Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, trên cơ sở đó hãy nêu những biện pháp cơ bản để cải thiện và bình ổn tỷ giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.51 KB, 13 trang )

Câu 6: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, trên cơ sở đó
hãy nêu những biện pháp cơ bản để cải thiện và bình ổn tỷ giá. Tại sao
nói: Điều chỉnh tỷ giá thông qua quan hệ cung cầu ngoại tệ là giải pháp
tốt nhất khi NHTW muốn đạt được mức tỷ giá mong muốn ?
Trả lời:
 Khái niệm tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền này được tính theo một đồng tiền
khác. Tỷ giá hối đoái cũng được hiểu là tỉ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của
hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái xuất hiện và phát triển cùng với sự ra
đời, phát triển của thương mại quốc tế, nó được giải thích bởi một hiện tượng
đơn giản, hàng hoá không có biên giới quốc gia trong khi tiền chỉ được chấp
nhận trên lãnh thổ quốc gia phát hành ra nó.
Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá
1. Cán cân thanh toán quốc tế (Banlance of Payment)
Cán cân thanh toán quốc tế phản ảnh tình hình thu – chi thực tế bằng
ngoại tệ của một số nước so với các nước khác trong quan hệ giao dịch quốc
tế lẫn nhau, cán cân thanh toán quốc tế thể hiện vị thế tài chính của quốc gia
bội chi hoặc bội thu:
Nếu cán cân thanh toán quốc tế bội chi: (chi > thu), thì quốc gia đó
phải xuất ngoại tệ trả nợ, dẫn đến nhu cầu ngoại tệ gia tăng, cầu > cung, tỷ giá
cho xu hướng tăng lên.
Ngược lại nếu cán cân thanh toán quốc tế bội thu (thu > chi), nước
ngoài trả nợ bằng ngoại tệ, dẫn đến cung ngoại tệ gia tăng, tỷ giá có xu hướng
giảm xuống.
Tuy nhiên sự biến động tăng giảm tỷ giá hối đối nói trên chỉ xảy ra
trong điều kiện trường hợp môi trường kinh tế ổn định không xảy ra những
biến cố kinh tế - chính trị trọng đại, vì những biến động và chính trị, xã hội sẽ
tác động nhanh chóng đến sự thay đổi của tỷ giá.
2. Lãi suất (interest rate)
Phần lớn các nhà đầu tư với qui mô lớn trên thị trường như các tập
đoàn, các công ty đa quốc gia có thể chuyển đổi đầu tư một cách dễ dàng giữa


các đồng tiền khác nhau khi tỷ giá và lãi suất của các đồng tiền này có chiều
hướng thay đổi. vấn đề quan trọng được đặt ra là cần phải so sánh đối chiếu
thu nhập đầu tư từ các đồng tiền khác nhau để có thể chắc chắn rằng họ có thể
họ có thể thu được kết quả đầu tư tốt nhất. Thông thường các nhà đầu tư có xu
hướng đầu tư vào đồng tiền có lãi suất cao, được thực hiện bằng cách khá phổ
biến là đi vay đồng tiền có lãi suất thấp chuyển đổi sang đồng tiền có lãi suát
cao, sau đó đầu tư đồng tiền lãi suất cao bằng nhiều hình thức nhằm hưởng lợi
nhuận do chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền. Điều này sẽ tạo nên sự thay
đổi cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá. Vì thế nhà
đầu tư ngày càng quan tâm so sánh giữa thu nhập do chênh lệch lãi suất mang
lại phải lớn hơn sự gia tăng tỷ giá trong suốt thời gian đầu tư. Đối chiếu, so
sánh lãi suất của các đồng tiền khác nhau theo phương cách như trên là kỹ
thuật quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trên thị trường.
Tuy nhiên trong suốt thời đầu tư hay cho vay… tỷ giá biến động tăng
hoặc giảm sẽ tác động đến gia tăng thu nhập hoặc lỗ, nhà đầu tư bị rủi ro do
sự gia tăng tỷ giá lớn hơn thu nhập do chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền.
Thực tế, thông thường đồng tiền có lãi suất cao có khuynh hướng lên giá, bởi
vì sẽ có nhiều nhà đầu tư mua đồng tiền có lãi suất cao để cho vay nhằm thu
lãi nhiều hơn.
Nếu lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất ngoại tệ thì tài sản
tài chính nội địa trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư hơn tài sản tài chính nước
ngoài. Điều này khiến các nhà đầu tư phải tái cấu trúc lại danh mục đầu tư
đưa đến hệ quả là dòng vốn chảy ra khỏi thị trường vốn nước ngoài và chảy
vào thị trường vốn nội địa. Sự thay đổi các dòng vốn đầu tư này sau đó cũng
được chuyển dịch sang thị trường ngoại hối làm giảm cầu và tang cung ngoại
tệ. Kết quả là đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, hay tỷ giá giảm.
3. Ngang giá sức mua (Purchasing power Parrty – PPP)
Ngang giá sức mua chính là sự so sánh và đo lường sức mua tương đối
của hai đồng tiền, được tính toán bằng cách so sánh giá cả của cùng một số
mặt hàng ở hai nước khác nhau được tính theo đồng tiên của hai nước.

Nếu cùng một số tiền ngang nhau người ta mua được một lượng hàng
ngang nhau ở mọi nước thì như vậy mậu dịch quốc tế sẽ không có lãi và
không kích thích ngoại thương phát triển, điều đó có nghĩa là, các đồng tiền
đều ở trong tình trạng ngang nhau về sức mua.
Vì vậy cần phải hiểu nền tảng của ngang giá sức mua được thể hiện:
Nếu như một mặt hàng ở trong quốc gia này rẻ hơn thì xuất khẩu mặt hàng đó
sang nước khác giá đắc hơn thì sẽ có lời hơn, và ngược lại nếu một mặt hàng
trong quốc gia sản xuất đắt hơn so với thị trường nước ngoài thì tốt hơn hết
nên nhập khầu mặt hàng đó sẽ có lợi nhuận hơn. Vấn đề này là lý giải sự
chênh lệch về giá cả của cùng một mặt hàng ở các nước khác nhau trên thế
giới, nước nào có lợi thế kinh tế tốt hơn sẽ có điều kiện thuận lợi sản xuất ra
hàng hóa với chi phí thấp, sẽ là cơ hội để các nước này đẩy mạnh xuất khẩu
và ngược lại kích thích nhập khẩu khi mặt hàng đó sản xuất trong nước giá
cao hơn. Sự gia tăng thương mại mậu dịch thế giới dẫn đến thực hiện khoản
thu chi ngoại tệ, từ đó làm ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường và
tác động đến tỷ giá hối đoái.
4. Các điều kiện kinh tế (Economic conditions)
Về ngắn hạn, các hoạt động kinh doanh và đầu tư hàng ngày đều tác
động trực tiếp đến cung và cầu vốn đặc biệt là các khoản giao dịch với quy
mô lớn trên thị trường. Những yếu tố kinh tế chính trị tác động tức thời đã
làm thay đổi đáng kể các khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá
Mua …Mức cung, cầu ngoại tệ biến động trên thị trường thay đổi sẽ ảnh
hưởng đến các luồng thu chi ngoại tệ, từ đó tác động đến tỷ giá hối đoái.
Về lâu dài, tỷ giá hối đoái bị ảnh hưởng bởi tình hình và xu hướng phát
triển kinh tế quốc gia cũng như các biến động trên thị trường thế giới, được
thể hiện qua những yếu tố cơ bản như sau: cán cân thanh toán (Balance of
payments); tăng trưởng kinh tế (Economic growth); tỷ lệ lạm phát (Rate of
inflation); thất nghiệp (Unemployment); thuế suất (Rates of Taxation); cung
và cầu vốn (supply and demand for capital)…Tất cả những nhân tố trên tạo
nên áp lực cung và cầu vốn trên thị trường, vốn ngoại tệ sẽ chảy vào một

nước khi các nhà đầu tư thấy có cơ hội kinh doanh và một số nước cần vốn và
đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn, còn các nước khác thừa tiền thì có khả năng
đầu tư sang các nước khác, dẫn đến làm dịch chuyển luồng vốn đầu tư giữa
các nước. Tuy nhiên, các nhà đầu tư không phải luôn luôn lúc nào cũng đầu tư
chỉ vì lãi suất cao mà còn phải tính đến các yếu tố chiến lược khác như: môi
trường kinh tế - chính trị ổn định, chính sách thuế quan…
Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế nước ngoài thì nhập khẩu tăng trưởng nhanh hơn xuất khẩu. Kết quả là
cầu ngoại tệ tăng nhanh hơn cung ngoại tệ làm cho ngoại tệ lên giá so với nội
tệ.
5. Những yếu tố chính trị (political factors)
Sự biến động của tỷ giá trong ngắn hạn cũng như dài hạn đều bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố chính trị, mứ độ bất ổn trong tình hình chính trị và các
chính sách điều tiết của Nhà nước. Có thể nói sự ổn định về chính trị được
xem như là điều kiện hấp dẫn thu hút vốn đầu tư, và làm dịch chuyển vốn đầu
tư nhanh chóng. Tình hình chính trị bất ổn sẽ dẫn đến hiện tượng tháo chạy
vốn, đảo ngược dòng vốn… là nguyên nhân nguy cơ khủng hoảng tài chính.
7.Tình hình lạm phát trong và ngoài nước
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn lạm phát ở nước ngoài, hàng hóa
trong nước sẽ trở nên đắt đỏ hơn so với hang hóa nước ngoài. Điều này dẫn
đến sự gia tăng nhu cầu hàng hóa ngoại nhập và sụt giảm nhu cầu hàng hóa
nội địa. Sự thay đổi nhu cầu hàng hóa này sau đó được chuyển dịch sang thị
trường ngoại hối làm tăng cầu và giảm cung ngoại tệ. Kết quả là ngoại tệ lên
giá so với nội tệ, hay tỷ giá gia tăng.
8.Vai trò của chính phủ hay sự can thiệp của ngân hàng Trung ương
Chính phủ thông qua ngân hang Trung ương có thể can thiệp vào thị
trường ngoại hối. Sự can thiệp này thực hiện bằng việc bán ra hoặc mua vào
ngoại tệ với khối lượng lớn nhằm làm thay đổi quan hệ cung cầu ngoại tệ, từ
đó tác động đến tỷ giá nhằm đạt mục tiêu chính sách tiền tệ của ngân hang
Trung ương.

9. Các yếu tố khác
Tác động của nhiều yếu tố khác như tình hình ổn định chính trị, kỳ
vọng và sự tấn công của nhà đầu cơ, gía vàng và giá dầu trên thị trường quốc
tế, tình hình thu hút kiều hối, tâm lý, chính sách kinh tế, môi trường đầu tư…
Các yếu tố trên đây có thể tác động riêng lẻ hoặc đồng thời tác động lên
cung hoặc cầu ngoại tệ, từ đó tác động đến tỷ giá. Việc hiểu và phân tích tác
động của các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá rất quan trọng vì nó giúp chúng ta
dự báo và hình thành kỳ vọng hợp lý về tỷ giá để từ đó có cơ sở ra quyết định
lien quan đến giao dịch ngoại tệ.
Tóm lại, những biến động các nhân tố nêu trên đã tác động làm thay
đổi cung cầu ngoại tệ, giá trị đồng tiền sẽ tăng hoặc giảm trên thị trường
Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái:
Dưới tác động của biến động tỷ giá xuất hiện những biểu hiện bất lợi
cho quá trình phát triển kinh tế. Chủ động can thiệp của Nhà nước nhằm bình
ổn tỷ giá trên thị trường là điều kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến
lược kinh tế. Bao gồm các biện pháp chủ yếu sau đây:
+ Chính sách lãi suất chiết khấu
Khi tỷ giá biến động, Ngân hàng Trung ương với vai trò quản lý vĩ mô
điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, sẽ làm thay đổi lãi suất tín dụng trên thị
trường. Điều này có tác dụng kích thích đối với việc di chuyển các luồng vốn
ngoại tệ ngắn hạn từ nước này sang nước khác, từ đó dẫn đến sự thay đổi
cung và cầu ngoại hối làm cho tỷ giá được bình ổn. Cụ thể:
Khi tỷ giá hối đối tăng lên Ngân hàng Trung ương nâng lãi suất tái
chiết khấu dẫn tới lãi suất tiền gửi sẽ tăng lên. Thu hút vốn ngắn hạn chạy vào
trong nước, làm tăng khả năng cung ngoại tệ và giảm bớt sự căng thẳng của
tình hình cung đang nhỏ hơn cầu trên thị trường dẫn tới tỷ giá có xu hướng tự
hạ xuống
Khi tỷ giá hối đoái giảm thì Ngân hàng Trung ương hạ thấp lãi suất
tái chiết khấu, tác động đến lãi suất tiền gửi giảm xuống, vốn ngoại tệ sẽ chạy
ra nước ngoài. Bên cạnh đó các ngân hàng trong nước bị hạn chế thu hút vốn,

tức giảm khả năng cung ngoại tệ trên thị trường, cũng như giảm bớt sự căng
thẳng tình hình cung đang lớn hơn cầu, tỷ giá có xu hướng từ từ tăng lên.
Tuy nhiên chính sách lãi suất chiết khấu chỉ tác động đến tỷ giá trong
chừng mực nhất định. Hơn nữa lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết
định đến sự dịch chuyển vốn giữa các nước mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác như: tình hình lạm phát, tốc độ mất giá của đồng tiền, tình hình biến
động kinh tế chính trị của mỗi nước… Chẳng hạn như: sự bất ổn về kinh tế,
chính trị…sẽ hạn chế thu hút vốn mặc dù lại suất hấp dẫn và gia tăng.
+ Chính sách hối đoái
Nguyên lý cơ bản của biện pháp này là Ngân hàng Trung ương thực
hiện các nghiệp vụ mua – bán ngoại hối tạo ra khả năng trực tiếp thay đổi
quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường để điều chỉnh tỷ giá. Cụ thể như
sau:
Khi tỷ giá hối đoái tăng, Ngân hàng Trung ương sẽ tung ngoại hối ra
bán, cung ngoại hối trên thị trường tăng lên và làm giảm bớt căng thẳng về
cung cầu ngoại hối trên thị trường (cầu đang lớn hơn cung), dẫn tới tỷ giá từ
từ giảm xuống.
Khi tỷ giá hối đoái giảm, Ngân hàng Trung ương mua vào ngoại hối, sẽ
tăng nhu cầu ngoại hối trên thị trường và làm giảm bớt căng thẳng quan hệ
cung cầu ngoại hối trên thị trường, (cung đang lớn hơn cầu), dẫn đến tỷ giá
hối đoái từ từ tăng lên.
Tuy nhiên biện pháp này chỉ có tác dụng tạm thời, với điều kiện Ngân
hàng Trung ương phải có một khối lượng dự trữ ngoại hối lớn. Trong trường
hợp cán cân thanh toán quốc tế thiếu hụt ngân hàng Trung ương tung ngoại
hối ra bán có thể làm tăng thêm sự hao hụt dự trữ ngoại hối mà thôi.
+ Quỹ bình ổn hối đoái
Quỹ bình ổn hói đoái là hình thức biến tướng của chính sách hối đoái.
Nhà nước lập quỹ bình ổn hối đoái dưới hình thức bằng vàng, ngoại tệ hoặc
bằng cách phát hành loại trái phiếu ngắn hạn, chủ động mua vào bán ra ngoại
tệ kịp thời can thiệp trực tiếp làm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại hối trên

thị trường nhằm điều chỉnh tỷ giá. Để thực hiện tốt biện pháp này, nhà nước
cần phải có dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Việt Nam, từ cuối năm 1994 đã áp
dụng biện pháp này bằng cách lập quỹ điều hòa ngoại tệ để chủ động điều
chỉnh tỷ giá trên thị trường.
+ Phá giá tiền tệ
Nhà nước chủ động giảm giá trị tiền tệ trong nước làm cho tỷ giá hối
đoái tăng lên. Nguyên nhân dẫn đến sự phá giá là do lạm phát, cán cân thanh
toán quốc tế bị thiếu hụt, hoặc do yêu cầu chính sách ngoại thương của quốc
gia… Phá giá tiền tệ, tỷ giá hối đoái tăng lên nhằm khuyến khích xuất khẩu
hay hạn chế nhập khẩu… bên cạnh đó đòi hỏi nhà nước phải tìm mọi biện
pháp để phát triển kinh tế, kiểm soát lạm phát.
+ Nâng giá tiền tệ
Nhà nước chính thức nâng giá tiền tệ trong nước, nên giá ngoại tệ có xu
hướng giảm xuống, nâng giá tiền tệ xuất phát từ áp lực của một số quốc gia
khác trong cạnh tranh thương mại quốc tế nhằm, hoặc do yêu cầu thực hiện
chính sách tiền tệ.
Với nhiều biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái tùy theo tình hình cụ thể
mà mỗi quốc gia cần cân nhắc lựa chọn biện pháp hợp lý cho mình, bên cạnh
đó Nhà nước cần kết hợp với các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế,
tiết kiệm, đầu tư, tiêu dung, thuế quan…
(hoặc phân theo công cụ trực tiếp và gián tiếp tác động đến tỷ giá phấn
các công cụ của chính sách tỷ giá - chương 5: những vấn đề cơ bản vế tỷ giá,
sách tài chính quốc tế- gs nguyễn văn tiến)
Tại sao nói: Điều chỉnh tỷ giá thông qua quan hệ cung cầu ngoại tệ là giải
pháp tốt nhất khi NHTW muốn đạt được mức tỷ giá mong muốn ?
 Vì:
Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó
là mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, độ lệch về lãi suất và lạm phát giữa các
nước. Đồng thời TGHĐ cũng tác động tới nhiều mặt khác nhau của nền kinh

tế trong đó quan trọng nhất là tới hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, tín
dụng quốc tế.
Do đó, NHTW tham gia mua bán ngoại tệ trên TT. Từ đó nó tác động
trực tiếp đến TGHĐ do lượng ngoại tệ NHTW trực tiếp giao dịch sẽ góp phần
điều chỉnh quan hệ cung cầu ngoại tệ từ đó TGHĐ được điều chỉnh theo mức
mà NHTW mong muốn. Bên cạnh đó, Việc mua bán ngoại tệ NHTW làm
tránh được hiện tượng đầu cơ ngoại tệ. Nếu NHTW có chính sách tốt về điều
chỉnh cung cầu ngoại tệ, cũng góp phần vào kiềm chế lạm phát. Vì vậy, Điều
chỉnh tỷ giá thông qua quan hệ cung cầu ngoại tệ là giải pháp tốt nhất khi
NHTW muốn đạt được mức tỷ giá mong muốn.
Nếu NHTW sử dụng biện pháp lãi suất Tái chiết khấu, Tăng giảm
LSTCK nhằm làm tăng giảm LSTT để thu hút lượng ngoại tệ hoặc có thể cho
vay ngoại tệ, nhưng biện pháp đó nó cũng phụ thuộc nhiều vào nhà đầu tư nên
việc điều chỉnh TGHĐ sẽ không đạt được mức mà NHTW mong muốn.
Trong khi đó các biện pháp như thuế quan và hạn ngạch nếu không
hợp lý sẽ rất dễ bị các nước khác trã đũa thương mại bằng cách áp dụng mức
thuế quan cao và hạn ngạch thấp để hàng hóa của các nước khác khó xâm
nhập vào thị trường của nước quy định hạn ngạch và thuế quan
Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề đặt
ra
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa
USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua
cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ
không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu
hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của
dân chúng. Khi TGHĐ biến động theo chiều hướng không thuận, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nhiều giải pháp như: nới rộng biên
độ +/-5% (3/2009); hạ biên độ xuống +/- 3% (2/2010), đồng thời với việc điều
chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng 3,36% ; 4/2010 NHNN yêu cầu các Tổng

công ty, Tập đoàn có thu ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và kiểm kiểm soát
chặt chẽ các giao dịch mua bán ngoại tệ tại các địa điểm mua bán ngoại tệ.
Đầu năm 2011, thị trường ngoại hối căng thẳng trước áp lực lạm phát và lãi
suất tăng cao kết hợp với NHNN phá giá tiền đồng với biên độ khá lớn là
9,3% đã khiến tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh lên tới trên 22.000
VND/USD và chênh lệch khá xa so với tỷ giá chính thức. Trước tình hình đó
đó, chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý chặt chẽ như cấm kinh
doanh ngoại tệ trên thị trường tự do, cấm kinh doanh vàng miếng; Yêu cầu
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải bán ngoại tệ cho tổ chức tín dụng;
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ thêm 1 điểm phần trăm, từ 6%
lên 7% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín
dụng; Lãi suất huy động tối đa bằng USD từ 1%/năm xuống còn 0,5%/năm
đối với tổ chức và 3%/năm xuống còn 2%/năm đối với cá nhân. Những giải
pháp có phần hành chính trên đã khiến thị trường ngoại hối tự do thu hẹp, tỷ
giá tự do giảm về quanh ngưỡng 20.530 - 20.630 VND/USD trong quý II,
thậm chí từ cuối tháng 6 giao dịch thấp hơn tỷ giá bình quân của các ngân
hàng thương mại.

Thời gian gần đây, trong lúc tỷ giá đang ở mức ổn định, NHNN đã mua
vào một lượng USD đáng kể để tăng dự trữ USD. Theo một báo cáo mới nhất
của Chính phủ gửi các đại biểu Quốc hội trước khi khai mạc kỳ họp đầu tiên
của Quốc hội khóa XIII ngày 21/7, trong những tháng đầu năm NHNN đã
mua vào tổng cộng khoảng 4 tỷ USD từ các NHTM để bổ sung cho quỹ dự
trữ ngoại hối quốc gia. Hiện không có con số chính thức và mới nhất về lượng
dự trữ ngoại hối của Việt Nam, nhưng theo IMF, dự trữ ngoại hối của Việt
Nam tính đến tháng 6/2011 đã đạt khoảng 13,5 tỷ USD, tương đương 1,5
tháng nhập khẩu. Như vậy, Chính phủ đang dần hút một lượng ngoại tệ lớn
trong lưu thông vừa để bù đắp dự trữ, hỗ trợ xuất khẩu vừa làm tăng niềm tin
vào tiền đồng.
Với những giải pháp này, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã từng

bước bình ổn, tỷ giá chính thức so với tỷ giá trên thị trường tự do được thu
hẹp, từng bước lành mạnh hóa các giao dịch vốn trong xã hội.
Trong thời gian tới, TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ
dự đoán. Sự biến động của tỷ giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động
như: nhập siêu còn lớn không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong trung hạn; thâm
hụt ngân sách vẫn ở mức cao (trên dưới 6%/GDP); giá vàng trong nước và thế
giới luôn tăng mạnh (do khủng hoảng chi tiêu công tại một số quốc gia Châu
Âu, châu Mỹ); nhu cầu ngoại tệ nói chung, USD nói riêng vào những tháng
cuối năm sẽ tăng cao do khách hàng vay vốn đến hạn trả nợ ngân hàng; do
nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư nước ngoài; do kinh tế
ngầm vẫn phát triển rất mạnh, khó có khả năng ngăn chặn, nên đôla hóa nền
kinh tế còn ở mức cao; do thực hiện chính sách đồng tiền mạnh/ hay yếu của
một số quốc gia trong khu vực… Như vậy sẽ có vài vấn đề đặt ra đối với
TGHĐ:
Một là, có thể điều chỉnh TGHĐ theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trong
bối cảnh một số nước Châu Âu đang rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, còn
Trung quốc lại nâng giá đồng nhân dân tệ?
- Trong bối cảnh khủng hoảng nợ công từ một số nước Châu Âu đang
có chiều hướng lan rộng.Trong 7 tháng đầu năm 2011, Euro đã giảm giá
15,7% so với USD, giảm 8,5% so với đồng GBP và thậm chí giảm 20% so
với đồng JPY.
i
Trung quốc nâng giá Nhân dân tệ, ít nhiều tác động đến quan
hệ ngoại thương giữa hai nuớc, tuy không lớn.
Như vậy TGHĐ sẽ phải điều chỉnh thế nào và khi nào để không gây ra những
cú sốc và không tạo kỳ vọng mất giá đồng Việt Nam. TGHĐ là giá cả đối
ngoại của đồng tiền, theo tín hiệu thị trường tỷ giá lúc lên, lúc xuống phải
được xem là việc bình thường của nền kinh tế. Còn khi tỷ giá diễn biến theo
chiều hướng bất lợi, thì bất cứ Quốc gia nào cũng cần can thiệp tỷ giá. Điểm
khác nhau ở chỗ: thời điểm can thiệp; công cụ can thiệp, mức độ can thiệp và

sự giám sát của quá trình can thiệp. Kinh nghiệm của nhiều Quốc gia trong
điều hành chính sách tỷ giá cho thấy, việc chọn thời điểm điều chỉnh với “liều
lượng” hợp lý là yếu tố quan trọng, thậm chí quyết định cho việc ổn định tỷ
giá và khắc phục áp lực cộng hưởng lên tỷ giá và thị trường. Với kinh nghiệm
này, khi tỷ giá đang dần ở thế ổn định, NHTW sẽ chủ động (tính toán một
cách cụ thể) điều chỉnh tăng/giảm nếu dự báo trong thời gian tới là cần thiết,
không nên để diễn biến tỷ giá ở mức “nóng” mới điều chỉnh, bởi điều chỉnh
thời điểm này dễ gây hiệu ứng bất ổn từ tỷ giá sang các chỉ tiêu vĩ mô khác.
Hai là, Để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thì xử lý TGHĐ
có phải là biện pháp hữu hiệu?
-Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu
ii
đã cho rằng: các đợt phá giá
tiền vừa qua, không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại”, vì thế nếu cứ
coi TGHĐ là một trong những rào cản cho xuất khẩu, để “lập luận” cần phải
giảm giá VND, để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam sẽ là chưa ổn?
Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất cập, 70 -80% đầu
vào của mặt hàng xuất khẩu là nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại lệ thuộc vào
biến động trên thị trường quốc tế về điều kiện thương mại cũng như biến động
giá cả. Ở khía cạnh nhập khẩu, TGHĐ có thực sự hạn hạn chế nhập khẩu, để
thông qua đó hạn chế nhập siêu? Điều này cũng không hẳn như vậy. Do xuất
khẩu nhiều, nhưng hầu hết ở dạng thô, giá trị gia tăng trên từng đơn vị xuất
khẩu không cao, trong khi nhập siêu rất lớn, chủ yếu từ Trung Quốc (chiếm
đến 80-90%/tổng kim ngạch nhập khẩu). Như vậy sự phụ thuộc của giá cả
trong nước vào giá cả thị trường quốc tế khá lớn. Do đó, các ý kiến cho rằng
cần xử lý tỷ giá theo hướng tăng để khuyến khích xuất khẩu, chủ động nhập
khẩu là trực tiếp hoặc gián tiếp thu hẹp vai trò của tỷ giá
iii
, trong khi TGHĐ
còn liên quan đến hàng loạt vấn đề như cán cân thanh toán, nợ quốc gia, thị

trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và bất động sản. Chỉ xét riêng mối
quan hệ giữa tỷ giá với nợ quốc gia cũng cho thấy cần rất thận trọng trong
việc nâng hay giảm giá của tiền đồng. Nợ quốc gia của Việt Nam chủ yếu là
nợ nước ngoài (khoảng 40% GDP), nếu giảm giá tiền tệ thì ảnh hưởng không
nhỏ đến nợ quốc gia. Với cơ cấu nợ công
iv
của Việt Nam nghiêng về nợ nước
ngoài, thì khi tỷ giá điều chỉnh tăng lên, sẽ dẫn đến rủi ro nợ công do lãi suất
biến động theo xu hướng tăng. Như vậy sẽ dẫn đến chênh lệch lãi suất quá lớn
giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế, sẽ làm gia tăng mức độ đôla
hóa và tiếp tục tạo áp lực lên TGHĐ. Vì vậy, khi cần điều chỉnh tỷ giá không
chỉ đặt nó trong mối quan hệ với xuất, nhập khẩu, mà còn phải xem nó trong
mối quan hệ với đầu tư, lãi suất và vay nợ nước ngoài v.v… trong chiến lược
chung là nâng cao uy tín và vị thế của VND, hướng đến một đồng tiền tự do
chuyển đổi trong khu vực.
Ba là, có khắc phục được yếu tố kỳ vọng VND mất giá?
-Khi người dân và doanh nghiệp luôn kỳ vọng VND mất giá, sẽ làm giảm
niềm tin của người dân vào điều hành chính sách tài chính – tiền tệ của Chính
phủ, NHNN, tiếp tục gây ra những bất ổn trên thị trường. Điều này đã và đang
xảy ra trong dân chúng. Khi tỷ giá trên thị trường tự do biến động tăng, người
dân nghĩ ngay đến việc NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá theo hướng VND giảm
giá. Khi giảm giá VND thì giá một số hàng hóa dịch vụ tăng, lãi suất cho vay
và huy động cũng bị đẩy lên cao, các giao dịch ngắn hạn trở lên phổ biến hơn
lúc nào hết (gửi tiền cũng chỉ chấp nhận kỳ hạn ngắn từ tuần, đến tháng; nếu
có gửi kỳ hạn 6 tháng hay 1 năm thì các NHTM lại phải áp dụng theo kiểu
“rút ra trước hạn ở thời điểm nào sẽ được hưởng lãi suất ở kỳ hạn đó”. Nếu
vẫn cứ tiếp cách hành xử này, VND luôn đặt trong xu thế điều chỉnh giảm.
Điều này là rất bất ổn trong trung hạn. Vậy có khắc phục được vấn đề này
không? Theo tôi có thể khắc phục được bằng cách trong ngắn hạn cần chấp
nhận một tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn hiện tại (trên dưới 5%), duy trì một tỷ lệ

lạm phát thấp (trên dưới 6%), đồng thời với nó là dùng các biện pháp để nâng
giá tiền đồng, tạo một sự thay đổi từ nhận thức của người dân. Việc làm này
sẽ tạo yếu tố tâm lý rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh niềm tin của người
dân bị suy giảm về sự không ổn định sức mua của tiền đồng, họ có tiền nhàn
rỗi sẽ nhanh chóng chuyển sang vàng và ngoại tệ nắm giữ
v
.
Khi VND lên giá, có thể sẽ làm tăng thêm tình trạng nhập siêu, xuất
khẩu có thể giảm đi. Nhưng như đã phân tích trên, yếu tố tỷ giá có tác động
đến xuất nhập khẩu nhưng không hẳn là yếu tố quyết định. Vì vậy hướng đến
sự ổn định tỷ giá trong trung hạn, rất cần thiết có cách nhìn mới về vấn đề
này./.
Kết luận: Tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong một
nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang
từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Bởi hoạt động thương mại quốc
tế của các nước này ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so
sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác. Như vậy để đạt được một mức tỷ
giá như mong muốn thì chính phủ có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác
nhau, những biện pháp này có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp cùng với
nhau trong từng giai đoạn hoặc thực hiện cùng lúc với nhau để mang lại hiệu
quả như mong muốn, nhưng tóm lại để điều hành được chính sách tỷ giá thì
chính phủ phải nghiên cứu thật cẩn thẩn những tác động của nó đối với nến
kinh tế đó là những tác động tích cực hay tiêu cực để từ đó có thể giúp nến
kinh tế phát triển một cách bền vững Để có một chính sách quản lý ngoại hối
hiệu quả, Việt Nam cần có biện pháp theo dõi và phân tích sự khác nhau trong
việc tăng giá bán giữa các nước có quan hệ TM mật thiết với Việt Nam./.
( Chị xem lại đi e bổ sung những ý chị góp ý rồi đó, có gì cần thêm chị
nói e nha)

×