Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.36 KB, 34 trang )


TRƯỜNG
KHOA…………………

………… o0o…………





ĐỀ ÁN




Giải pháp nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của
hàng dệt may Việt Nam trên
thị trường quốc tế

1
LỜI MỞ ĐẦU

Từ hơn một thập kỷ nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá
trở thành một xu thế khách quan và diễn ra nhanh chóng, vừa tạo cơ hội cho các
nền kinh tế vừa tăng sức ép cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật
kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường, là công cụ để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo
dựng nên những doanh nghiệp thành đạt đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế.
Vì thế doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh
cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may là ngành có tốc độ phát triển nhanh


chóng sản phẩm dệt may luôn chiếm tỷ trọng lớn và đứng vị trí thứ hai sau dầu thô
của nước ta, có khả năng thâm nhập không chỉ những thị trường quy định hạn
ngạch mà cả những thị trường không có hạn ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm
30% so với năm 2002 là một mốc son mới của ngành dệt may, trong vòng 3 năm
kim ngạch xuất khẩu tăng gần hai lần.
Do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng
nhiều lao động, là ngành hầu hết các nước đang phát triển tham gia nên mức độ
cạnh tranh càng cao.
Từ năm 1995 đến nay, với những lợi thế so sánh về lao động, chi phí, hàng dệt
may Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh được thị trường quốc tế, trong đó có ba thị
trường lớn: thị trường EU, thị trường Nhật Bản và thị ttrường Mỹ. Nhưng chỉ còn
chưa đầy chín tháng nữa Hiệp định hàng dệt may trong khuôn khổ WTO sẽ được
thực hiện hoàn toàn. Thương mại thế giới bước vào giai đoạn mới - giai đoạn tự do
hoá thương mại hàng dệt may. Khi hàng dệt may thế giới( ATC) chấm dứt, chuyển
từ chế độ bảo hộ bằng hạn ngạch sang cạnh tranh thực sự giữa các nước xuất khẩu
dệt may trong tổ chức thương mại thế giới thì cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng gay
gắt. Hơn thế nữa sức cạnh tranh của phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam còn
yếu cả về chất lượng và giá cả. Cánh cửa duy nhất đảm bảo thành công là nâng cao

2
sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế vì đó là vấn đề
sống còn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu hàng dệt may Việt Nam giành thắng lợi trong
cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh và
đưa ra các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh đối với hàngdệt may Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Đó cũng là lý do mà em chọn đề tài: “ Giải pháp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế”.
Nội dung của đề án:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, đề án gồm những phần chính sau
đây:
Chương I: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh.
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng
dệt may Việt Nam trên thị trưòng quốc tế.
Do trình độ còn hạn hẹp và thời gian hạn chế nên đề án không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định.Mong được sự góp ý, điều chỉnh, bổ sung của thầy
Nguyễn Đình Trung để đề án của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin cảm
ơn thầy.







3
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH

I - Khái niệm
1. Cạnh tranh là gì?
Ngày nay, hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thừa nhận trong mọi
hoạt động kinh tế đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là môi
trường, động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các doanh nghiệp nói riêng mà còn
là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Một trong những khó khăn là không có một sự đồng nhất trong quan niệm về cạnh

tranh. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho tất cả các doanh
nghiệp, các ngành, các quốc gia và cả khu vực liên quốc gia.
Khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công
nghiệp chỉ cần xét đến tiềm năng sản xuất một hàng hoá hay dịch vụ ở một mức
giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp.
Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định
nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia như sau:
“Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó dưới các điều kiện thị trường
tự do và công bằng , có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi
hỏi của các thị trường quốc tế , đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực
tế của nhân dân nước đó”.
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là:
“Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống
nghĩa là đạt được các tỉ lệ tăng trưởng kinh tế kinh tế cao được xác định bằng sự
thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội(GDP) trên đầu người theo thời gian”.

4
Diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp các doanh
nghiệp , ngành và quốc gia như sau :
“ Khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Định nghĩa trên phù hợp vì nó phản ánh khả năng cạnh tranh quốc gia nằm
trong mối liên hệ trực tiếp với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp và lợi
thế cạnh tranh trở thành một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh tế .
2. Khả năng cạnh tranh là gì ?
Thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện
thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các
chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh… Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một sự
nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm khả năng cạnh

tranh ở cả cấp quốc gia lẫn cấp ngành, công ty, xí nghiệp. Lý do cơ bản là ở chỗ có
nhiều cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Đối với một số người, khả năng cạnh tranh chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể
hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực và trong mối quan hệ thương mại.Trong khi đó,
đối với những người khác, khái niệm khả năng cạnh tranh lại bao gồm khả năng
sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế và yêu
cầu bảo đảm mức sống cao cho các công dân trong nước .
Trong cuốn sách nổi tiếng “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”của M.Porter
đã cho rằng chỉ có năng suất là chỉ số có ý nghĩa khi nói về khả năng cạnh tranh
quốc gia.
Còn Krugman(1994) thì lại cho rằng : Khái niệm về khả năng cạnh tranh chỉ
phù hợp với cấp độ công ty, đơn giản là vì nếu một công ty nào đó không đủ khả
năng bù đắp chi phí của mình, thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản.
II .Phân loại khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gồm khái niệm cạnh tranh quốc gia, khái
niệm cạnh tranh doanh nghiệp và khái niệm cạnh tranh của hàng hoá và dịch

5
vụ.Trong đó, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ là nhiệm vụ trọng tâm
và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
1 . Khả năng cạnh tranh quốc gia
Đây là một khái niệm phức hợp, bao gồm các yếu tố ở tầm vĩ mô, đồng thời
cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong cả nước. Khả năng
cạnh tranh được định nghĩa là khả năng của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng
bền vững, thu hút được đầu tư bảo đảm ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống
của người dân .
2 . Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh

trong nước và quốc tế.
Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và dịch vụ.
Vì vậy mà có phân biệt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với khả năng cạnh
tranh của sản phẩm, dịch vụ.
3 . Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó
trên thị trường .
Giữa ba cấp độ khả năng cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có
khả năng cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh.
Ngựơc lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, môi trường
kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ
ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong
sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể
hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế , khả

6
năng cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho khả năng cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua khả
năng cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh doanh. Doanh nghiệp
có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khả năng
cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chính sách quốc gia, vào năng lực và hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp.
III - Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của dệt ma
y

Việt Nam
1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt

Nam
1.1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn
Một trong các yếu tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của ngành dệt may là
cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh hiện tại và đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
M.Porter- Giáo sư trường kinh doanh Havard nói: cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ
nói chung cũng có hình thức như một cuộc đua ngựa để giật giải, sử dụng các
chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng…”
Có thể nói khi xâm nhập vào thị trường dệt may thế giới đặc biệt là thị
trường EU, Nhật Bản, Mỹ bằng con đường xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh khổng
lồ và đáng gờm nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là Trung Quốc.
Trung Quốc giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản lượng sợi
bông, vải bông và sản phẩm may mặc và đứng thứ hai về sợi hoá học.
Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nước đứng
đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc. Kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may toàn cầu. Trung
bình kim ngạch xuất khẩu hàng may chiếm 20% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu
trong đó các thị trường truyền thống là: Nhật Bản, Hồng Kông, Mỹ, EU. Bốn thị
trường chính này chiếm trên 80% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Trung
Quốc năm 2002. Sau khi gia nhập WTO, đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng

7
may của Trung Quốc sẽ chiếm đến 47% thị trường may mặc của thế giới( theo dự
đoán của các chuyên gia nghiên cứu thế giới). Ngành dệt may của Trung Quốc là
một ngành có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường thế giới vì ngành này có
nhiều lợi thế rất lớn từ nguyên liệu bông, xơ, hóa chất, thuốc nhuộm đến máy móc
thiết bị sợi, dệt hoàn tất đều do các ngành sản xuất trong nước cung cấp cộng với
giá nhân công thấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc
đã làm cho ngành này phát triển nhanh chóng.
Bên cạnh Trung Quốc thì các đối thủ cạnh tranh khác như: Hàn Quốc, Đài

Loan, Thái Lan, Singapore, Philippines… là các nước xuất khẩu hàng may với kim
ngạch xuất khẩu cao hơn Việt Nam bởi họ tạo được nhiều lợi thế hơn so với các
sản phẩm hàng dệt may củaViệt Nam. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng may
của Thái Lan bằng 4 lần, Trung Quốc bằng hơn 25 lần của Việt Nam.
Ngoài ra, Ấn Độ, cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng là những nhà
sản xuất tơ lụa có tiếng mà các doanh nghịêp Việt Nam phải tính đến khi tham gia
vào thị trường khu vực và thế giới.
Rõ ràng đối với ngành dệt may Việt Nam có quá nhiều đối thủ cạnh tranh
nặng ký. Điều này làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thế giới
rất gay gắt và quyết liệt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư đúng mức về
mọi phương diện để trụ được một cách vững vàng trên thị trường thế giới.
12. Nhà cung ứng
Trong sản xuất dệt may , nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh
hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may
Việt Nam sử dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay ,tơ
tằm, xơ liber khác, các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm…trong đó quan
trọng nhất là bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Do không chủ động được nguồn nguyên liệu(80%% nguyên liệu sử dụng
cho ngành dệt may phải nhập từ nước ngoài)nên ngành dệt may Việt Nam phải
chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới. Mặt khác, nguồn
nguyên liệu phụ thuộc vào nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có

8
chức năng nhập và do nhiều đầu mối, thậm chí không phải ngành dệt may vẫn
đứng ra nhập và phân phối theo nhiều loại giá khác nhau, làm cho biến động giá
đầu vào khiến đầu ra không ổn định.Hiện nay phần lớn nguyên liệu sử dụng cho
ngành dệt may phải nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra còn nhập của một số nước
như:Thái Lan,Australia,Hàn Quốc,Pakistan…làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế
của ngành dệt may, gây nên tình trạng bị động trong điều hành sản xuất…
1.3. .Khách hàng

Thị trường được hiểu là những nhóm khách hàng. Quyền lực thương lượng
của nhóm khách hàng này xét về tổng thể là một trong những lực lượng cạnh tranh
cơ bản quyết định khả năng sinh lợi tiềm tàng của một ngành. Các khách hàng là
khác nhau, việc lựa chọn khách hàng là một yếu tố chiến lược.Sự lựa chọn khách
hàng có thể tác động mạnh đến tỉ lệ tăng trưởng của ngành và có thể giảm tới mức
tối thiểu quyền lực của khách hàng .
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực : thị trường có
hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.
Trong thị trường có hạn ngạch quan trọng nhất là thị trường EU.Thời gian
gần đây, việc xuất khẩu hàng dệt may vào EU trở nên khó khăn hơn vì kiểm tra
chất lượng gắt gao và phía EU gây sức ép đối với ta.
Mỹ là thị trường xuất khẩu dệt may rất hấp dẫn,có thể khai thác lợi thế từ
đặc điểm của thị trường Mỹ.Tuy nhiên vào thị trường Mỹ cần phải chú ý đến các
vấn đề như: quy dịnh rất khắt khe về nhãn hiệu, biểu tượng hàng may…
Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch quan trọng nhất. Nhưng trong thời gian
gần đây, xuất khẩu sang thị trường này cũng gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế
Nhật Bản vẫn tiếp tục suy thoái, làm giảm sức mua của người dân.
2 . Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam
2.1.Marketing
Marketing là thực hiện các công việc bao gồm việc định giá, xúc tiến bán
hàng, quảng cáo và phân phối giúp cho doanh nghiệp bán được hàng hoá và giữ

9
được vị trí trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt các doanh nghiệp
dệt may cần quảng bá sản phẩm hàng hóa của mình để tiêu thụ được sản phẩm trên
thị trường quốc tế. Xúc tiến rhương mại là vấn đề bức xúc của hoạt động xuất
khẩu, để đạt được hiệu quả cao, công tác nàyphải được đẩy mạnh ở cả 3 cấp: chính
phủ, các bộ, các cơ quan xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm khác hàng qua các biện pháp xúc

tiến xuất khẩu như: Internet, hội chợ, triển lãm, đại lý… Hợp tác liên kết mở văn
phòng đại diện thương mại tại các thị trường xuất khẩu. Việc định ra được các
chính sách Marketing thích hợp sẽ giúp cho các doanh nghiệp cạnh tranh với các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường để chiếm lĩnh và mở rộng được thị trường.
2.2 .Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định và ảnh hưởng tới sự thành bại của một
doanh nghiệp. Lao động của doanh nghiệp là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá
trình sản xuất. Doanh nghiệp sử dụng lao động có kỹ năng càng cao thì càng hiệu
quả và thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh hơn và chính xác hơn so với các lao
động có kỹ năng thấp. Do vậy nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển
lâu dài và bền vững. Các doanh nghiệp dệt may cần một đội ngũ lớn công nhân
lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã
cho đến giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cấp cao để đảm bảo hoạt động
có hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may đặc
biệt là trên thị trường quốc tế.
2.3 .Tài chính
Tài chính của các doanh nghiệp có thể tạo lập điểm mạnh hay điểm yếu.
Thực vậy, khả năng tài chính có thể ảnh hưởng đến khả năng của doanh nghiệp đối
với việc xây dựng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mà yêu cầu cần có
những khoản đầu tư thích hợp. Khả năng tạo lập vị thế tài chính của một doanh
nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp lập kế hoạch cho sự phát triển của nó như
thế nào theo cách nhìn của ngân hàng và các nhà đầu tư. Đối với ngành sản xuất
dệt may, do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử

10
dụng nhiều lao động nên mức độ cạnh tranh của ngành này rất cao. Do vậy,
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có nguồn lực về tài chính khá cao.
2.4 . Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả
và là môi trường trong đó tất cả các hoạt động tạo ra giá trị khác diễn ra. Trước hết,

cơ sở hạ tầng giúp cho doanh nghiệp có thể thúc đẩy, duy trì hiệu qủa trên phạm vi
doanh nghiệp và khuyến khích sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng trong việc
theo đuổi mục tiêu hiệu quả.
Các doanh nghiệp cầnphát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho
các bộ phận chức năng đạt được hiệu quả siêu ngạch, nâng cao khả năng cạnh
tranh cho các sản phẩm của doanh nghiệp .


















11
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT
MAY VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ

I – Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua

Ngành may Việt Nam thực sự khởi săc từ thập niên 90 và có tốc độ tăng
trưởng khá nhanh. Số liệu về tốc độ tăng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam
trên ba thị trường chủ yếu: Mỹ , EU và Nhật Bản đã phản ánh những cố gắng lớn
của ngành này trong hơn mười năm qua.
Hàng may Việt Nam xuất khẩu giai đoạn 1994-2000 sang thị ttrường Mỹ
chưa đáng kể , tốc độ tăng xuất khẩu đạt trung bình 52,6 % / năm. Nhưng với sự
mở đường của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì kim ngạch xuất khẩu
vào Mỹ đã tăng nhanh từ 49 triệu USD năm 2001 lên 975 triệu USD năm 2002 và
theo Hiệp định dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ vừa ký, hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt
may của Việt Nam năm 2003 ước đạt 1,7 tỷ USD và triển vọng tăng trưởng ổn
định trong những năm tới.
EU được coi là thị trường chính, khá quen thuộc của ngành may Việt Nam,
khi Việt Nam ký Hiệp định hàng Dệt- May vào năm 1992 thì từ năm 1993 đến
1997, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may đạt hơn 23%/ năm. Và hạn ngạch
giai đoạn 1998 -2000 tăng thêm 40% so với giai doạn trước và thoả thuận sơ bộ
cho giai đoạn 2003-2005 có mức tăng từ 50- 70% tuỳ theo nhóm hàng.Tuy nhiên,
2 năm 2001 và 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đang có xu
hướng giảm từ 617 triệu USD năm 2001 xuống còn 540 triệu USD năm 2000 (
giảm 12%)
Nhật bản là thị trường không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch xuất khẩu tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm 1994. Năm 1997, Việt Nam đã trở
thành một trong bẩy nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào Nhật Bản với thị ttrường
hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%. Nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt

12
may sang Nhật Bản đang trong chiều hướng giảm, năm 2000 đã đạt 619 triệu USD
tăng 5% so với năm trước nhưng năm 2001 giảm 0,5% còn 616 triệu USD và năm
2002 là 419 triệu USD, giảm 20%. Tuy nhiên, cũng như ở các thị trường khác,
hàng may Việt Nam cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng nhập khẩu của thị
trường này: năm 2001 tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam là 3,18%.

Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công
nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực
xuất khẩu. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta
không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chỉ
đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương
đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5% tức khoảng 160 triệu
USD/năm. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9
lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất
khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm
30% so với năm 2002 là một thắng lợi lớn của ngành dệt may. Nó không chỉ góp
phần đưa kim ngạch xuất khẩu nói nhung của cả nước tăng 20% mà còn tạo cơ sở
vững chắc cho sự tăng trưởng xuất khẩu trong những năm sau.
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực thị trường :
thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.Trong các thị trường xuất
khẩu đó thì ba thị trường quan trọng nhất là: thị trường Mỹ ,thị trường Eu và thị
trường Nhật Bản với tình hình xuất khẩu như sau:
1.Tình hình xuất khẩu sang thị trường Mỹ
1.1.Kim ngạch xuất khẩu
Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Hàng năm
Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 50-60 tỷ USD hàng may mặc và dệt. Kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ tăng dần lên qua các
năm, từ 19,74 triệu USD năm 1994 lên tới 26,34 triệu USD năm 1998 và đạt 49,57
triệu USD năm 2000. Năm 2002 con số này là 975 triệu USD và ước đạt 1,7 tỷ
USD năm 2003.Tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

13
xuất khẩu sang Mỹ lại có xu hướng giảm dần. Nếu năm 1998 chiếm 8,4% sang Mỹ
thì đến năm 1999 là 5,8% và năm 2001 chỉ còn 4,4% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu, trong khi kim ngạch xuất khẩu tuyệt đối vẫn tăng.
Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu là từ Hồng Kông, Đài Loan, Hàn

Quốc, Trung Quốc. Những nước này chiếm 1/2 khối lượng hàng dệt may Nhập
khẩu vào Mỹ. Hiện nay, Hiệp định thương mại đã có hiệu lực, mức thuế hàng may
mặc giảm từ 68,9% xuống còn 13,4%và hàng dệt từ 51,1% xuống còn 10,3%. Nếu
tới đây, Việt Nam được hưởng mức thuế suất này thì chắc chắn kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ gia tăng mạnh mẽ.
1.2. Chủng loại hàng
Hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ chủ yếu là: sơ mi nam, com lê, áo
khoác nam, găng tay đan móc, áo sơ mi đan móc của nữ . Còn các mặt hàng khác
như:áo Jacket, bộ quần áo, áo Blu nam nữ cho người lớn, áo nịt nam nữ cho trẻ em,
hàng may cho trẻ sơ sinh, váy ngắn, váy dài, đồ ngủ, đồ lót, áo gối , chăn…chỉ ở vị
trí khiêm tốn . Còn các sản phẩm dệt kim chưa thâm nhập được vào thị trường Mỹ
mà ngược lại còn phải nhập khẩu từ Mỹ.
2 .Tình hình xuất khẩu sang thị trường EU
2.1.Kim ngạch xuất khẩut
EU là thị trường có hạn ngạch quan trọng và tiêu biểu nhất. Là một thị trường
đông dân khoảng 380 triệu người với sức tiêu dùng vải cao(17 kg/người) . Trước
năm 1990, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giữa Việt Nam - EU hết sức nhỏ bé,
do quan hệ hai bên chưa được bình thường hoá. Kể từ khi Hiệp định buôn bán
hàng dệt may ký ngày 15/12/1992và có hiệu lực ngày1/1/1993, trải qua bốn lần sửa
đổi, bổ sung. Năm 1992, Việt Nam xuất khẩu sang EU khoảng gần 200 triệu USD
nhưng đến năm 2002, sau 10 năm Việt Nam đã xuất khẩu sang EU khoảng 550
triệu USD hàng dệt may hàng năm. Trong lần đàm phán mới nhất từ 12-15
/2/2003, EU đã dành cho Việt Nam mức tăng trưởng đột phá.Tất cả các cat nóng,
EUđều tăng cho Việt Nam từ 50-70%. Đến năm 2003,hy vọng các doanh nghiệp
Việt Nam có thể xuất khẩu sang EU khoảng 550 triệu USD.

14
2.2. Chủng loại hàng
Về chủng loại hàng xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam
mới chỉ tập trung vào sản xuất một số sản phẩm, các mã hàng nóng như: áo Jacket,

áo sơ mi, quần Âu, áo len , áo dệt kim, quần áo.T.Shirt và Polo Shirt, quần dệt kim,
bộ quần áo bảo hộ lao động, áo khoác nam và áo sơ mi nữ …
3. Tình hình xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
3.1.Kim ngạch xuất khẩu
Nhật Bản là thị trường không hạn ngạch lớn nhất, đứng thứ 3 trong các nước
nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Với số dân trên 127 triệu dân, là một thị
trường rất tiềm năng. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật
Bản tăng hàng năm, đến năm 2000 đạt cao nhất là 620 triệu USD và thị phần đạt
khoảng 29%. Sau đó đến năm 2001 lại giảm 5% so với năm 2000 còn 592 triệu
USD, năm 2002 lại giảm 20% so với năm 2001 đạt 419 triệu USD. Năm 2003 Việt
Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 480 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu
sản phẩm dệt may ( 3,7 tỷ USD) .
3.2. Chủng loại hàng
Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản chủ yếu là hàng may
mặc như: áo Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi nữ, sơ mi nam, quần áo lót
cho nam, nữ, quần áo dệt kim của nam nữ. Còn các mặt hàng khác xuất khẩu sang
Nhật Bản vẫn còn hạn chế

Bảng1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
Đơn vị: triệu USD
Năm Tổng
knxk
Knxk sang
Nhật Bản
Knxk sang
EU
Knxk sang
Mỹ
Knxk sang
thị trường khác


1996 1.150 248 225 9,1 668
1997 1.349 325 410 12 612
1998 1.351 321 521 26,34 483
1999 1.747 417 605 34 690,9
2000 1.892 620 599 49,57 725,5
2001 1.962 588 617 44,6 710
2002 2.710 419 540 975 775
2003 3.602 480 550 1.731 840
Nguồn: Bộ thương mại và tổng công ty VINATEX

Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam được biểu hiện qua biểu đồ.
Đơn vị : Triệu USD
4500
2710
2000
1892
215
850
0
1000
2000
3000
4000
5000
1990 1995 2000 2001 2002 2005
N¨m
KNXK

15

III - Ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
Trong quá trình hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Ngành dệt may
Việt Nam đang có nhiều cơ hội, song cũng đứng trước những thách thức lớn. Phân
tích SWOT( Strengths- Điểm mạnh, Weaknesses- Điểm yếu, Opportunities- Cơ
hội và Threals- Nguy cơ, thách thức) đối với ngành dệt may Việt Nam có thể nêu
ra một số nét chủ yếu trong những năm trước mắt(xem bảng 3)
Trên cấp độ ngành thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam chủ
yếu được tạo ra bởi nguồn nhân lực với đội ngũ nhân công có tay nghề khéo léo,
cộng với chi phí tiền lương thấp.
Bảng2: So sánh giá nhân công ở một số nước Châu Á.
Tên nước Chi phí nhân công (USD/ tháng)
Việt Nam 40
Trung Quốc 45
Indonesia 83
Thái Lan 100
Malaixia 120
Singapore 415
Hồng Kông 612
Hàn Quốc 767
Đài Loan 772
Nguồn : Báo cáo của Tổng công ty dệt may Việt Nam.

Hiện nay, giá nhân công rẻ vẫn là lợi thế trong cạnh tranh của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam nên vẫn hấp dẫn các đơn đặt hàng gia công từ các nước:
EU,Mỹ, Nhật Bản và một số nước khác. Một thuận lợi cho hàng xuất khẩu nói
chung và cho việc xuất khẩu hàng may nói riêng là đồng tiền Việt Nam có xu
hướng yếu đi trên các thị trường, điều này tạo điều kiện cho việc cạnh tranh về giá.
Ở cấp độ doanh nghiệp và sản phẩm thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may Việt Nam là rất thấp, do các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng


16
và phát triển thương hiệu và mẫu mã sản phẩm, chưa chú trọng đến khâu thiết kế
và kiểu dáng sản phẩm.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng một số điểm mạnh của ngành dệt may Việt
Nam cũng như về cơ hội mà chúng ta có thể tận dụng được hiện nay là chỉ mang
tính tạm thời. Trong tương lai có thể không còn hoặc biến thành các nguy cơ.
Việc Trung Quốc, Đài Loan đã ra nhập WTO và thương mại dệt may đang
tiến gần đến thời điểm 1/1/2005, cột mốc quan trọng đánh dấu sự chấm dứt chế độ
hạn ngạch kéo dài suốt 30 năm kể từ năm 1974 với Hiệp định hàng đa sợi (MFA )
và sự bắt đầu thời kỳ mới- thời kỳ tự do hoá thương mại dệt may. Cuộc cạnh tranh
trong lĩnh vực này sau năm 2004 sẽ vô cùng khốc liệt và khi hạn ngạch bị rỡ bỏ thì
hàng may Việt Nam sẽ khó cạnh tranh được với sản phẩm của các nước khác.
Một thuận lợi hiện nay của ngành dệt may Việt Nam mà trong tương lai có
thể trở thành một nguy cơ là giá nhân công thấp bởi khi ra nhập WTO, các doanh
nghiệp phải trả công cho người lao động theo những chuẩn mực chung. Khi đó
nếu các doanh nghiệp dệt may vẫn tiếp tục trả công thấp thì các nước sẽ không
chấp nhận sản phẩm của họ. Còn nếu tăng tiền công thì lượng đơn hàng gia công
có thể sẽ giảm đi đáng kể.
Trong tương lai, ngành may mặc nói chung và từng doanh nghiệp dệt may
nói riêng cần có chiến lược mặt hàng mũi nhọn trên cơ sở bí quyết công nghệ đặc
thù, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tăng khả năng cạnh tranh
cho sản phẩm dệt may Việt Nam.










17

Bảng 3:Ma trận SWOT
Strengths- Điểm mạnh
Có nguồn nhân công dồi dào và có trình
độ
Lương giờ bình quân thấp
Chi phí sản xuất/1 phút thấp hơn nhiều
nước trong khu vực
Yêu cầu đầu tư tối thiểu đối với chủ
doanh nghiệp
Phương tiện gửi hàng và vận chuyển
quốc tế thuận lợi và có chi phí thấp
Miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư dùng
cho sản xuất hàng xuất khẩu
Hầu hết các doanh nghiệp được trang bị
tốt và có đội ngũ công nhân được đào
tạo tốt
Đội ngũ quản lý có kỹ năng kinh doanh
và đang chuyển sang hình thức tiếp cận
trực tiếp với khách hàng.
Weaknesses- Điểm yếu.
Chưa chủ động tạo được nguồn nguyên
phụ liệu trong nước phù hợp yêu cầu sản
xuất hàng xuất khẩu
Sự liên kết với khách hàng kém phát
triển: quá phụ thuộc vào các đối tác
nước ngoài, ít mối liên hệ với khách
hàng cuối cùng

Khả năng tiếp thị hạn chế, đặc biệt
trong việc đột phá thị trương mới
Hầu như chưa có thương hiệu riêng và
chủng loại sản phẩm còn hạn chế
Việc đào tạo còn hạn chế, đặc biệt đối
với các nhà quản lý chuyên ngành

Opportunities- Cơ hội
Tỷ giá hối đoái thực tế của VND trên
một số thị trường đang yếu đi làm tăng
khả năng xuất khẩu hàng vào các thị
trường đó.
Xu hướng chuyển dịch hàng dệt may
sang các nước đang phát triển.
Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, tiến
trình hội nhập kinh tế, tự do hoá thương
mại trong đó có thương mại dệt may
theo ATC/WTO.
Việt Nam tham gia vào khu vực mậu
dịch tự do ASEAN(AFTA).
Trong tương lai gần, Việt Nam sẽ gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy
các thị trường xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam là EU,Nhật Bản.
Thị trường Mỹ đang có nhu cầu lớn về
hàng dệt may Việt Nam
Các thị trường mới, trong đó có Nga và
các nước SNG là những thị trường tiềm
năng lớn đối với hàng dệt may Việt

Nam.

Threats- Nguy cơ, thách thức.
Tính khốc liệt trong cạnh tranh ở tất cả
các thị trường đang tăng
AFTA sẽ giảm các hàng rào thương mại
ở châu á và khuyến khích cạnh tranh khu
vực; nhân công một số nước trong khu
vực rẻ hơn như Inđônesia, Bangladesh…
Chi phí cho các dịch vụ thuộc kết cấu hạ
tầng cao: cước phí điện thoại, dịch vụ
viễn thông, giá điện, nước,…
Cạnh tranh khốc liệt từ phía Trung Quốc
do ở đó công nghiệp dệt và phụ liệu đã
phát triển và có nguồn nhân công rẻ hơn,
năng suất lao động cao hơn.
Hiệp định dệt may Việt Nam- Hoa Kỳ
quy định việc khống chế hạn ngạch nhập
hàng dệt may từ Việt Nam vào Mỹ
Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại
thế giới – WTO.




18


19
IV - Hạn chế và nguyên nhân trong cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam

trên thị trường quốc tế
1 .Hạn chế
Khả năng cạnh tranh của hàng may mặc nước ta hiện nay còn yếu so với các
nước trong khu vực và thế giới. Năm 1997, Canada xoá bỏ hạn ngạch, mặt hàng áo
sơ mi của Việt Nam đã không đủ khả năng cạnh tranh và phải rút khỏi thị trường
Canada. Đầu năm 2002, EU xoá bỏ hạn ngạch áo Jacket, mặc dù là mặt hàng
truyền thống của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, nhưng kim ngạch xuất khẩu
áo Jacket vào EU năm 2002 giảm xuống đáng kể, chỉ còn 2/3 và đến năm 2003 chỉ
còn 1/2 so với năm 2002. Mặc dù đây là hai mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam, nhưng khả năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Sự hạn chế
của các mặt hàng dệt may xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau:
1.1.Về chất lượng sản phẩm
Các sản phẩm may mặc Việt Nam được đánh giá chung là có chất lượng chưa
cao, không đồng đều, đến hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu là làm gia công cho
nước ngoài, có nghĩa là làm theo mẫu mã và thêo yêu cầu chất lượng của bên nước
ngoài. Còn trong số xuất khẩu trực tiếp thì hầu hết là đáp ứng cho phân đoạn thị
trường có nhu cầu “bình dân” yêu cầu về chất lượng thấp, giá rẻ, chỉ có một số ít
sản phẩm đủ tiêu chuẩn đáp ứng cho những phân đoạn thị trường có nhu cầu chất
lượng cao. Nếu đánh giá theo chỉ số trình độ chất lượng thì hàng may mặc xuất
khẩu nước ta có chất lượng còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
1.2.Về giá
Tính tỷ lệ giá/chất lượng hàng may Việt Nam có tỷ lệ cao, do đó khả năng
cạnh tranh về giá cho hàng may mặc xuất khẩu còn nhiều hạn chế.Việc nâng cao
chất lượng và giảm giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cấp bách của các doanh nghiệp
may xuất khẩu nước ta trong thời gian tới.
1.3.Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng:
Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu còn “hẹp”, chủ yếu tập trung
vào những mặt hàng được cấp hạn ngạch như: áo sơ mi, áo Jacket và tập trung vào

20

một số thị trường chính như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Khả năng đổi mới mặt hàng
và tạo ra các mặt hàng mới còn chậm, nên khả năng cạnh tranh để mở rộng thị
trường còn nhiều hạn chế. Vào đầu năm 2005, khi hàng dệt may xoá bỏ hạn ngạch,
các mặt hàng truyền thống của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, phải cạnh tranh
không cân sức với các mặt hàng của Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, … vốn đã có
lợi thế cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và khi cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu còn “hẹp” nếu bị “ tổn thương” sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch
xuất khẩu của ngành may mặc nước ta.
1.4. Về tiến độ giao hàng và hậu mãi
Để luôn luôn giao hàng đúng hạn, đặc biệt đối với thị trường có khoảng cách
xa như thị trường Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp vẫn là một vấn đề hết sức khó
khăn. Việc không thường xuyên giao hàng đúng hạn, có những sản phẩm không
đúng quy cách, chất lượng không phù hợp và chậm trễ trong vấn đề giải quyết
khiếu nại không những làm giảm uy tín của các doanh nghiệp mà còn làm hạn chế
khả năng cạnh tranh của các mặt hàng .
2. Nguyên nhân
Những tồn tại và hạn chế trên chủ yếu là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhấ
t, trong những năm qua, một khoảng thời gian dài, các doanh ngiệp
Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi của hàng dệt may, cho nên đã phần nào
không kích thích được các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới,
mở rộng mặt hàng mà có xu hướng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hạn
ngạch.
Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp
có quy mô lớn, có cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng thiết bị và công nghệ sản
xuất còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu các thiết bị có tính chuyên dùng, chưa đáp ứng
yêu cầu mới, năng suất lao động thấp, đặc biệt các doanh nghiệp có qui mô nhỏ
thường làm gia công thì thiết bị rất lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế
giới, làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng. Do đó làm sản phẩm may mặc


21
nước ta có chất lượng thấp, không ổn định, chi phí cao, kém khả năng cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
Thứ ba, khả năng cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào cho ngành may
mặc nước ta phụ thuộc vào nhập khẩu. Hầu hết các thiết bị, nguyên phụ liệu đầu
vào cung cấp cho ngành may phải nhập khẩu, tỉ lệ nội địa hoá thấp, giá nhập khẩu
và chi phí nhập khẩu cao sẽ bất lợi cho sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, nguồn nhân lực của ngành may mặc nước ta còn thiếu và yếu. Thiếu
những nhà thiết kế mẫu có tính chuyên nghiệp và trình độ cao, cho nên khả năng
tạo ra những kiểu mốt phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng đổi mới mặt
hàng, tạo ra những mặt hàng mới còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của các chuyên
gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân may Việt Nam chỉ đạt
hiệu suất 70%, trong khi đó ở các nước khu vực là trên 90%. Năng suất lao động
của công nhân thấp, ảnh hưởng đến chất lượng, chi phí và thời gian giao hàng của
hàng may mặc xuất khẩu nước ta. Ngoài ra, vấn đề quản lý sản xuất, kinh doanh,
khả năng nghiên cứu , tiếp cận , mở rộng thị trường của các doanh nghiệp may
xuất khẩu nước ta cũng còn nhiều bất cập, còn phải xuất khẩu thông qua các trung
gian là các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông…














22


23

CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRÊN THỊ
TRƯỜNG QUỐC TẾ
Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu của nước ta còn yếu trong
khu vực và thế giới là do những nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng sản phẩm dệt
may của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, chưa chủ động về thị trường, tính cạnh
tranh của sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Như vậy, làm
thế nào để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường quốc tế được đánh
giá là có khả năng cạnh tranh cao? Sau đây là những giải pháp khắc phục những
khó khăn, tồn tại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
trên thị trường quốc tế.
I - Giải pháp từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất, các doanh nghiệp nên đầu tư xây dựng thiết bị nhà xưởng hiện
đại, trang bị những thiết bị may hiện đại theo hướng tiếp cận với công nghệ cao
trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng
suất lao động và hạ giá thành.
Thứ hai, ngành dệt nên đầu tư trọng điểm để có những dây chuyền thiết bị
với công nghệ sản xuất hiện đại, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, có chất lượng tốt, giá
thành hạ, đủ khả năng cạnh tranh cung cấp cho ngành may mặc và phấn đấu đến
năm 2010 có thể cung cấp 60-70% nguyên phụ liệu cho ngành may xuất khẩu, tạo
điều kiện cho ngành may chủ động được nguyên phụ liệu. Trong khi còn phải nhập
khẩu nguyên liệu, để chủ động cần thành lập các kho ngoại quan để các nhà cung
cấp nguyên liệu nước ngoài dự trữ hàng có thể cung cấp kịp thời cho các doanh

nghiệp khi ký kết được hợp đồng xuất khẩu có thể nhập ngay được nguyên liệu
phục vụ sản xuất, đảm bảo được tiến độ giao hàng.
Thứ ba, các doanh nghiệp may phải vừa duy trì hoạt động gia công quốc tế,

24

×