Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Thực trạng tình hình tài và quản lý tài chính tại Công Ty Cổ Phần Bê Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.91 KB, 82 trang )

Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển với
tốc độ cao và đạt được rất nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế. Đặc biệt
việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, trở thành thành viên thứ
150 của tổ chức này là một sự kiện rất quan trọng, góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên sự phát triển cao của
nền kinh tế nước ta làm phát sinh rất nhiều biến động trong nền kinh tế, đặc
biệt là thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tài chính
tiền tệ. Sự biến động của thị trường tài chính tiền tệ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự phát triển của đất nước, xét trên khía cạnh vi mô thì đây là giai đoạn
đầy nguy cơ và thách thức đối với doanh nghiệp.
Sự phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay đánh một mốc lớn
cho loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp
liên doanh nước ngoài. Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ có rất nhiều sự cạnh
tranh trên nhiều phương diện của những doanh nghiệp này vì đó là những
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính rất cao. Mặt khác quan hệ tài chính ngày
càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều, quan hệ tài chính giữa
doanh nghiệp với thị trường tài chính, với các doanh nghiệp khác cũng trở
nên phức tạp hơn, quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước cũng
chịu nhiều áp lực từ các cam kết gia nhập các tổ chức kinh tế xã hội trên thế
giới.
Như vậy xét một cách khái quát nhất cho ta thấy rằng tầm quan trọng
của tài chính doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, trong sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Quản lý tài chính doanh nghiệp là một
khâu vô cùng quan trọng trong hệ thống quản lý doanh nghiệp. Nhà quản lý
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
tài chính doanh nghiệp là một trong những nhân tố con người đóng vai trò
then chốt trong việc hoạch định chính sách và đường lối phát triển của doanh
nghiệp. Trong quá trình học tập tại Khoa Khoa Học Quản Lý Trường Đại Học
Kinh Tế Quốc Dân em đã được học tập rất nhiều kiến thức mang tính lý luận


về kinh tế, đặc biệt là kiến thức tài chính và quản lý tài chính. Từ thực tế quá
trình thực tập tại Công Ty cổ Phần Bê Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp em đã
có được cái nhìn thực tế hơn, có được sự kết hợp giữa lý luận và thực tiển, do
đó em đã mạnh dạn viết chuyên đề: Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Tài
Chính Tại Công Ty Cổ Phần Bê Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp.
Nội dung của đề tài bao gồm :
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về tài chính, quản lý tài chính và sự
cần thiết phải hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Công Ty Cổ Phần
Bê Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tình hình tài và quản lý tài chính tại Công
Ty Cổ Phần Bê Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp.
Chương 3: Giải pháp thực hiện tốt công tác quản lý tài chính nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính tại Công Ty Cổ Phần Bê Tông Và
Xây Lắp Công Nghiệp.
Kết Luận.
Để hoàn thành chuyên đề thưc tập tốt nghiệp trên em đã được sự hướng
dẫn tận tình chu đáo của PGS.TS Phan Kim Chiến.
Vì trình độ còn nhiều hạn chế, mặt khác thời gian thực hiện chuyên đề
khá ngắn, tuy em đã rất cố găng nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong trường.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
Xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo trường ĐH KTQD, đặc biệt là
PGS.TS Phan Kim Chiến và lãnh đạo cùng nhân viên Công Ty Cổ Phần Bê
Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp đã giúp đỡ em hoàn thành bài chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội ngày 06/05/2008
Sinh Viên: Nguyễn Bính Dần
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH, QUẢN LÝ TÀI

CHÍNH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BÊ TÔNG VÀ XÂY LẮP
CÔNG NGHIỆP
1.1: Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.1: Khái niệm
Tài chính doanh nghiệp một cách tổng quát là quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế.
1
Các quan hệ tài chính chủ yếu bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước: Nhà nước là chủ thể rất quan
trọng trong nền kinh tế, một mặt nhà nước đóng vai trò là một chủ thể kinh tế
hoạt động độc lập vì mục đích riêng, mặt khác nhà nước đóng vai trò trung
tâm điều phối hoạt động kinh tế. Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước thể
hiện mặt tổng thể của nhà nước, chủ yếu phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện
nghĩa vụ thuế cho nhà nước, và khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Bất kỳ doanh nghiệp
nào hoạt động kinh doanh đều có quan hệ với thị trường tài chính. Đây là mối
quan hệ cơ bản và quan trọng của doanh nghiệp, quan hệ này được thể hiện
thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Nguồn vốn kinh
doanh là yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thông
qua thị trường tài chính doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn để đáp ứng các
nhu cầu về vốn ngắn hạn, mặt khác doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu để đáp ứng các nhu cầu vốn dài hạn. Thị trường tài chính còn
thực hiện chức năng cất giử tiền tệ, đồng thời còn thực hiện chức năng thanh
1
Trích dẩn giáo trình Tài Chính Doanh Nghiệp PGS TS Lưu Thị Hương-PGS TS Vủ Duy Hào NXB ĐH
Kinh Tế Quốc Dân 2006. Trang 8,9.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
toán thay doanh nghiệp trong các giao dịch giữa doanh nghiệp với các chủ thể
khác.

Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh tế quốc
dân doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị
trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường lao động. Thông qua các thị trường này
doanh nghiệp có thể mua sắm máy móc, thiết bị, tuyển dụng lao động củng
như thoả mản các nhu cầu dịch vụ khác... Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp cân
đối nguồn lực của mình để đầu tư một cách hiệu quả nhất. Mặt khác mối quan
hệ tài chính ở đây còn thể hiện thông qua việc doanh nghiệp cung cấp các
hàng hoá và dịch vụ của mình cho các doanh nghiệp khác. Các dòng hàng hoá
và dịch vụ vào và ra là cơ sở cho dòng tiền ra và vào tương ứng.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa
quyền sử dụng vốn và quyền sở hửu vốn. Việc cân đối hợp lý dòng tiền trong
nội bộ doanh nghiệp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt
hiệu quả cao nhất. Các mối quan hệ này thể hiện thông qua rất nhiều chính
sách của doanh nghiệp như: Chính sách phân phối thu nhập, chính sách về cơ
cấu vốn, về chi phí, chính sách đầu tư...
1.1.2: Cơ sở hình thành và sự phát triển ngày một đa dạng quan hệ tài chính
trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế quốc dân có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong
các lĩnh vực khác nhau, trong mổi doanh nghiệp như vậy thì quá trình hoạt
động cũng có sự khác biệt. Điều đó tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ và tính
chất hoạt động của doanh nghiệp. Cho dù có sự khác biệt như vậy tuy nhiên
có thể khái quát những nét chung nhất của doah nghiệp bằng quá trình chuyển
đổi hàng hoá và dịch vụ đầu vào và hàng hoá dịch vụ đầu ra. Để có quá trình
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
đó doanh nghiệp phải có một lượng tài sản nhất định, và lượng tài sản đó sẽ
được chu chuyển thông qua quá trình nêu trên.
Các hàng hoá và dịch vụ đầu vào (yếu tố sản xuất) là các hàng hoá và dịch
vụ mà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất- kinh
doanh. Các hàng hoá và dịch vụ đầu vào sẽ được kết hợp với nhau để hình

thành nên sản phẩm đầu ra, đây có thể là thành phẩm hoặc có thể là bán thành
phẩm tuy nhiên nó được doanh nghiệp xác định là sản phẩm và được cung
cấp trên thị trường. Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giử có một loại
tài sản đặc biệt - đó là tiền, tài sản này là trung gian cho mọi hoạt động trao
đổi của doanh nghiệp. Sự dịch chuyển giữa các hàng hoá và dịch vụ tương
ứng sẽ là sự dịch chuyển tiền giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Như vậy tương ứng với các dòng vật chất đi vào (hàng hoá dịch vụ đầu
vào) sẽ là dòng tiền đi ra, ngược lại tương ứng với các dòng vật chất đi ra
( hàng hoá và dịch vụ đầu ra) sẽ là các dòng tiền đi vào. Đây chính là cơ sở
của các quan hệ tài chính. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc
với thị trường cung cấp hàng hoá dịch vụ đầu vào, hoặc với thị trường phân
phối tiêu thụ các hàng hoá dịch vụ đầu ra và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh
nghiệp được phát sinh từ chính quá trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định
sự vận hành của sản xuất và làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Hoạt động của doanh nghiệp luôn có tính mục đích, có thể là lợi nhuận, giá
trị gia tăng noặc những giá trị lợi ích nhất định. Về cơ bản người ta quan tâm
đến giá trị gia tăng mà tiền là công cụ quy đổi để đánh giá. Do đó tài chính
doanh nghiệp đóng vai trò to lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp bao gồm các quan hệ tài chính giữa
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
doanh nghiệp với các chủ thể khác, hoặc trong nội bộ doanh nghiệp. Các quan
hệ này đặc trưng bởi dòng tiền đi ra và đi vào tương ứng với dòng hàng hoá
và dịch vụ đi vào và đi ra. Trong một giai đoạn nhất định hiệu quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh phản ánh thông qua số dư của dòng tiền, điều đó
phản ánh lỗ lãi trong hoạt động của doanh nghiệp.
Quản lý tài chính giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, vì nó quyết định trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và nó có tác động chi phối đến các hoạt động quản lý

khác. Chính vì vậy, có thể nói hiệu quả của hoạt động quản lý tài chính quyết
định sự độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp.Một khi công tác quản lý tài
chính được tổ chức tốt nó không chỉ đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh
cho doanh nghiệp mà còn đem lại lợi ích cho các đối tác, bạn hàng hay
rộng hơn là đem lại lợi ích kinh tế xã hội trên phạm vi toàn quốc gia.
1.1.4. Các tỷ lệ và chỉ tiêu tài chính cơ bản trong tài chính doanh nghiệp.
1.1.4.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ
tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm
các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Hệ số thanh toán tổng quát =
Hệ số <1 là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bị
mất toàn bộ, tổng số tài sản hiện có không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải
thanh toán
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
Hệ số thanh toán tạm thời =
Hệ số thanh toán tạm thời thể hiện mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ
ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh =
Hệ số thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ ngay, không dựa
vào việc phải bán vật tư hàng hoá
1.1.4.2. Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
Các doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ trọng các loại vốn theo xu hướng hợp
lý (kết cấu tối ưu). Nhưng kết cấu này lại luôn bị phá vỡ do tình hình đầu tư.
Vì vậy nghiên cứu các hệ số nợ, hệ số tự tài trợ sẽ cung cấp cho các nhà
hoạch định chiến lược tài chính một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài
của doanh nghiệp.
Hệ số nợ =
Hệ số nợ là một chỉ tiêu tài chính phản ánh trong một đồng vốn hiện nay
doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vốn vay nợ.

Tỷ suất tự tài trợ = = 1 - Hệ số nợ
Tỷ suất tự tài trợ là một chỉ tiêu tài chính đo lường sự góp vốn của chủ
sở hữu trong tổng số vốn hiện có của doanh nghiệp.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
1.1.4.3. Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động
Các chỉ tiêu này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một
doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh
dưới các loại tài sản khác nhau.
Số vòng quay hàng tồn kho =
Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân
luân chuyển trong kỳ
Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá
càng tốt
=
Phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho.
Vòng quay các khoản phải thu =
Phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh
nghiệp.
Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản thu nhanh là tốt.
Kỳ thu tiền trung bình =
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản
phải thu.
Vòng quay vốn lưu động =
Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được
mấy vòng.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
=
Số ngày một vòng quay vốn lưu động phản ánh trung bình một vòng
quay hết bao nhiêu ngày.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =

Hiệu suất sử dụng vốn cố định phản ánh cứ đầu từ trung bình 1 đồng vào
vốn cố định thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
1.1.4.4. Nhóm các chỉ số sinh lời
Các chỉ số sinh lời luôn luôn được các nhà quản trị tài chính quan tâm.
Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một kỳ nhất định, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh doanh, và còn là
một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính
trong tương lai.
Doanh lợi doanh thu =
Tỷ suất doanh lợi doanh thu thể hiện trong 1 đồng doanh thu mà doanh
nghiệp thực hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận.
Doanh thu tổng vốn =
Tỷ suất doanh lợi tổng vốn thể hiện 1 đồng vốn bình quân được sử dụng
trong kỳ tạo ra mấy đồng lợi nhuận.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Doanh lợi vốn chủ sở hữu thể hiện 1 đồng vốn mà chủ sở hữu đầu tư
mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
Căn cứ vào 4 nhóm chỉ tiêu tài chính sử dụng trong phân tích hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, người phân tích có thể đánh giá tình hình tài
chính nói riêng và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Việc
tiến hành lựa chọn và sắp xếp các chỉ tiêu tuỳ theo góc độ nghiên cứu của nhà
phân tích và lập bảng để so sánh đánh giá.
1.2: Nội dung cơ bản về quản lý tài chính
1.2.1: Bản chất quản lý tài chính doanh nghiệp.
2
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn phản ánh
các quan hệ tài chính phát sinh, để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đạt hiệu quả mang lại những lợi ích nhất điịnh cho doanh nghiệp đòi
hỏi doanh nghiệp phải xử lý tốt các mối quan hệ này. Để làm được điều đó

doanh nghiệp phải giải quyết tốt ba vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất : Trên cơ sở loại hình sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp
sẻ lựa chọn nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp. Đây chính
là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và củng là cơ sở để dự toán
vốn đầu tư.
Thứ hai: Lựa chọn nguồn vốn đầu tư có thể khai thác được và dự báo lượng
vốn có thể khai thác trong từng giai đoạn nhất định.
Thứ ba: Nhà quản lý tài chính phải xác định hoạt động tác nghiệp của mình
như thế nào? Đây chính là quyết định tài chính nhắn hạn và có mối quan hệ
chặt chẻ tới quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Trên đây là ba vấn đề quan trọng nhất và cốt lỏi nhất trong tài chính doanh
nghiệp. Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất là nghiên cứu cách thức
giải quyết ba vấn đề nêu trên.
2
Trích dẩn giáo trình Tài Chính Doanh Nghiệp PGS TS Lưu Thị Hương-PGS TS Vủ Duy Hào NXB ĐH
Kinh Tế Quốc Dân 2006. Trang 13,14,15..
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
Đối với mổi doanh nghiệp thì giữa sở hữu và quản lý luôn có sự khác biệt
nhất định, chủ sở hữu thường không phải là người trực tiếp quản lý mà thay
vào đó là các nhà quản lý được chủ sở hữu thuê làm đại diện cho mình. Trong
tình huống như vậy nhà quản lý chính là người phải trả lời cho ba vấn đề nêu
trên.
Doanh nghiệp để hoạt động vần có vốn để đầu tư vào các tài sản, muốn như
vậy doanh nghiệp phải giải quyết vấn đề vốn. Đó bao gồm vốn tự có của
doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu...gọi
chung là vốn dài hạn. Mặt khác doanh nghiệp cũng có thể huy động vốn ngắn
hạn, Đây thường là vốn vay tín dụng trong thời hạn ngắn thường là 1 năm.
Câu hỏi đặt ra cho nhà quản lý tài chính là nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao
nhiêu khi đả xét đến vấn đề huy động vốn? Giải đáp cho vấn đề này là dự
toán vốn đầu tư- đó là quá trình kế hoạch hoá và đầu tư dài hạn của doanh

nghiệp. Như vầy để đảm bảo nguyên tắc sinh lợi doanh nghiệp phải xác định
được dự án đầu tư mang tính khả thi và đạt hiệu quả sinh lợi. Điều đó có
nghĩa là đầu tư vào một dự án mà thu nhập mang lại cao hơn chi phí phải bỏ
ra, tức là giá trị hiện tại của dòng tiền do các tài sản mang lại phải lớn hơn chi
phí bỏ ra để hình thành các tài sản đó.
Nhà quản lý tài chính không phải chỉ quan tâm đến dòng tiền trong tương
lai mà dự án mang lại là bao nhiêu mà rất quan trọng khác là họ phải quan
tâm là thời gian để thu được khoản thu nhập đó-để xác định vấn đề này người
quản lý cần xác dịnh thời gian thu hồi vốn nội bộ.
Khi nhà quản lý xác định được vấn đề thứ nhất thì vấn đề lại đặt ra là có
được vốn bằng cách nào để đầu tư dài hạn? Chủ sở hửu sẻ là người bỏ ra một
phần vốn của mình để đầu tư gọi là vốn tự có của doanh nghiệp, ngoài ra nhà
quản lý tài chính còn phải huy động vốn từ nhiều kenh khác nhau dựa trên
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
tình hình cụ thể của doanh nghiệp và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp
đó.
Vấn đề quan trọng cuối cùng là nhà quản lý tài chính quản lý tài sản ngắn
hạn của doanh nghiệp như thế nào? Hoạt động quản lý tài sản ngắn hạn liên
quan chặt chẽ tới các dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ. Ngân quỹ là
một vấn đề vô cùng quan trọng của doanh nghiệp, nó đảm bảo khả năng chi
trả cho doanh nghiệp từ đó đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp, tránh
tình trạng xấu nhất xảy ra là sự phá sản của doanh nghiệp.
1.2.2. Đối tượng của quản lý tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền
của của tất cả các hao phí về mặt vật chất và về mặt lao động mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất
định.
3
- Phân loại chi phí sản xuất dựa trên lĩnh vực và địa điểm sữ dụng bao

gồm.
+ Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm chi phí tiền lương, tiền công, các
khoản tính nộp như quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ.
+ Chi phí sản xuất chung là chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản
xuất và kinh doanh, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát
sinh trong quá trình hoạt động.
+ Chi phí bán hàng là những chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ
hàng hoá.
3
Trích dẩn giáo trình Tài Chính Doanh Nghiệp PGS TS Lưu Thị Hương-PGS TS Vủ Duy Hào NXB ĐH
Kinh Tế Quốc Dân 2006. Trang 26.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm các chi phí cho bộ máy quản lý
và điều hành doanh nghiệp như: tiền lương và các khoản trích nộp của bộ máy
quản lý và điều hành, chi phí về công cụ và dụng cụ, khấu hao TSCĐ phục vụ
cho bộ máy quản lý chung của doanh nghiệp, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi
phí bằng tiền khác.
- Phân loại chi phí sản xuất dựa trên mối quan hệ tỷ lệ với khối lượng
hàng hoá tiêu thụ.
+ Chi phí cố định là những chi phí không thay đổi theo sự thay đổi của
khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
+ Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi theo sự thay đổi của khối lượng sản
phẩm tiêu thụ.
- Ngoài ra chi phí sản xuất kinh doanh còn được chia thành chi phí cơ
bản và chi phí chung.
+ Chi phí cơ bản là những khoản chi phí chủ yếu cần thiết cho quá trình
tiêu thụ sản phẩm kể từ lúc nhập sản phẩm cho đến giai đoạn tiêu thụ. + Chi
phí chung là những khoản chi phí không liên quan trực tiếp đến quá trình tiêu
thụ sản phẩm.
Để quản lý tốt chi phí của doanh nghiệp cần phải xem xét cơ cấu chi phí

và xu hướng thay đổi kết cấu chi phí.
Kết cấu chi phí sản xuất kinh doanh là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí
trong tổng số các chi phí sản xuất kinh doanh.
Những nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu chi phí là đặc điểm sản xuất
chung của từng loại doanh nghiệp, của từng ngành kinh tế, loại hình có quy
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
mô sản xuất kinh doanh, điều kiện tự nhiên, công tác quản lý và tiêu thụ sản
phẩm.
1.2.2.2. Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
* Thu nhập trong năm tài chính của doanh nghiệp: Thu nhập của doanh
nghiệp là toàn bộ giá trị tài sản quy ra tiền mà doanh nghiệp thu được từ hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
+ Thu nhập bán hàng là toàn bộ các khoản tiền thu nhập về tiêu thụ sản
phẩm và lao vụ từ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một bộ phận
chủ yếu có thể chiếm được tỷ trọng lớn trong toàn bộ tổng số thu nhập của
doanh nghiệp.
+ Thu nhập từ các hoạt động tài chính bao gồm các khoản thu do hoạt
động đầu tư tài chính, kinh doanh về vốn mang lại như các hoạt động mua
bán cổ phiếu, trái phiếu, cho vay vốn...
+ Thu nhập khác (còn gọi là thu nhập bất thường, thu nhập đặc biệt) VD:
thu nhập từ việc thanh lý TSCĐ, các khoản nợ vắng chủ hay nợ không có
người đòi nợ.
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ
+ Doanh thu từ hoạt động kinh doanh: là tiền bán sản phẩm, hàng hoá
dịch vụ sau khi đã từ các khoản tiền chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán,
hàng bán bị trả lại, thu từ phần trợ giá của Nhà nước, nếu doanh nghiệp có
cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
+ Doanh thu từ các hoạt động dịch vụ khác: Doanh thu từ các hoạt động
mua bán trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, liên doanh, liên kết,

thu lãi tiền gửi, lãi từ tiền đã cho vay các khoản thu từ lãi...
Doanh nghiệp được hưởng sự trợ giá, trợ cấp của Nhà nước nếu thực
hiện các nhiệm vụ của Nhà nước giao về sản xuất hay cung ứng các dịch vụ
về quốc phòng, an ninh, cung cấp các sản phẩm dịch vụ theo giá cả của nhà
nước mà thu nhập không đủ bù đắp chi phí cũng được hưởng sự trợ cấp, trợ
giá của nhà nước.
1.2.2.3. Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp của doanh nghiệp là số tiền chênh lệch giữa
thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được số thu nhập đó từ
các hoạt động của doanh nghiệp mang lại.
+ Lợi nhuận hoạt động kinh doanh là khoản tiền chênh lệch giữa thu
nhập của hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động kinh doanh.
Nếu các hệ số này thấp hơn hệ số chung của toàn ngành, chứng tỏ doanh
thu không đảm bảo, bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh
nghiệp cao hơn các ngành khác.
Những phương hướng cơ bản để tăng lợi nhuận và nâng cao tỷ suất lợi
nhuận của doanh nghiệp là:
+ Phấn đấu giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm
+ Doanh nghiệp phải tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ uy tín với khách hàng.
- Phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp
+ Yêu cầu của phân phối lợi nhuận doanh nghiệp.
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
Doanh nghiệp phải giải quyết mối quan hệ hài hoà giữa nhà nước, doanh
nghiệp và công nhân viên về mặt lợi ích, làm các nghĩa vụ, trách nhiệm đối
với nhà nước theo pháp luật quy định như nộp thuế thu nhập, các khoản lệ
phí...
Doanh nghiệp phải dành phần lợi nhuận để lại thích đáng để giải quyết
của nhu cầu kinh doanh của mình chú trọng đảm bảo lợi ích của các thành
viên trong đơn vị mình.

+ Nội dung phân phối lợi nhuận doanh nghiệp
Tổng số lợi nhuận thực hiện cả năm của doanh nghiệp sau khi nộp thuế
thu nhập theo luật định được phân phối như sau:
Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Nếu doanh nghiệp bị
lỗ thì không phải nộp về khoản này. Nếu lợi tức sau thuế không đủ nộp tiền
thu sử dụng vốn theo mục đích quy định thì doanh nghiệp phải nộp toàn bộ
lợi tức sau thuế.
Doanh nghiệp phải trả các khoản tiền bị phạt như: tiền phạt do vi phạm
kỷ luật thu nộp ngân sách, tiền phạt vi phạm hành chính, phạt vi phạm hợp
đồng, phạt vì nợ quá hạn, các khoản chi phí hợp lệ chưa được trừ khi xác định
thuế lợi tức phải nộp.
Trừ các khoản lỗ không được trừ vào lợi tức trước thuế
Nhưng doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù như ngân
hàng, bảo hiểm... mà pháp luật quy định phải trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi
tức, thì sau khi trừ các khoản nêu trên, doanh nghiệp được trích lập các quỹ
đó theo tỷ lệ do nhà nước quy định.
1.2.3. Phương pháp và công cụ của quản lý tài chính doanh nghiệp17
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
1.2.3.1. Phương pháp để quản lý tài chính
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó công tác quản lý tài chính là một
khâu rất quan trọng trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Điều đó phản
ánh một phương pháp quản lý khoa học và mang tính logic cao. Để đánh giá
tình hình tài chính của một doanh nghiệp có thể có nhiều phương pháp phân
tích, trong đó phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến là phương
pháp tỷ lệ. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện ngày
càng được bổ sung hoàn thiện.
Thứ nhất nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp
đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc
đánh giá một tỷ lệ của một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp.

Thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học phổ biến cho phép tích luỹ dữ
liệu, thúc đẩy nhanh quá trình tính toán các tỷ lệ.
Thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu
quả số liệu, phân tích hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hay
theo từng giai đoạn.
Các tỷ lệ chủ yếu trong phân tích tài chính.
* Tỷ lệ về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để
đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
* Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Phản ánh mức độ ổn
định, tự chủ tài chính cũng như khả năng nợ vay của doanh nghiệp.
* Tỷ lệ về khả năng hoạt động: Đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên,
nguồn lực của doanh nghiệp
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
* Tỷ lệ về khả năng sinh lời: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
tổng hợp nhất của một doanh nghiệp
1.2.3.2. Công cụ để quản lý tài chính
Công tác quản lý tài chính là một khoa học quản lý mà đối tượng của nó
là các phạm trù của tài chính doanh nghiệp, quản lý tài chính có phương pháp
quản lý do đó nhất định có công cụ quản lý. Đó là các sổ sách kế toán được
ghi chép chính xác cùng với báo cáo tài chính định kỳ và một số kỹ thuật
phân tích báo cáo. Những công cụ này sẽ không cho các câu trả lời sẵn đối
với các vấn đề tài chính nhưng chúng sẽ giúp đề ra những quyết định đúng
dựa trên các dữ liệu và nguyên tắc quản lý kinh doanh đã được kiểm nghiệm.
Sổ sách kế toán là những công cụ cơ bản trong quản lý tài chính. Những
báo cáo mà người quản lý tài chính làm ra có thể không chính xác hay không
đầy đủ hơn so với các sổ sách kế toán mà họ sử dụng để tổng hợp. Sổ sách kế
toán có thể đơn giản hoặc phức tạp tuỳ theo mức độ, tính chất của nghề kinh
doanh nhưng luôn cần sắp xếp một cách có tổ chức và nhất quán. Trong thời
đại ngày nay, tuy hệ thống máy vi tính phát triển, có nhiều chương trình kế
toán được viết ra giúp đỡ rất lớn cho kế toán viên nhưng ngay từ bước đầu

tiên vẫn cần có sổ sách kế toán tốt. Đây chính là tiền đề, là nền móng vững
chắc cho mọi việc cải tiến công tác quản lý tài chính.
Ngoài sổ sách kế toán, các báo cáo tài chính, tổng kết tài sản, bảng quyết
toán lãi-lỗ và một số chỉ tiêu tài chính cũng giúp ta hiểu rõ hơn về tình hình
hoạt động của doanh nghiệp.
1.2.4: Các nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính doanh nghiệp là một quá trình quản lý mà đối tượng quản
lý của nó là các phạm trù thuộc tài chính doanh nghiệp, do đó phải dựa trên
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
các nguyên tắc quản lý nhất định. Các doanh nghiệp dù hoạt động trong các
lỉnh vực khác nhau, quy mô tổ chức khác nhau tuy nhiên hoạt động tài chính
về cơ bản là thống nhất. Do đó chúng ta có thể áp dụng các nguyên tắc quản
lý tài chính doanh nghiệp cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên tuỳ thuộc những
điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mà việc áp dụng các nguyên tắc này sẽ có
sự khác biệt nhất định.
Nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận: Quản lý tài chính phải dựa
trên quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng có mối
quan hệ tỷ lệ thuận, có nghĩa là một dự án đầu tư có mức đọ rủi ro cao thì hy
vọng dự án đó sẽ mang lại lợi nhuận cao và ngược lại. Tuy nhiên mối quan hệ
này đòi hỏi sự đánh đổi, nghĩa là nhà đầu tư phải chấp nhận tổn thất khi rủi ro
xảy ra. Việc áp dụng nguyên tắc này là khác nhau giữa các doanh nghiệp khác
nhau, về cơ bản nguồn lực tài chính của doanh nghiệp đồng thời khả năng
nắm bắt thời cơ là những yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chon sự đánh
đổi.
Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền: Một lượng tiền nhất định tại một thời
điểm nhất định có thể sữ dụng để đầu tư vào một dự án, củng có thể quy đổi
ra những hàng hoá và dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên tại một thời điểm khác thì giá
trị thực tế của nó sẽ không thể như cũ, cụ thể bằng các hàng hoá và dịch vụ sẽ
không thể như củ. Sở dĩ xảy ra điều đó bởi vì theo thời gian lạm phát sẽ làm
thay đổi giá trị của đồng tiền. Do đó để đo lường giá trị tài sản của chủ sở hửu

cần sử dụng khái niệm giá trị thời gian của tiền, tức là phải đưa lợi ích và chi
phí của dự án về cùng một thời điểm, thường là thời điểm hiện tại.
Nguyên tắc chi trả: Thông thường các kết quả báo cáo kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp chỉ phản ánh thực trạng lổ lải trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên trong thực tế cái mà doanh nghiệp cần quan tâm không chỉ
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
có như vậy, đáng quan tâm hơn cả là các dòng tiền chứ không phải lợi nhuận.
Trên thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi doanh
nghiệp phải đảm bảo lượng tiền mặt cho việc chi trả, mặt khác doanh nghiệp
củng phải quan tâm đến dòng tiền vào, đây chính là cơ sở để doanh nghiệp có
thể cân đối các dòng tiền một cách hợp lý. Dòng tiền ra và dòng tiền vào được
tái đầu tư phản ánh tính chất thời gian của lưọi nhuận và chi phí.
Nguyên tắc sinh lợi : Quyết định đầu tư của nhà quản lý tài chính dựa trên
cơ sở dòng tiền mà dự án đem lại,tức là quyết định cho một dự án đem lại
sinh lợi.Trong thị trường có mực độ cạnh tranh cao việc tìm được một dự án
mang lại nhiều lợi nhuận trong thời gian dài và ổn định là rất khó khăn do đó
nhà quản lý tài chính phải biết các dự án sinh lợi tồn tại như thế nào và ở đâu
trong môi trường cạnh tranh.Tuy nhiên đây là một hoạt động khó khăn và tính
khả thi không cao,do đó nhà đầu tư phải biết làm giảm tính cạnh tranh của thị
trường thông qua nhiều công cụ khác nhau như công cụ chi phí,sản phẩm thay
thế,dịch vụ hoàn hảo ...
Mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp đều là các giá trị gia tăng, do đó
việc đảm bảo nguyên tắc sinh lợi là rất cần thiết.nó không chỉ đảm bảo cho sự
tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp mà còn là tiền đề cho sự phát triển bền
vững và mở rộng về quy mô của doanh nghiệp.
Nguyên tắc thị trường có hiệu quả : Thị trường có hiệu quả là thị trường mà
ở đó giá trị của các tài sản tại các thời điểm khác nhau đều phản ánh đầy đủ
các thông tin một cách chính xác và công khai. Đây là một nguyên tắc rất
quan trọng vì tính chính xác và công khai của thông tin đảm bảo giá trị thực tế
của thị giá cổ phiếu và các thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu khác nhau.

Trong nền kinh tế thị trường phát triển ở mức độ cao thì thông tin sẻ được
công khai và mức độ chính xác của thông tin là rất cao. Do đó sự hoàn hảo
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
của thị trường được đảm bảo khá cao. Tuy nhiên vấn đề lại là trái ngược trong
nền kinh tế thị trường còn nhiều bất cập, khi đó thông tin dể bị bưng bít và
tính chính xác là không cao. Sẽ là rất khó để đánh giá giá trị thực tế tài sản
của doanh nghiệp củng như tiềm lực thực tế của doanh nghiệp khi giá của cổ
phiếu phát hành biến động.
Nguyên tắc gắt kết lợi ích của nhà quản lý với lợi ích của các cổ đông: Nhà
quản lý chính là nhười chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hoá tài chính,
quản lý ngân quỷ, chi tiêu cho đầu tư và kiểm soát. Do đó quyền lực và trách
nhiệm của nhà quản lý trong doanh nghiệp hay một tổ chức là rất cao. Thẩm
quyền tài chính củng chủ yếu do nhà quản lý cấp cao nắm giử ít khi được giao
phó hay uỷ quyền cho cấp giới.
Các hoạt động và quyết định tài chính của nhà quản lý tài chính đưa ra đều
vì mục tiêu của doanh nghiệp. Đó là hàng loạt các mục tiêu mang tính sống
còn của doanh nghiệp như sự tồn tại và phát triển, sự yếu kém tài chính dẩn
đến phá sản, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận...tuy nhiên không phải
lúc nào các quyết định tài chính của nhà quản lý củng mang lại sự hài lòng
cho các cổ đông dù cho quyết định đó vẩn đảm bảo sự phát triwnr của doanh
nghiệp. Sự phù hợp còn tuỳ thuộc vào mục đích của các cổ đông khi họ bỏ
vốn để trở thành người sở hửu doanh nghiệp. Như vậy quyết dịnh của nhà
quản lý phải dựa trên hai khía cạnh đó là quyết định của nhà quản lý có sát
với mục tiêu của các cổ đông hay không, và thứ hai đó là nhà quản lý liệu có
bị sa thải khi không theo đuổi mục tiêu của các cổ đông hay không?
1.3. Sự cần thiết hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Công Ty Cổ Phần Bê
Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
1.3.1. Sự phát triển và hội nhập nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam với
nền kinh tế thế giới.

Trong quá trình hình thành và từng bước tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh sẻ hình thành nhửng mối quan hệ giửa doanh nghiệp với các chủ thể
kinh tế khác, nền kinh tế càng phát triển cao thì mối quan hệ trên càng trở nên
phức tạp và việc xử lý nhửng mối quan hệ đó củng trở nên khó khăn hơn
trong đố đặc biệt cần kể tới là nhửng mối quan hệ tài chính. Trên thế giới hiện
nay một số quốc gia có nền kinh tế phát triển cao có được thị trường tài chính
phát triển rất cao và các quan hệ tài chính vô cùng phức tạp. Mặt khác trong
thời đại công nghệ thông tin ngày càng phát triển và đạt đến một trình độ rất
cao như hiện nay thì ứng dụng của nó vào hoạt động tài chính doanh nghiệp
ngày càng phổ biến, việc xử lý các mối quan hệ tài chính được ứng dụng rất
nhiều.
Doanh nghiệp khi đi vào hoạt động và phát triển sẻ có rất nhiều vấn đề tài
chính doanh nghiệp phát sinh, trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế Việt
Nam có sự phát triển và hội nhập nhanh chóng cùng nền kinh tế thế giới làm
cho thị trường tài chính có sự phát triển vượt bậc, làm cho việc giải quyết các
vấn đề càng khó khăn hơn.
Quan hệ tài chính giửa doanh nghiệp với nhà nước chủ yếu thể hiện thông
qua nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước. Đây không phải là một hoạt động đơn
thuần và đơn giản, ngược lại nó vô cùng phức tạp. Việc hoạch toán kế toàn
phải dựa trên quy định chung của nhà nước tất nhiên là tuỳ thuộc vào lỉnh vực
hoạt động của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế Việt Nam có sự hội nhập mạng
mẻ với thị trường thế giới quan hệ giửa doanh nghiệp với nhà nước trong lỉnh
vực tài chính là phức tạp hơn rất nhiều. Lúc này việc xác định mức thuế củng
tuỳ thuộc vào lỉnh vực kinh doanh củng như các điều khoản về thuế mà nhà
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
nước đả cam kết trong các hiệp định thương mại, trong các điều khoản gia
nhập các tổ chức kinh tế xã hội trên thế giới.
Một nền kinh tế phát triển cao sẻ phản ánh tính đa phương hoá đa dạng hoá
các loại hình donh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam hiện này đang có sự phát
triển mạng mẻ các doanh nghiệp có vốn liên doanh nước ngoài và các doanh

nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy quan hệ giửa doanh nghiệp và
các tổ chức khác xét trên khía cạnh tài chính càng trở nên đa dạng và phức tạp
hơn. Các dòng tiền luôn chuyển không chỉ trong ranh giới nội bộ quốc gia mà
còn với các nước khác trên thế giới. Quan hệ tài chính lúc này đòi hỏi nhửng
vấn đề khó khăn hơn và phức tạp hơn. Mặt khác doanh nghiệp sẻ có nhiều
thuận lợi trong quá trình huy động vốn tuy nhiên tính đa dạng hoá cao cùng
tiềm ẩn rất nhiều áp lực cạnh tranh từ nhiều phía hơn.
1.3.2. Sự tăng trưởng cả quy mô lẫn chất lượng đảm bảo cho sự phát triển dài
hạn của Công Ty Cổ Phần Bê Tông Và Xây Lắp Công Nghiệp.
Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp có nhiều yếu tố tuy nhiên có thể
nói quản lý tài chính hiêu quả là một khâu vô cùng quan trọng, là cơ sở cho
các quyết định khác của doanh nghiệp. Vốn luôn là vấn đề mà doanh nghiệp
quan tâm hàng đầu bao hàm cả hai nội dung cơ bản là huy động vốn và sử
dụng vốn. Huy động vốn là điều kiện cần để doanh nghiệp tiến hành triển
khai các dự án nhằm mục tiêu đả đề ra, tuy nhiên sử dụng vốn hiệu quả lại là
điều kiện đủ để đảm bảo nguyên tắc sinh lợi cho doanh nghiệp. Hiệu quả kinh
doanh ổn định và lâu dài là tiền đề để doanh nghiệp tái đầu tư, mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh, từng bước phát triển tiến tới mục tiêu chiến lược mà
doanh nghiệp đề ra.
Sự phát triển quy mô phản ánh thông qua các chỉ tiêu phản ánh tiềm lực của
doanh nghiệp bao gồm: Mở rộng quy mô nhà máy phân xưởng, đầu tư máy
Nguyễn Bính Dần QLKT 46A
móc trang thiết bị và cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp, đội ngủ nhân lực nâng
cao cả quy mô lẩn trình độ chuyên môn, được đào tạo và củng cố thường
xuyên nhằm tiến tới một nguồn nhân lực đầy năng lực và mang tính ổn định
cao, tham gia vào nhiều lỉnh vực kinh doanh khác nhau nhằm tiến tới đa
ngành nghề đa lỉnh vực...
Sự phát triển bền vững của doanh nghiệp lại được phản ánh thông qua các
tiêu chí như trình độ ,năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Trình độ năng
lực sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự gia tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp

tương ứng với việc đảm bảo nguồn thu nhập cao và mang tính chất ổn định
của cán bộ nhân viên toàn thể doanh nghiệp.

×