể của tội phạm tức là
mọi hành vi, việc làm của pháp nhân cho
dù có nguy hiểm cho x hội đến đâu cũng
không đợc coi là tội phạm và không bị
xử lí bằng các biện pháp nghiêm khắc
nhất là hình phạt thì Nhà nớc sẽ không
kiểm soát đợc các hành vi vi phạm pháp
luật của pháp nhân và đặc biệt là đ
không sử dụng biện pháp hữu hiệu là biện
pháp hình sự để chống lại các vi phạm và
phục hồi lại các quan hệ x hội đ bị xâm
hại. Cũng nh đối với thể nhân, việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp

nhân và áp dụng hình phạt tơng xứng
đối với hành vi phạm tội của pháp nhân
vừa có ý nghĩa chống và vừa có ý nghĩa
phòng ngừa tội phạm. Trong trờng hợp
ngời đại diện cho pháp nhân thực hiện
hành vi đợc coi là tội phạm, nếu pháp
luật chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự với
ngời đó mà không truy cứu trách nhiệm
hình sự pháp nhân trong khi chính pháp
nhân lại đợc hởng nhiều lợi ích mang
lại từ hành vi phạm tội thì có nghĩa pháp
luật đ bỏ lọt tội phạm và đây rõ ràng nh
kích thích tố khuyến khích những hành vi
sai trái của pháp nhân. ở tất cả quốc gia
mà pháp luật hình sự coi pháp nhân là
chủ thể của tội phạm thì đồng thời pháp
luật hình sự cũng có hệ thống hình phạt
riêng áp dụng cho pháp nhân phạm tội.
Thực tiễn cũng đ chứng minh rằng,
những hành vi phạm tội của pháp nhân
thờng xảy ra trong các hoạt động kinh tế
với mục đích kiếm đợc lợi nhuận nhiều
hơn và vì vậy, hình phạt tiền với số lợng
lớn hoặc những hình phạt hạn chế quyền
tự do kinh doanh của pháp nhân đợc coi
là những hình phạt có tác dụng giáo dục
và phòng ngừa hơn cả.
4. So với một số quốc gia khác mà ở
đó pháp luật hình sự coi pháp nhân là chủ
thể của tội phạm thì nhịp độ phát triển

kinh tế của nớc ta cha cao. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, trong số các
tội phạm kinh tế có không ít các tội phạm
do pháp nhân thực hiện. Báo cáo của
ngành thuế hàng năm cho thấy, mỗi năm
Nhà nớc thất thu hàng nghìn tỉ đồng tiền
thuế mà nguyên nhân của tình trạng này
là do các cơ sở sản xuất kinh doanh cả
của quốc doanh và ngoài quốc doanh trốn
thuế. Báo cáo của ngành quản lí thị
trờng cũng chỉ ra tình trạng kinh doanh
trái phép, làm và buôn bán hàng giả, lu
hành sản phẩm kém phẩm chất, vi phạm
các quy định về quảng cáo v.v. đang ngày
càng trở nên trầm trọng hơn. Mặc dù vậy,
việc xử lí về hình sự các hành vi vi phạm
kể trên rất khó vì luật hình sự nớc ta
không coi pháp nhân là chủ thể của tội
phạm. Trong thực tiễn, đ có không ít vụ
trốn thuế của các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (công ti trách nhiệm hữu hạn,
công ti cổ phần, tổ sản xuất t nhân ) bị
đa ra giải quyết bằng tố tụng hình sự và
trong những trờng hợp này cá nhân bị
truy tố là giám đốc hoặc phó giám đốc.
Các vụ trốn thuế ở các cơ sở kinh tế quốc
doanh không đợc giải quyết bằng kênh
tố tụng hình sự và thậm chí cả kênh hành
chính đang bị x hội lên án. Có lẽ chính
vì Nhà nớc không sử dụng biện pháp

cứng rắn là biện pháp hình sự để xử lí các
vi phạm kiểu trên của pháp nhân nên tình
trạng dây da nợ đọng thuế của các
doanh nghiệp với số lợng ngày càng
tăng và tới một số lợng nào đó đẩy
doanh nghiệp tới bờ phá sản thì để cứu
doanh nghiệp, Nhà nớc lại phải dùng
biện pháp "đậy nợ" và đây chính là những


nghiên cứu - trao đổi
18 - Tạp chí luật học

gánh nặng cho ngân sách nhà nớc, là
một trong những nguyên nhân làm cho
Nhà nớc không thực hiện đợc một số
chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Nghiên cứu tình
hình tội phạm ở nớc ta trong những năm
gần đây thì thấy ngoài những trờng hợp
kẻ phạm tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan
nhà nớc, tổ chức x hội nh là thủ đoạn
phạm tội còn có không ít trờng hợp
chính các cơ quan nhà nớc, các doanh
nghiệp đ lợi dụng kẽ hở của pháp luật
trong việc không quy định pháp nhân là
chủ thể của tội phạm để phạm tội. Vụ án
vi phạm các quy định về quản lí và bảo vệ
đất đai theo Điều 180 BLHS xảy ra ở x
Ngọc Thụy huyện Gia Lâm thành phố Hà
Nội là một thí dụ điển hình. Xuất phát từ

chỗ ngân sách nhà nớc cấp cho x quá
eo hẹp trong khi địa phơng lại có nhu
cầu xây dựng, trờng học, trạm xá, bốt
điện, đờng đi nên Đảng ủy, Hội đồng
nhân dân, Đại hội x viên đều nhất trí bán
một diện tích rất lớn mặt hồ cho một số
cơ quan nhà nớc và cá nhân ở Hà Nội để
lấy tiền đầu t cho các công trình phúc
lợi. Sau khi đ có Nghị quyết của Đảng
ủy, Hội đồng nhân dân và Đại hội x
viên, chủ nhiệm hợp tác x và một số
trởng thôn đợc giao trực tiếp thực thi
nhiệm vụ. Sau một thời gian, các nghị
quyết đ đợc thực hiện, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân x Ngọc
Thụy đ đợc cải thiện và đó cũng là lúc
toàn bộ ban lnh đạo Đảng ủy, ủy ban
nhân dân, Hội đồng nhân dân, Hợp tác x
và các trởng thôn phải đứng trớc vành
móng ngựa về tội danh nh đ nêu trên và
nhận các mức án khác nhau. Rõ ràng ở
đây ta thấy có những điều bất hợp lí là
những ngời trực tiếp thực hiện các nghị
quyết của tập thể thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự còn một tập thể ngời
đợc hởng lợi ích từ hành vi phạm tội lại
vô can. Trong luật hình sự (mặc dù cha
có điều luật nào của BLHS nớc ta quy
định) ngời ta vẫn thừa nhận thi hành
mệnh lệnh cấp trên trong những trờng

hợp không nhận thức đợc đó là mệnh
lệnh trái pháp luật đợc coi là tình tiết
loại trừ tính nguy hiểm của hành vi.
Trong vụ việc nêu trên, chắc chắn có
không ít ngời không thể nhận thức đợc
các nghị quyết của Đảng ủy, ủy ban nhân
dân, Hội đồng nhân dân, Đại hội x viên
là sai trái và vì vậy, lẽ ra họ phải đợc
loại khỏi phạm vi những ngời bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, dù
thế nào chăng nữa, các tổ chức đ có nghị
quyết sai trái và nghị quyết đó đ đợc
thực hiện thông qua hành vi của những
ngời đại diện thì tổ chức ấy không thể
không chịu trách nhiệm. Trong trờng
hợp nêu trên, những ngời đợc tập thể
ủy quyền đ rơi vào hoàn cảnh khó xử,
nếu thực hiện sự ủy quyền của tập thể, họ
trở thành kẻ hứng chịu trách nhiệm cho
tập thể (cụ thể là bị truy cứu trách nhiệm
hình sự còn tập thể thì không); còn nếu
không thực hiện họ đ vi phạm điều lệ
của tổ chức và họ có thể bị kỉ luật. Rõ
ràng nh vậy là không công bằng và cái
điều không công bằng này cần phải đợc
khắc phục.
Qua nghiên cứu tình hình tội phạm và
thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở
nớc ta, chúng tôi cho rằng đ đến lúc
trong pháp luật hình sự của nớc ta phải

có các quy định về trách nhiệm hình sự
của pháp nhân. Trớc đây, chúng ta
không quy định pháp nhân là chủ thể của
tội phạm bởi khi ấy cha cần thiết vì số


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 19

các vi phạm pháp luật của pháp nhân đạt
tới mức nguy hiểm nh tội phạm còn ít,
cha đáng kể. Lí luận luật hình sự chỉ ra
rằng để tội phạm hóa một hành vi ít nhất
cần có ba điều kiện: Hành vi có tính nguy
hiểm cao cho x hội; hành vi tơng đối
phổ biến; hành vi có thể đợc chứng minh
bằng tố tụng. Hiện nay, các loại vi phạm
đó của pháp nhân đ tơng đối phổ biến
và việc giải quyết, xử lí chúng bằng biện
pháp hình sự là cần thiết. Việc quy định
pháp nhân là chủ thể của tội phạm xét về
bản chất không có gì là bất cập cho việc
áp dụng pháp luật hình sự nói riêng cũng
nh trong đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung. Chúng ta vẫn thừa nhận
đồng phạm, phạm tội có tổ chức là những
hình thức phạm tội có mức độ nguy hiểm
cho x hội lớn hơn hình thức cá nhân
phạm tội. Các vi phạm pháp luật của pháp
nhân đều đợc thực hiện dới hình thức

đồng phạm và lẽ ra so với các vi phạm
cùng loại chúng phải đợc coi là nguy
hiểm hơn mới đúng. Vì vậy, không truy
cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân khi
pháp nhân có hành vi vi phạm pháp luật
nghiêm trọng có nghĩa là ngời làm luật
đ mắc phải sai lầm là luôn luôn coi hành
vi vi phạm của pháp nhân không nguy
hiểm bằng hành vi vi phạm của thể nhân
(cá nhân) và điều này rõ ràng mâu thuẫn
với lí luận về đồng phạm và mâu thuẫn
với quan điểm rất quan trọng đợc thừa
nhận trong luật hình sự là tính nguy hiểm
cho x hội của tội phạm đợc đánh giá
trớc hết phải dựa vào tầm quan trọng của
quan hệ x hội nó xâm hại chứ không
phải nó do cá nhân hoặc pháp nhân thực
hiện.
Mặc dù Bộ luật hình sự sửa đổi của
nớc ta mới đợc thông qua nhng theo
quan điểm của chúng tôi, trong thời gian
tới cần cụ thể hóa trách nhiệm hình sự
của pháp nhân đối với các tội phạm về
kinh tế mà pháp nhân thờng thực hiện
nh trốn thuế, kinh doanh trái phép, làm
hàng giả, vi phạm các quy định về quản lí
đất đai, vi phạm các quy định về bảo vệ
môi trờng
Trong quan hệ pháp luật hình sự,
ngời đứng đầu hoặc ngời đại diện của

pháp nhân và pháp nhân không thể chịu
trách nhiệm hình sự thay nhau. Ngời
đứng đầu hoặc ngời đại diện đồng thời
phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi
của họ đợc thực hiện trong phạm vi đợc
ủy quyền. Pháp nhân không chịu trách
nhiệm hình sự cùng ngời đứng đầu hoặc
ngời đại diện nếu hành vi phạm tội của
ngời này nằm ngoài sự ủy quyền của pháp
nhân. Ngợc lại, ngời đứng đầu hoặc đại
diện của pháp nhân chỉ có thể phải chịu
trách nhiệm hành chính hay kỉ luật về hành
vi phạm tội của pháp nhân nếu họ không có
lỗi hình sự đối với hành vi đó.
Nếu những quy định trên đây trong
tơng lai đợc thể hiện trong Bộ luật hình
sự, chúng tôi tin chắc rằng nguyên tắc
công bằng và bình đẳng, nguyên tắc mọi
hành vi phạm tội không thoát khỏi sự
trừng trị của pháp luật sẽ đợc củng cố và
đây sẽ là điều kiện quan trọng bảo đảm
hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm của nớc ta hiện nay./.

×