Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.69 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN SAU ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
o0o
BÀI KIỂM TRA MÔN
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
HỌC VIÊN :
ĐẶNG NGỌC CHÂM
NGUYỄN PHƯƠNG ANH ( STT 04 – SN 1988)
NGÔ THỊ THU NGÂN
NGÔ THỊ BẢO NGÂN
TRẦN THỊ HÀ
NGUYỄN HỮU QUÂN
BÙI CẨM CHI
NGUYỄN HOÀNG ÂN
LỚP : CH21D


Hµ Néi, 2013
1
NỢ XẤU CỦA NHTM VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN
\
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NỢ XẤU Ở NHTM
1.1. Tín dụng và rủi ro tín dụng trong NHTM
1.1.1 Tín dụng là gì?
Định nghĩa tín dụng
Trong nền kinh tế hàng hoá, trong cùng một thời gian luôn có một số người tạm thời thừa
vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó luôn có một số người
tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh mối quan hệ kinh tế
mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu với điều
kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được do sử dụng vốn vay. Đây chính là
quan hệ tín dụng.


Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức, nó
để thoả mãn nhu cầu của cả 2 bên, do đó nó là một quan hệ bình đẳng, cả 2 bên cùng có
lợi và mang tính thoả thuận lớn.
Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá nhân, tổ
chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn
trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián
tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng cũng mang
bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi
sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là
quan hệ bình đẳng cả 2 bên cùng có lợi.
Phân loại tín dụng ngân hàng
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau tuỳ theo
mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên người ta thường phân loại theo một số tiêu thức sau:
- Theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành 3 loại sau:
• Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử
dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu
2
động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của
cá nhân.
• Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn phục
vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây
dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
• Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung
cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
• Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và
một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng chia thành 2 loại:
• Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp cho các
doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.

• Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ, các
thiết bị gia đình Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản cho vay, có các loại tín dụng sau:
• Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra đều có tài
sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp, chiết khấu và
bảo lãnh.
• Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra
không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường được áp
dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng với ngân
hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với
ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh
doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ
3
Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức trên chỉ
có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì cách phân loại càng chi
tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng
loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng.
1.1.2 Rủi ro tín dụng
Khái niệm rủi ro tín dụng.
Là rủi ro do một khách hàng hay một nhóm khách hàng vay vốn không trả được nợ cho
Ngân hàng. Trong kinh doanh Ngân hàng rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường
xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề có khi dẫn đến phá sản Ngân hàng.
Ngày nay, nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật,
nâng cao công nghệ và các nhu cầu phục vụ sản xuất kinh doanh luôn tăng lên. Để đáp
ứng nhu cầu này, các NHTM cũng phải luôn mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, điêu đó
có nghĩa là rủi ro tín dụng cũng phát sinh nhiều hơn.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn,
nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào Rủi ro tín dụng nếu không được phát hiện
và sử lý kịp thời sẽ nảy sinh các rủi ro khác.

1.2. Phân loại nợ khách hàng
1.2.1. Phân loại nợ khách hàng theo định lượng
Theo quy định tại Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 của NHNNVN về
việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005
của NHNNVN, nợ của các TCTD sẽ được phân chia thành 05 nhóm như sau:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Các khoản nợ trong hạn và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và
lãi đúng hạn;
(ii) Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ
nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 1 từ các nhóm nợ có rủi ro thấp hơn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
(i) Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
4
(ii) Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp,
tổ chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và
lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
(iii) Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 từ các nhóm nợ có rủi ro cao hơn
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
(ii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn
trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
(iii) Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy
đủ theo hợp đồng tín dụng;
(iv) Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 từ các nhóm nợ có rủi ro cao hơn.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
(i) Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
(ii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

(iv) Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 từ các nhóm nợ có rủi ro cao hơn
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
(i) Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
(ii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được
cơ cấu lại lần thứ hai;
(iv) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc
đã quá hạn;
(v) Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
(vi) Các khoản nợđược phân loại vào nhóm 5 từ các nhóm nợ có rủi ro cao hơn.
 Nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn:
 Đối với các khoản nợ quá hạn, TCTD phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể
cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
5
(i) Khách hàng đã trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối với nợ
gốc quá hạn) và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo trong thời gian tối thiểu 06
tháng đối với nợ trung và dài hạn, 03 tháng đối với nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả
đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn;
(ii) Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ bị quá hạn đã được xử
lý, khắc phục;
(iii) TCTD có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) đánh giá là khách hàng có khả năng
trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
 Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, TCTD phân loại lại vào nhóm nợ có
rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
(i) Khách hàng đã trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại trong thời
gian tối thiểu 06 tháng đối với nợ trung và dài hạn, 03 tháng đối với nợ ngắn hạn, kể từ
ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại;
(ii) Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ phải cơ cấu lại thời hạn
trả nợ đã được xử lý, khắc phục;

(iii) TCTD có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) để đánh giá là khách hàng có khả
năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn đã được cơ cấu lại.
 Nợ được phân loại vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn:
a) Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một TCTD phải được phân loại vào cùng một
nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ 02 khoản nợ trở lên tại TCTD mà có bất cứ một
khoản nợ nào bị phân loại theo 05 nhóm nợ trên vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn các khoản
nợ khác, TCTD phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi
ro cao nhất đó;
b) Đối với các khoản cho vay hợp vốn, TCTD làm đầu mối phải thực hiện phân loại nợ
đối với các khoản cho vay hợp vốn và phải thông báo kết quả phân loại nợ cho các TCTD
tham gia cho vay hợp vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc một số các
khoản nợ khác tại TCTD tham gia cho vay hợp vốn đã phân loại vào nhóm nợ không
cùng nhóm nợ của khoản nợ vay hợp vốn do TCTD làm đầu mối phân loại, TCTD tham
gia cho vay hợp vốn phân laoij lại toàn bộ dư nợ (kể cả phần dư nợ cho vay hợp vốn) của
6
khách hàng vay hợp vốn vào nhóm nợ do TCTD làn đầu mối phân loại hoặc do TCTD
tham gia cho vay hợp vốn phân loại tùy theo nhóm nợ nào có rủi ro cao hon;
c) TCTD phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân loại vào các nhóm theo 05
nhóm nợ trên vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn theo dánh giá của TCTD khi xảy ra một
trong các trường hợp sau:
- Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực kinh doanh của
khách hàng;
- Các khoản nợ của khách hàng bị các TCTD khác phân loại vào nhóm nợ có mức độ rủi
ro cao hơn (nếu có thông tin);
- Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tỷ lệ
nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm liên tục hoặc
có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
- Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin tài chính theo
yêu cầu của TCTD để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
1.2.2. Phân loại nợ khách hàng theo định tính.

Theo quy định tại Điều 7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của
NHNNVN, nợ của các TCTD cũng được phân thành 05 nhóm:
 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả
năng trả nợ.
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được
TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả
năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá
là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
TCTD có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính thì
xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro như sau:
7
 Căn cứ trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, TCTD trinh NHNN chính sách dự
phòng rủi ro và chỉ được thực hiện sau khi NHNN chấp thuận bằng văn bản khi
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định.
 Hằng năm, TCTD phải đánh giá lại Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính
sách dự phòng rủi ro cho phù hợp với tình hình thực tế và các quy định của pháp
luật. Việc thay đổi, điều chỉnh chính sách dự phòng rủi ro của TCTD phải được
NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Như vậy, với kết quả phân loại nợ theo cả 02 phương pháp trên, các khoản nợ được
phân loại vào các nhóm nợ 3, 4 và 5 (bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và
nợ có khả năng mất vốn) được coi là nợ xấu. Trên cơ sở kết quả phân loại nợ,
TCTD chủ động thực hiện hạch toán, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro theo quy
định.
1.3. Khái niệm nợ xấu và ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu.

1.3.1. Khái niệm nợ xấu
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 sửa đổi Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNH, có thể
định nghĩa:
Nợ xấu của Việt Nam là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
1.3.2 Ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu.
• Thứ nhất: Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả năng mở
rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi nợ xấu phát sinh,
lợi nhuận của ngân hàng sụt giảm do phải phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng
rủi ro, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan.
• Thứ hai: nợ xấu có khả năng gây thất thoát vốn của TCTD, việc giải quyết nợ xấu
chậm trễ đồng nghĩa với việc TCTD phải giảm mức tăng trưởng tín dụng, các DN sẽ
khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
8
Tình trạng này kéo dài trong điều kiện kinh tế bất ổn, hàng tồn kho lớn sẽ làm đình trệ
hoạt động sản xuất, gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế của đất nước trong
thời gian tiếp theo.
• Thứ ba: khi không giải quyết kịp thời nợ xấu thì chi phí hữu hình và vô hình để xử lý
nợ xấu ngày càng lớn theo thời gian.
+ Về mặt hữu hình, tài sản bảo đảm cho các khoản nợ tại TCTD sẽ bị hao mòn, hư
hỏng, giá trị và giá trị sử dụng sẽ mất dần.
+ Về mặt vô hình, việc chậm xử lý nợ xấu dẫn tới giảm vốn đầu tư, giảm tăng trưởng
của nền kinh tế, giảm hệ số tín nhiệm và sự hấp dẫn môi trường đầu tư của Việt Nam.
• Thứ tư: chậm giải quyết tình trạng nợ xấu làm giảm năng lực tài chính của các TCTD,
giảm hiệu quả điều hành trong chính sách tiền tệ, ảnh hưởng rất lớn đến điều tiết vĩ
mô cần thiết của nhà nước đối với nền kinh tế.
• Thứ năm: Nợ xấu có thể cản trở quá trình hội nhập của các NHTM. Nợ xấu tác động

trực tiếp tới khả năng tài chính của NHTM khi phân tích đánh giá tình hình tài chính
hoạt động ngân hàng, và là yếu tố bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và
phát triển. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao, vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế
thì uy tín của NHTM trong nước và quốc tế bị giảm sút nghiêm trọng.
1.4. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ các khoản
nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số nợ đó, nợ không có khả
năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và như vậy nó chưa
phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu hồi của ngân hàng và
mức độ rủi ro của ngân hàng. Ví dụ: hai ngân hàng cùng có tổng số nợ xấu nhưng ngân
hàng có số nợ xấu không có khả năng thu hồi cao hơn hoặc tiềm lực tài chính thấp hơn sẽ
có nguy cơ rủi ro cao hơn.
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ cho vay: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ
rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết với 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì
có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không
thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng
cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất lượng tín dụng yếu
9
kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được đánh giá là có chất lượng tín dụng tốt, các khoản cho
vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này chỉ có tính thời điểm.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh chỉ tiêu
tương đối của nợ khó đòi - một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ tiêu
phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng lớn
thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao. Cụ thể, với hai ngân hàng có cùng số
nợ xấu thì ngân hàng nào có tỷ lệ nợ khó đòi/nợ xấu cao hơn sẽ có chỉ tiêu tuyệt đối về nợ
khó đòi lớn hơn và tất nhiên là nguy cơ mất vốn sẽ cao hơn.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng
bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn.
Nếu tỷ lệ này cao, có nghĩa là khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể
xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ngược lại.

• Theo hệ thống PEARLS của Hiệp hội tín dụng thế giới về đánh giá tình hình tài
chính của ngân hàng thì một ngân hàng được coi là hoạt động với độ an toàn cao
nếu ngân hàng đó phân bổ đủ dự phòng cho 100% nợ quá hạn trên 12 tháng và cho
35% nợ quá hạn từ 1 - 12 tháng.
• Ngoài ra, tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong từng
thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu
nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
2.1. Tình hình nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009-2013
Việt Nam là một trong những nước tốc độ tăng trưởng huy động và cho vay cao trong
khu vực, trong đó, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực với thị phần tín dụng chiếm tới
xấp xỉ 95% của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Trong các giai đoạn phát triển
của nền kinh tế, trong bối cảnh thị trường vốn còn chưa phát triển, tín dụng ngân hàng
(TDNH) luôn đóng vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo trên thị trường tài chính, bảo đảm đáp
ứng nhu cầu vốn cho đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và góp phần quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. TDNH đã tăng trưởng bình quân trên 30%/năm trong giai đoạn 2001-
2010, tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng từ 40,1% vào năm 2000 lên tới 125% vào năm 2010.
10
Bên cạnh sự tăng trưởng mạnh mẽ với những đóng góp tích cực cho nền kinh tế trong
thời gian vừa qua, hoạt động TDNH cũng còn rất nhiều vấn đề tồn đọng mà nổi bật và luôn
được quan tâm nhiều là vấn đề nợ xấu. Nợ xấu là sự tồn tại tất yếu trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng, vì vậy sự tồn tại của nợ xấu chỉ thực sự nguy hiểm khi nó vọt lên ngưỡng
cao hoặc bối cảnh kinh tế, tình hình tài chính hiện tại của các chủ thể trong nền kinh tế có thể
đẩy nợ xấu lên mức nguy hiểm trong tương lai.
Theo số liệu của Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước (NHNN), từ năm
2008 đến nay, nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Trung
bình giai đoạn 2008 - 2011, dư nợ xấu bình quân khá cao. Đặc biệt, từ năm 2011, tổng cầu
của nền kinh tế giảm mạnh, tiêu thụ hàng hoá gặp nhiều khó khăn, hàng tồn kho lớn, thị
trường bất động sản đóng băng, năng lực tài chính của doanh nghiệp giảm sút… Điều này đã

làm cho tốc độ tăng dư nợ tín dụng năm 2011 chậm lại đáng kể. Trong 7 tháng đầu năm
2012, dư nợ tín dụng của Việt Nam chỉ tăng 1,02% nhưng nợ xấu lại tăng tới 45,5%. Nợ xấu
lớn đang làm chi phí vốn của các ngân hàng tăng lên cao, khiến cho nhiều ngân hàng thương
mại (NHTM), không muốn giản nợ và điều chỉnh giảm lãi suất do ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Đây chính là nguyên nhân khiến các ngân hàng phải giữ lãi suất cho vay cao hơn thị trường
khoảng 2-3%.
Tính đến 31/3/2012, nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam là 202.000 tỷ
đồng, tương đương 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng. Trong đó, nợ xấu của nhóm ngân hàng
thương mại nhà nước là 125,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,37% dư nợ cấp tín dụng của nhóm
ngân hàng thương mại nhà nước; nợ xấu của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là 60,9
nghìn tỷ đồng, chiếm 5,8% dư nợ tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần.
Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ nợ xấu hiện tại của Việt Nam (8,6%) là lo đáng ngại,
nhưng chưa đến mức bi kịch. So với thời điểm khủng hoảng tài chính Châu Á giai đoạn
1998-2000, nợ xấu của các quốc gia khác còn lên đến mức 30-40% (Thái Lan là 47%, Hàn
Quốc là 17%, Indonesia là hơn 20%). Tuy nhiên, nếu không có một cơ chế để xử lý nợ xấu, khi
tụ thành quy mô lớn, nó có thể sẽ nguy hại đối với nền kinh tế. Thực tế cho thấy, khủng hoảng tài
chính Đông Á năm 1997 - 1998 và khủng hoảng toàn cầu hiện nay cũng có nguyên nhân từ các
khoản nợ xấu. Đặc biệt khi nhìn vào điều kiện kinh tế nói chung và điều kiện kinh doanh của các
ngân hàng và doanh nghiệp (DN) Việt Nam hiện nay trong bối cảnh tái cấu trúc toàn nền kinh tế
11
đang được đặt ra thì nợ xấu nếu không được xử lý triệt để có thể sẽ bùng phát lên mức nguy
hiểm.
Trước tình hình nợ xấu liên tục gia tăng, trong hai năm 2012 và 2013, Ngân hàng Nhà
nước tiếp tục tập trung đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại ở tất cả các nhóm tổ chức tín dụng, đặc
biệt là xử lý các ngân hàng yếu kém. Về cơ bản, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát được tình
hình của 09 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém cần phải xử lý thông qua các biện pháp
nghiệp vụ theo quy định của pháp luật. Khả năng chi trả của các ngân hàng yếu kém được cải
thiện đáng kể và quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm, nguy cơ mất an toàn từng bước
được giảm bớt. Hoàn thành căn bản việc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước
(trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) và đang triển khai cơ cấu lại

một số ngân hàng liên doanh.
Bước đầu tiến hành cơ cấu lại hoạt động, hệ thống quản trị và hiện đại hóa công nghệ
các tổ chức tín dụng. Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương được chuyển đổi thành Ngân hàng
Hợp tác xã. Các giải pháp củng cố, chấn chỉnh hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
được triển khai tích cực, như hạn chế thành lập mới quỹ tín dụng nhân dân cơ sở; tập trung
củng cố, chấn chỉnh và xử lý các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động kém hiệu quả; từng
bước cải thiện và nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát rủi ro; đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân cùng tham gia phát triển hệ thống quỹ tín dụng
nhân dân
Tuy nhiên, quá trình cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém diễn ra
chậm hơn so với dự kiến. Nguyên nhân chủ yếu do:
- Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý cho việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng chưa hoàn
thiện, như: Thiếu cơ chế can thiệp, xử lý của Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng yếu kém;
hầu hết các ngân hàng thương mại nhà nước đã được cổ phần hóa nên hạn chế khả năng tham
gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém thông qua sáp nhập, mua lại; thiếu các cơ chế, chính sách,
khuyến khích miễn, giảm thuế, phí để hỗ trợ tổ chức tín dụng trong xử lý nợ xấu và các tài
sản đảm bảo tiền vay, các giao dịch sáp nhập, hợp nhất, mua lại để hỗ trợ cho quá trình cơ
cấu lại tổ chức tín dụng.
12
- Thứ hai, việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và xử lý các tổ chức tín dụng
yếu kém là vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của
nhiều bên và mất nhiều thời gian với nhiều thủ tục, quy định.
- Thứ ba, vì quyền lợi cá nhân, một số cổ đông lớn của các ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém thiếu sự hợp tác hoặc chống đối các chính sách, biện pháp cơ cấu lại của Ngân
hàng Nhà nước.
- Thứ tư, thiếu sự hỗ trợ từ nguồn lực tài chính công cũng là một trong những nguyên
nhân làm chậm tiến trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng, gây khó khăn cho quá trình xử lý nợ
xấu, lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính của hệ thống tổ chức tín dụng.
Qua báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2013 của nhiều ngân hàng, tình hình nợ xấu có
vẻ lạc quan khi phần lớn đều kiểm soát được dưới 3% tổng dư nợ. Cụ thể:

Nguồn: dữ liệu theo BCTC các ngân hàng tổng hợp từ cafef.vn
Trong 13 ngân hàng khảo sát, chỉ có 4 đơn vị có nợ xấu trên 3%, gồm NaviBank
(6,1%), BaoVietBank (5,9%), TechcomBank (5,28%) và SHB (9.04%). Còn lại hầu hết vẫn
dưới 3% như MB 2,44%; Sacombank 2,5%, ACB 2,98%, BIDV 2,78%, VietinBank 2,10%,
VietcomBank 2,80%, VPBank 2,62%; TienPhong Bank 2,77%; OCB 2,5% và SouthernBank
2,77%.
Theo thống lệ quốc tế, ngưỡng an toàn của tỷ lệ nợ xấu là dưới 3%, một mức khó đạt
trong điều kiện nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay. 3% là giới hạn được xem
13
là chấp nhận được trong kiểm soát nợ xấu, cũng là mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước đặt ra
để rút tỷ lệ chung về đến năm 2015. Tuy nợ xấu ở mức an toàn, đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng
theo phân tích của nhóm thảo luận, vẫn còn rất nhiều vấn đề đáng lo ngại:
 Tỷ lệ nợ xấu tuy thấp hơn 3% nhưng nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) lại
chiếm tỷ trọng khá cao
Trong 6 tháng đầu năm 2013, nợ xấu của các ngân hàng là sự gia tăng liên tục của nợ
nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tại thời điểm 30/06/2013, nợ nhóm 5 đã chiếm gần 50%
tổng nợ xấu của các ngân hàng này, tức là chỉ tính riêng với nhóm các ngân hàng niêm yết đã
lên tới hơn 14 nghìn tỷ đồng.
Nguồn: dữ liệu theo BCTC các ngân hàng tổng hợp từ cafef.vn
 Trong nửa đầu năm, chỉ có một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu giảm, còn phần đông đều
có tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng lên.
Trong khi đó, số liệu từ 3 ngân hàng lớn nhất đã công bố số liệu là BIDV,
Vietcombank và Vietinbank thì đã chiếm tới hơn 23.100 tỷ đồng nợ xấu, gần bằng mức tổng
lợi nhuận là 24.000 tỷ đồng của toàn hệ thống trong 6 tháng đầu năm nay. Trong đó, nợ xấu
của BIDV gần 9.400 tỷ đồng, của Vietcombank 6.687 tỷ đồng và Vietinbank là 7.027 tỷ
đồng. Số nợ xấu của 3 ngân hàng này cũng cao hơn rất nhiều so với tổng nợ xấu của các ngân
hàng top sau, bao gồm SHB, MB, ACB, Sacombank, Techcombank, Eximbank cộng lại.
Điểm chung của các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng là tốc độ tăng trưởng nợ xấu đều
cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Cụ thể tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm
31/12/2012 và đến 30/6/2013: Vietcombank từ 2,26% lên 2,81%; VietinBank từ 1,46% lên

14
2,1%; Eximbank từ 1,32% lên 1,49%; Sacombank từ 1,89% lên 2,5%; MB từ 1,86% lên
2,45%; ACB từ 2,5% lên gần 3%; SHB từ 8,51%lên 9,04%; Techcombank từ 2,69% lên
5,28%; Navibank từ 5,6% lên 6,1%.
 Số liệu chưa phản ánh chính xác
Nợ xấu cao sẽ dẫn theo nhiều hệ lụy. Đây cũng chính là điều khiến các ngân hàng sẵn
sàng tìm mọi cách, thậm chí cả giấu nợ xấu. Nhìn vào sổ sách của các ngân hàng thì hầu như
nợ xấu đều trong ngưỡng cho phép, dưới 3%. Nhưng nhiều chuyên gia nghi ngờ các ngân
hàng đã cố tình "làm đẹp" sổ sách và số liệu nợ xấu của các ngân hàng chưa được phản ánh
chính xác. Bởi, ước tính nhóm ngân hàng này chiếm trên dưới 75% tổng dư nợ của hệ thống,
nhưng nợ xấu lại đều dưới 3%. Vậy thì nợ xấu đã trốn đi đâu, khi các tỷ lệ cập nhật từ Ngân
hàng Nhà nước (qua tổng hợp báo cáo của các thành viên) gần đây đều có từ 4,5 - 4,7%, chưa
kể con số qua giám sát từ xa của cơ quan tranh tra là cao hơn nhiều (khoảng 8% nợ xấu).
Để giảm nợ xấu, nhiều ngân hàng tìm cách đưa tỷ lệ nợ xấu xuống mức thấp (dưới
3%). Họ có thể áp dụng nhiều cách như hỗ trợ giải ngân cho khách hàng để đảo nợ, thực hiện
giải ngân lòng vòng giữa các ngân hàng hoặc mua chéo nợ của nhau… Nợ được phân thành 5
nhóm, từ nhóm 3 đến nhóm 5 mới bị coi là nợ xấu. Nhưng nhờ tái cơ cấu, doanh nghiệp được
khoanh nợ, giãn nợ nên nợ nhóm 3 được đẩy lên nhóm 2, nợ nhóm 4 lên nợ nhóm 2 thậm chí
nợ nhóm 5 cũng có thể phù phép lên nợ nhóm 2.
Nợ xấu được giảm đi rõ song bản chất của những khoản nợ đó vẫn không vì vậy mà
bớt xấu đi. Vì vậy, khó quy được về giá trị tuyệt đối của nợ xấu và cũng khó để giải quyết bài
toán nợ xấu đang ngày càng xấu đi.
Theo các chuyên gia, các ngân hàng đưa nợ xấu về mức dưới 3% nhằm 2 mục
đích là không phải bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng
Việt Nam (VAMC) và giảm trích lập dự phòng rủi ro. Theo quy định, các tổ chức tín dụng
có nợ xấu trên 3% bắt buộc phải bán nợ cho VAMC, nhưng khi bán nợ rồi thì vẫn phải trích
lập dự phòng rủi ro 20%/ năm cho số đã bán, sau 5 năm số nợ này VAMC không xử lý được
thì lại trả về cho các tổ chức tín dụng.
Vì vậy nhiều tổ chức tín dụng không muốn bán nợ cho VAMC, bởi bán nợ rồi mà vẫn
phải trích lập dự phòng rủi ro. Nợ xấu khi còn thuộc về các tổ chức tín dụng thì họ có toàn

15
quyền xử lý, nay phải phụ thuộc vào 1 tổ chức khác mà chưa biết thế nào. Để tránh phải bán
nợ thì chỉ có cách là đưa về mức dưới 3%.
Điều thứ 2 là nếu tỷ lệ nợ xấu thấp, ở mức 3% thì đương nhiên việc trích lập dự phòng
sẽ thấp và chi phí thấp, sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn. Vì vậy nhiều ngân hàng trong thời gian
qua đã "nhanh chóng" xử lý để đưa nợ xấu về con số an toàn. Bản thân các ngân hàng lớn
hay nhỏ, hoạt động tốt hay không đều có xu hướng giấu nợ xấu. Ngân hàng nhỏ giấu vì
sợ nếu lộ ra sẽ bị phân biệt đối xử, khách hàng rút chạy. Còn những ngân hàng lớn, giấu nợ
xấu, trích dự phòng rủi ro thiếu để tăng lợi nhuận, kích giá cổ phiếu cũng như thu hút khách
hàng.
2.2. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu tại các NHTM trong thời gian qua
Các nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu
2.2.1. Nguyên nhân khách quan:
+ Sự thay đổi chính sách của Nhà nước:
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của môi trường kinh tế -
xã hội. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho hoạt động của khách hàng ít bị biến
16
động, do vậy mà việc dự báo về tình hình tài chính, kinh doanh của khách hàng cũng
thuận lợi hơn. Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định thì ngân hàng rất khó có
thể phân tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng trong
tương lai cũng như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do
vậy mà ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng trong tương
lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng không đạt yêu cầu.
Chính sách của chính phủ ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp, qua đó
tác động đến hoạt động của ngân hàng trên các phương diện sau:
Chính sách thuế: chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của doanh
nghiệp. Khi chính phủ có những thay đổi về chính sách thuế, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ bị tác động và có thể ảnh hưởng đến nguồn thu của doanh nghiệp, từ đó
ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ngân hàng
Chính sách xuất- nhập khẩu vật tư thiết bị: khi có bất kỳ sự thay đổi nào về chính

sách xuất nhập khẩu vật tư thiết bị sẽ ảnh hưởng tức thời và trực tiếp đến chi phí và doanh
thu của doanh nghiệp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và làm giảm doanh thu, từ đó gây khó khăn cho việc trả nợ ngân hàng và vì vậy rủi ro tín
dụng của ngân hàng tăng lên
+ Tác động của hệ thống pháp luật, văn bản của nhà nước, thể chế thị trường:
Hệ thống luật pháp là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động tài chính ngân hàng.
Một hệ thống luật hoàn chỉnh là yêu cầu tối quan trọng cho sự phát triển của hoạt động
ngân hàng. Sự thiếu chặt chẽ, hoàn chỉnh của môi trường pháp luật tác động xấu tới hoạt
động ngân hàng nói chung và nợ xấu ngân hàng nói riêng. Kẽ hở của hệ thống văn bản
pháp luật tạo điều kiện cho khách hàng lừa đảo, chiếm dụng vốn ngân hàng, chây ỳ không
chịu trả nợ hoặc gây khó khăn cho quá trình xử lý nợ của ngân hàng. Hệ thống pháp luật
hay thay đổi, kém minh bạch, hiệu lực thực thi yếu cũng có thể làm cho hệ thống ngân
hàng trở nên kém lành mạnh và trong đó thường là tỷ lệ nợ xấu cao, tồn đọng lâu trong
các ngân hàng.
Trước đây, các ngân hàng đang xử lý nợ xấu theo Quyết định 493 của NHNN, thì
năm 2012, Quyết định 780 ra đời, cho phép ngân hàng cơ cấu lại nợ (giữ nguyên nhóm
17
nợ) cho khách hàng. Đến đầu năm 2013, NHNN lại ban hành Thông tư 02 siết chặt việc
phân loại, xử lý nợ và vài tháng sau, lại hoãn thời gian áp dụng thêm 1 năm. Vì chính
sách thay đổi liên tục nên các ngân hàng bị lúng túng trong xử lý nợ.
+ Môi trường tự nhiên:
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất
kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự
đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
Vì vậy khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra, khách hàng cùng ngân hàng sẽ có nguy cơ tổn
thất lớn, phương án kinh doanh bị đổ bể, doanh nghiệp không có nguồn thu điều đó
đồng nghĩa với ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng của mình.
+ Môi trường kinh tế xã hội:
Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng của những biến
động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh

doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó ngân
hàng là ngành chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn nhất.
Nhóm tác động bất khả kháng như biến động thị trường, thay đổi về lãi suất, tỷ giá,
ảnh hưởng của các cuộc suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng lớn đến quá trình xử lý nợ xấu.
Đã có hàng chục ngàn doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản, dẫn tới không thể trả nợ cho
ngân hàng. Các ngân hàng cũng khó siết nợ, bắt giữ tài sản của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế không lành mạnh, minh bạch, sự phát triển không đầy đủ của
các thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản ảnh hưởng đến công
tác tín dụng và nợ xấu của ngân hàng.
2.2.2. Nguyên nhân từ khách hàng vay:
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém
trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì,… là các nguyên nhân gây rủi ro
tín dụng.
+ Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính: Trường hợp
người vay có trình độ yếu kém về quản lý, không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả
18
năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và
khắc phục khó khăn trong kinh doanh sẽ dẫn tới vốn vay không được sử dụng hiệu quả.
Ngoài ra, việc yếu kém trong quản lý tài chính có thể dẫn tới trường hợp dù dự án hay quá
trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả song nguồn trả nợ ngân hàng sẽ không được đảm
bảo. Như vậy doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn
cho ngân hàng
+ Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Khi người vay
gặp những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại sản phẩm của doanh nghiệp bất ngờ
giảm sút do một số thông tin bất lợi), từ bạn hàng (ví dụ doanh nghiệp bị bạn hàng chiếm
dụng vốn và không hoàn trả đúng thời hạn quy định) hoặc từ những rủi ro không dự kiến
được tác động đến nguồn thu của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân
hàng.
+ Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng:
Khách hàng cung cấp hồ sơ, chứng từ vay vốn giả mạo để vay vốn ngân hàng.

Trường hợp này người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng
hạn hoặc không muốn trả nợ ngân hàng. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
2.2.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Đây là nhóm nguyên nhân có tác động quan trọng đến việc phát sinh nợ xấu. Đa số
các khoản nợ xấu có thể phòng tránh nếu bản thân ngân hàng chủ động hạn chế tốt các
nguyên nhân chủ quan. Điều này được phản ánh qua thực tế hoạt động của nhiều ngân
hàng trên thế giới với tỷ lệ nợ xấu chiếm mức thấp trong tổng dư nợ khi họ chú trọng các
biện pháp ngăn chặn nợ xấu phát sinh do nguyên nhân chủ quan. Có thể tóm tắt lại một số
nguyên nhân chính như sau:
+ Quan điểm của Ban lãnh đạo điều hành ngân hàng:
Ban lãnh đạo ngân hàng thường đề ra mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận được
trong mỗi thời kỳ (khẩu vị rủi ro). Do rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn, nên
có một số ngân hàng chấp nhận cho vay những dự án mạo hiểm để thu về lợi nhuận cao.
Nếu ngân hàng thương mại có quan điểm đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ chế
19
quản lý sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để bộ phận có liên quan tìm kiếm, quyết định
những khoản cho vay, đầu tư có thu nhập kỳ vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời
các quy định về kiểm tra, kiểm soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi quyết
định cho vay cũng sẽ thấp hơn trong khi tiêu chí về khả năng sinh lời rất được coi trọng.
Trường hợp ngược lại nếu quan điểm kinh doanh lấy an toàn làm chính thì các quy định
về cơ chế quản lý tài sản trong việc thẩm định, xem xét trước khi ra quyết định cho vay,
đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết định, việc
kiểm tra, giám sát cũng được đặt ở mức cao hơn. Các ngân hàng thương mại phải biết lựa
sức mình để xác định lợi nhuận hợp lý.
+ Sự quản lý và phối hợp tác nghiệp giữa các khâu của quá trình cấp tín dụng
còn yếu kém:
Sự quản lý yếu kém trong hoạt động ngân hàng thể hiện ở một số nội dung như:
chậm điều chỉnh, ban hành mới các cơ chế, chính sách phù hợp; chỉ đạo nghiệp vụ không
sâu sát, kịp thời; không có các chính sách phòng ngừa rủi ro hoặc có nhưng không hoàn

thiện Đặc biệt khâu quản trị rủi ro của một số ngân hàng, đặc biệt là khâu định hướng
khách hàng mục tiêu, kiểm tra kiểm soát nội bộ còn yếu kém.
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng thương mại bao gồm: trong giai đoạn trước khi cho vay, trong giai đoạn giải ngân và
trong giai đoạn quản lý khoản vay của khách hàng.
Ở giai đoạn trước khi cho vay việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng,
điều kiện cho vay; xem xét, đánh giá khách hàng, khoản vay không kỹ, không tốt sẽ dẫn
đến khả năng xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải ngân không tuân thủ
theo điều kiện; yếu kém trong kiểm soát, theo dõi (không kiểm soát mục đích sử dụng vốn
vay của khách hàng, việc kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của
khách hàng bị buông lỏng, việc kiểm soát, theo dõi danh mục khoản vay không được thực
thi một cách có hiệu quả) sẽ dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
+ Nguồn cung cấp thông tin về khách hàng vay:
20
Ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó
khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những
thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông
với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan, để kiểm chứng những thông tin tài chính do
khách hàng cung cấp. Hệ thống kế toán còn nhiều bất cập, chưa chặt chẽ dẫn đến doanh
nghiệp sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối
phó với cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.
+ Trình độ của cán bộ ngân hàng:
Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được các
khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc với nhiều khách hàng ở nhiều
lĩnh vực kinh doanh khác nhau, nhiều vùng, lãnh thổ để đánh giá tốt khách hàng họ phải
am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng
sống. Cán bộ tín dụng phải có khả năng phân tích, dự báo các vấn đề liên quan đến khách
hàng vay. Như vậy, khi trình độ của cán bộ tín dụng yếu kém dẫn đến không xác định
được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng

đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được nguồn thu của
khách hàng, phân tích báo cáo tài chính không chính xác để có thể đưa ra một mức cho
vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt trong phần kiểm
tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay
từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau
khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích
sửa nhà, mua sắm vật dụng, Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn
nguồn khác để trả nợ ngân hàng, dẫn đến phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng
là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị
lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
+ Đạo đức của cán bộ tín dụng:
Với các khoản vay càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những điều kiện tín
dụng đặt ra, khách hàng vay thường bỏ ra những khoản “hoa hồng” rất lớn để có thể
vay được tiền. Điều này dẫn tới tình trạng một số cán bộ tín dụng cố ý làm sai quy
21
trình tín dụng hay bỏ sót một vài bước trong quy trình để nhằm nhận được những
khoản "hoa hồng" từ khách hàng. Bởi vậy, chất lượng cán bộ tín dụng bao gồm trình
độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo cũng sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.
+ Nạn tham nhũng, hối lộ trong hoạt động ngân hàng:
Cũng như các ngành kinh tế khác, nạn tham nhũng và hối lộ đã gây tổn thất lớn cho
hoạt động ngân hàng. Tình trạng tham nhũng làm suy yếu hệ thống tài chính, ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế và dẫn đến nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng.
Do vai trò trung gian tài chính trong nền kinh tế nên ngân hàng là nơi tập trung
nguồn lực tiền tệ của xã hội. Sự thoái hoá, biến chất của một số cán bộ ngân hàng tạo cơ
sở cho tệ nạn tham nhũng. Các vụ án tham nhũng, hối lộ có quy mô lớn xảy ra đa phần có
sự tiếp tay của cán bộ ngân hàng. Khả năng thu hồi những khoản này rất thấp. Vì vậy,
việc hạn chế tệ nạn này là một biện pháp để ngân hàng ngăn chặn phát sinh nợ xấu.
2.2.4. Nguyên nhân từ khâu thẩm định tài sản bảo đảm:
+ Giá trị tài sản bảo đảm giảm mạnh, không đủ trả nợ khiến ngân hàng do dự

không dám xử lý:
Trước kia, ngân hàng đã giảm thiểu rủi ro bằng cách định giá tài sản theo quy định
chỉ bằng 70% giá thị trường và cho vay tối đa 70% giá trị tài sản (tức là, chỉ cho vay
khoảng 49% giá trị thị trường của tài sản). Nhưng đến giờ, giá tài sản thậm chí giảm chỉ
còn khoảng 20 - 30%. Nếu ngân hàng phát mại tài sản, thì không thể thu hồi đủ vốn, mà
khách hàng cũng không còn tài sản khác hoặc tài sản đã thế chấp nơi khác. Cho nên, các
ngân hàng đều phải cân nhắc kỹ lưỡng nên hay không nên xử lý tài sản bảo đảm. Nếu để
nguyên giá trị trên sổ sách thì vẫn đủ bảo đảm cho khoản nợ và vẫn tính lãi phát sinh. Còn
xử lý ngay, ngân hàng sẽ mất vốn và phải trích lập dự phòng rủi ro cao hơn. Hơn nữa, trên
sổ sách sẽ lộ ra những thất thoát, mất vốn, sai phạm của cán bộ…=> Do việc do dự xử lý
tài sản đảm bảo nên nhiều trường hợp ngân hàng mất vốn vay hoàn toàn=>tạo ra nợ xấu.
+ Khâu xử lý nợ xấu còn nhiều gian nan
Trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng buộc điều kiện
“Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được toàn
22
quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ”. Trên thực tế, nếu không đạt được sự thoả
thuận với khách hàng hoặc khách hàng không hợp tác, cố tình chây kỳ để kéo dài thời
gian trả nợ thì ngân hàng đều phải chuyển hồ sơ khởi kiện gửi Toà án. Do đó, dù có phán
quyết của Toà, ngân hàng vẫn còn gặp trở ngại vì khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là
sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá Từ lúc khởi
kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ mất ít nhất 2 năm, trung bình mất 8-9 năm.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XỬ LÝ VÀ HẠN CHẾ GIA TĂNG NỢ XẤU
TRONG HỆ THỐNG NHTM
1. Kiến nghị đối với khách hàng
Thứ nhất , chất lượng tín dụng là kết quả của mối quan hệ giữa ngân hàng và
khách hàng. Ngân hàng không thể cải thiện chất lượng tín dụng trong điều kiện phần lớn
khách hàng có năng lực kinh doanh yếu kém, năng lực tài chính không đảm bảo, chiến
lược kinh doanh không rõ ràng hay sử dụng nhiều công nghệ lạc hậu. Do đó, bản thân
khách hàng cần có ý thức nâng cao năng lực và đạo đức kinh doanh, khẩn trương khắc
phục những tồn tại, yếu kém, đặc biệt cần chủ động trong quá trình tái cơ cấu.

Thứ hai, để xử lý nợ xấu, ngoài sự tham gia của các cơ quan quản lý và NHTM
còn rất cần đến sự thiện chí, hợp tác của khách hàng. Đối với những khách hàng có thiện
chí, hợp tác trả nợ thì ngân hàng sẽ tạo điều kiện hỗ trợ để khách hàng tìm nguồn trả nợ
như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên cơ sở khách hàng có phương án/kế hoạch trả nợ cụ thể
và khả thi, chủ động tìm kiếm khách hàng/thị trường mới để bán hàng tồn kho với phương
thức linh hoạt và giá hợp lý hơn, tự xử lý tài sản bảo đảm hoặc phối hợp với ngân hàng tổ
chức bán đấu giá tài sản bảo đảm để trả nợ, sắp xếp lại và đổi mới phương án sản xuất
kinh doanh cho phù hợp với tình hình mới… Nhờ đó việc thu hồi nợ diễn ra nhanh chóng
hơn và mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng không bị ảnh hưởng xấu. Ngược lại,
đối với những khách hàng chây ỳ, cố tình không trả nợ đến hạn thì ngân hàng phải kiên
quyết thu nợ bằng mọi biện pháp phù hợp, kể cả sử dụng biện pháp cuối cùng là khởi kiện
tại Tòa án để yêu cầu trả nợ. Quá trình này sẽ rất mất thời gian, phức tạp hơn nhiều và gây
ra tổn thất cho cả khách hàng và NH.
2. Giải pháp đối với NHTM
23
2.1. Giai đoạn trước giải ngân:
Tín dụng là một trong những hoạt động chính của NHTM – một hoạt động rất phức tạp và
chứa đựng nhiều rủi ro. Nếu hành động chủ quan duy ý chí sẽ mang lại những tổn thất
nặng nề cho ngân hàng. Vì vậy, để ra được một quyết định cấp tín dụng đúng đắn, tiết
kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng và khách hàng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh
doanh, đòi hỏi cán bộ tín dụng trước tiên cần tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cấp tín dụng
nói chung và các bước tiếp cận khách hàng, phân tích tín dụng nói riêng.
Thứ hai, cán bộ tín dụng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với chất lượng và hiệu
quả của hoạt động tín dụng ngân hàng. Do đó NH cần đảm bảo đội ngũ cán bộ tín dụng
của mình phải là những người: nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
cũng như của các cơ quan quản lý khác trong phát triển kinh tế - xã hội; giỏi chuyên môn
nghiệp vụ, có kiến thức tổng hợp về kinh tế thị trường, nhanh nhạy, am hiểu pháp luật; có
kiến thức, hiểu biết chuyên sâu ở các lĩnh vực có liên quan đến công tác thẩm định…
Thứ ba, cán bộ tín dụng cần được bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện tin thần làm
việc có trách nhiệm, vì lợi ích của ngân hàng.

2.2. Giai đoạn sau giải ngân
Ngay khi khách hàng bắt đầu được giải ngân, ngân hàng đã phải thực hiện một cách linh
hoạt các hoạt động kiểm tra, theo dõi, thu nợ với khách hàng
Trên cơ sở kết quả việc phân tích và phân loại khách hàng vào các nhóm nợ, ngân hàng
cần tiến hành các biện pháp xử lý nợ có tính chủ động và linh hoạt cao như
- Thường xuyên gặp gỡ KH để kịp thời nắm bắt nhu cầu và những khó khăn của khách
hàng.
- Luôn luôn theo dõi sát sao hoạt động kinh doanh của KH, tình hình nguồn thu, các ảnh
hưởng của thị trường tới nguồn thu của KH để luôn đưa ra được các biện pháp xử lý kịp
thời.
- Thành lập tổ xử lý nợ quá hạn, các bộ phận chuyên trách, có nhiệm vụ
 Cảnh báo các KH sắp đến hạn trong tháng tới/tuần tới để chuyên viên KH kịp xử
lý.
 Cảnh báo sớm; CR khách hàng khi nắm bắt được tình hình rủi ro (ngành trọng
điểm, ngành rủi ro cao, nhóm KH thường xuyên quá hạn )
24
 Tìm hiểu nguyên nhân quá hạn khi KH bắt đầu quá hạn. Có hệ thống theo dõi, cập
nhật tình hình xử lý khách hàng gắn kết của các bộ phận có liên quan.
 Phân chia KH thành nhiều nhóm để có hướng xử lý khác nhau
Nhóm Hướng xử lý
Mới quá hạn, có thể trả nợ trong
thời gian ngắn
1. Chính sách hỗ trợ (miễn giảm lãi )
2. Gia hạn nợ, cơ cấu nợ cho KH
Có thể trả nợ, nhưng trong thời
gian dài
1. Tích cực đôn đốc thu nợ
2. Tái cấu trúc
3. Chính sách hỗ trợ (miễn giảm lãi )
Rất khó khăn/không thể trả nợ 1. Đẩy nhanh việc thi hành án

2. Bán tài sản để trả nợ
3. Sử dụng quỹ DP rủi ro
4. Bán nợ sang TCTD khác (VAMC )
a. Gia hạn nợ, cơ cấu nợ cho KH
Việc cơ cấu nợ cho KH thường được áp dụng với KH có thiện chí trả nợ, vẫn hoạt
động kinh doanh bình thường.
Tuy nhiên,việc trả nợ gặp khó khăn do các yếu tố khách quan (thiên tai, lũ lụt…), do
hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng chung bởi tình hình thị trường, dòng tiền về
chậm hơn so với dự tính….
KHi gia hạn, cơ cấu nợ cho KH, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải thực hiện
thêm 1 số điều kiện như bổ sung them TSĐB, trả 1 phần nợ quá hạn….
Trước đây, khi phân loại nợ vẫn theo quy định 493 và quyết định 18, việc cơ cấu nợ
rất ít được sử dụng do việc phải tăng nhóm nợ của khách hàng khi thực hiện cơ cấu
(cộng 2 bậc nợ với khách hàng gia hạn nợ và cộng 1 bậc nợ với khách hàng điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ).
25

×