Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Lý luận của lênin về độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.7 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
************
Lý luận của Lênin về độc quyền
nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.
Liên hệ thực tiễn.

MÃ MÔN HỌC & MÃ LỚP:
NHĨM THỰC HIỆN:
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022


MỤC LỤC
I. PHẦN

MỞ

ĐẦU

..............1
1.



do


chọn

đề

tài

1
2.

Mục

tiêu

nghiên

cứu

Đối

tượng

nghiên

cứu

2
3.
2
II. PHẦN


NỘI

DUNG

..............3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V.LÊNIN VỀ ĐỘC QUYỀN TRONG CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN..........
3
1.1 . Nguyên nhân hình thành và sự phát triển của bản chất độc quyền trong chủ nghĩa tư
bản..............
3
1.1.1. Sự phát triển của trình độ phát triển hố lực lượng sản xuất
..............4
1.1.2.

Sự

phát

triển

của

phân

cơng

lao

động


4
1.1.3.

Sự

thống

trị

của

độc

quyền

4
1.1.4.

Sự

bành

trướng

của

các

liên


minh

nước

trong

độc

quyền

quốc

tế

5
1.2.

Bản

chất

của

độc

quyền

nhà


chủ

nghĩa



bản

5
1.2.1. Là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
5
1.2.2.Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản
chất

của

chủ

nghĩa



bản


..............6
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG

CHỦ


NGHĨA



BẢN

8
2.1 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước tư sản
8
2.2

Sự

hình

thành



phát

triển

sở

hữu

Nhà


nước

9
2.3

Sự

điều

tiết

kinh

tế

của

Nhà

nước

bản………………………………………………..10
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
..13
III. KẾT

LUẬN

................19


IV. TÀI
................20

LIỆU

THAM

KHẢO




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Sau giai đoạn tự do cạnh tranh, chủ nghĩa tư bản phát triển thành giai đoạn cao
hơn là chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Giai đoạn độc quyền là sự tiếp nối trực tiếp của giai đoạn trước và thực chất là một
bước mới của quá trình phát triển và cải biến cơ bản về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất nhằm thích ứng với nhu cầu của thế giới và những biến động về tình hình
kinh tế chính trị toàn cầu từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cho đến nay.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ
nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba q trình gắn
bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp
của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức
mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc
vào các tổ chức độc quyền.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính
trị, xã hội chứ khơng phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa

tư bản.
Hiện nay, nhận thức về độc quyền kinh doanh ở nước ta còn nhiều mâu thuẫn,
vai trò quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế chưa được thừa nhận nên chưa
có các quy định, cơ quan kiểm sốt hành vi của Chính phủ liên quan đến cạnh tranh
và độc quyền. Ngoài ra, tư tưởng bỏ qua kinh tế tư nhân cũng có tác động tiêu cực
đến mơi trường cạnh tranh.
Trên những cơ sở mâu thuẫn ấy nên hơm nay nhóm COCACOLA_17CLC
quyết định chọn đề tài: “Lý luận của LÊNIN về độc quyền nhà nước trong Chủ
nghĩa tư bản và liên hệ thực tế” để có thể làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc, nguyên
nhân, bản chất của độc quyền từ đó hạn chế được những mâu thuẫn trong nền kinh tế.
Vì là sinh viên năm nhất, thời gian nghiên cứu đề tài có hạn, kiến thức chưa đủ
sâu nên khơng tránh khỏi những thiếu sót trong q trình hồn thành bài tiểu
luận.Chúng em mong thầy có thể bỏ qua những thiếu sót và hy vọng nhận được sự
1


góp ý từ thầy để bài tiểu luận này có thể đạt đến sự hoàn chỉnh. Một lần nữa chúng
em xin cảm ơn thầy và mong muốn kết quả nghiên cứu từ đề tài thảo luận này của tụi
em có thể giúp ích được trong việc khắc phục nhược điểm và những mâu thuẫn để
phát triển và hoàn thiện nền kinh tế đất nước ngày càng vững mạnh.
2. Mục tiêu nghiên cứu:

• Mục tiêu cho phần lý thuyết: Dựa trên lý thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin, đề tài
này cung cấp hệ thống kiến thức lý luận về độc quyền nhà nước trong nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa. Dựa vào đó đi sâu tìm hiểu những vấn đề của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước, chỉ ra được bản chất và ý nghĩa của độc quyền nhà nước trong chủ
nghĩa tư bản, hiểu được tầm quan trọng của Nhà nước trong việc điều hành kinh tế.
- Thông qua chủ đề này, chúng ta có thể hiểu được bối cảnh kinh tế thế giới với
những đặc điểm mới và hình thành tư duy thích ứng với bối cảnh thế giới khơng
ngừng thách thức.

• Mục tiêu cho phần liên hệ thực tiễn:
- Rút ra bài học, kinh nghiệm từ những liên hệ thực tiễn để dễ dàng và thuận lợi cho
việc vận dụng những thành tựu của thực tiễn vào trong việc phát triển và vận hành
nền kinh tế đất nước.
3. Đối tượng nghiên cứu:

 Đối tượng NC của phần lý thuyết:
- Đặc điểm và những biểu hiện mới của CNTB độc quyền và CNTB độc quyền
nhà nước
- Nguyên nhân, bản chất và biểu hiện của CNTB độc quyền
- Sự ra đời và bản chất của CNTB độc quyền nhà nước
- Những mâu thuẫn và xu thế vận động của CNTB hiện nay
 Đối tượng NC của phần liên hệ:
- Tìm hiểu ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu CNTB độc quyền Nhà
nước ta hiện nay
2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA V. LÊNIN VỀ ĐỘC QUYỀN TRONG CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN
1.1 Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư
bản
Theo V.I.Lênin, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đến mức độ
nhất định, tất yếu dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đấy
là một khuynh hướng tất yếu. Mặt khác, khi chỉ đến những năm giữa thế kỉ XX, chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã thể hiện một trình độ phát triển mới
của chủ nghĩa tư bản. Ở đó về mặt kinh tế, độc quyền phát triển lên trình độ cao hơn

– độc quyền nhà nước.
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền mà trong đó nhà nước thực hiện nắm
giữ vị thế độc quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở nhiều
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế để tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của
chế độ chính trị xã hội ứng với điều kiện phát triển, thúc đẩy nhất định trong các
thời kỳ lịch sử.
Độc quyền nhà nước thể hiện tính phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Để
duy trì sức mạnh của mình thì giữa các quốc gia, ở các mức độ khác nhau luôn nắm
giữ những vị thế độc quyền theo phạm vi nhất định. Tuỳ vào trình độ phát triển mà
có thể xuất hiện ở các mức độ khác nhau. Và trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa, độc quyền nhà nước được xây dựng và hình thành trên cơ sở cộng sinh giữa
độc quyền tư nhân, độc quyền nhóm và sức mạnh kinh tế của nhà nước, sự chi phối
của tàng lớp tư bản độc quyền (đặc biệt là cùa tư bản tài chính) đối với bộ máy nhà
nước.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ra đời do những nguyên nhân chủ
yếu sau:
3


1.1.1 Sự phát triển của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất
Tích tụ và tập trung nguồn lực vốn càng nhiều càng lớn thì tích tụ và tập trung sản
xuất càng cao, dẫn đến những cơ cấu kinh tế to lớn địi hỏi cần phải có một sự điều
tiết từ một trung tâm đối với việc sản xuất và phân phối.
Sự mở rộng, phát triển của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã sinh ra
yêu cầu khách quan là Nhà nước với tư cách đại biểu cho toàn bộ xã hội cần phải
quản lý nền kinh tế. Và ở trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sản xuất càng
được chú trọng nâng cao thì lực lượng sản xuất xã hội hố ngày càng nhiều, thế
nhưng quan hệ sản xuất lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, vì vậy tất yếu địi hỏi cần có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để
mở đường cho lực lượng sản xuất có thể tiếp tục tăng trưởng.Hình thức mới của quan

hệ sản xuất đó chính là độc quyền trong nhà nước.
1.1.2 Sự phát triển của phân công lao động xã hội
Sự phát triển của phân công lao động xã hội dẫn đến sự xuất hiện một số ngành
mới có vai trị quan trọng trong phát triển nền kinh tế xã hội, thế nhưng các tổ chức
độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư vì vốn đầu tư lớn, lại cịn thu
hồi vốn chậm và lợi nhuận thấp, nhất là các ngành trong kết cấu hạ tầng như năng
lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản,...
Do đó, nhà nước sẽ phải đứng ra đảm nhận vai trị phát triển các ngành đó,
nhằm tạo điều kiện cho các tồ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có
nhiều lợi ích hơn.
1.1.3 Sự thống trị của độc quyền
Sự thống trị của độc quyền tư nhân dẫn đến gia tăng sự phân hóa giàu nghèo và
càng làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Khi ở trong điều kiện bất
lợi như thế thì địi hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những
mâu thuẫn đó, ví dụ như là các chính sách trợ cấp cho người thất nghiệp, điều tiết sự
thu nhập quốc dân, không những thế Nhà nước còn phải phát triển phúc lợi xã hội để
duy trì sự ổn định chế độ chính trị và trật tự xã hội.
4


1.1.4 Sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế
Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự “ mở rộng phạm vi tác
động” của các liên minh độc quyền quốc tế đã vấp phải những hàng rào quốc gia dân
tộc và xung đột lợi ích với các đối thù trên nền thị trường thế giới. Tình hình đó địi
hỏi cần phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng
thể qn vai trị của nhà nước.
Song việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và sự tác động của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại cũng địi hỏi có sự can thiệp của nhà nước vào tương lai và
đời sống kinh tế.
1.2 Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản:

Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp khả năng của
các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh vô cùng to lớn của nhà nước tư sản
thành một thiết chế và thể chế thống nhất với nhau. Trong đó nhà nước tư sản bị phụ
thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các hoạt động kinh tế để bảo vệ lợi
ích của tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Về cốt lõi, chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước vẫn là chính nó, chịu sự chi phối, áp đặt của quy luật giá trị
thặng dư, mặc dù nó đã thay đổi nhiều hơn so với chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ cạnh
tranh tự do.
1.2.1 Là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là bước đệm phát triển mới của nền chủ
nghĩa tư bản độc quyền. Đó là sự kết hợp của ba q trình, đó là: tăng trưởng về
quyền lực của các tổ chức độc quyền; tăng cường vai trò và khả năng can thiệp
của nhà nước vào nền kinh tế thị trường; Kết hợp sức mạnh kinh tế tài chính của
độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước.
Mặc dù đang ở giai đoạn vô cùng phát triển nhưng nó vẫn chưa thốt khỏi chủ
nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một bước
tiến của chủ nghĩa tư bản độc quyền sơ khai.
Đặc điểm nổi bật nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chính là sự
can thiệp và điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế. Mặc dù nhà nước đã can
5


thiệp và điều tiết nền kinh tế ở một mức độ nào đó trong giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản độc quyền, nhưng hoạt động thống trị vẫn là bàn tay vơ hình hoặc sự
can thiệp gián tiếp của nhà nước. Chẳng hạn, ngay ở giai đoạn nhà nước điều tiết
gián tiếp các quan hệ kinh tế thông qua thuế, xâm lược nước ngoài để mở rộng thị
trường độc quyền ...
Vì vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế
mới so với chủ nghĩa tư bản, chứ chưa nói đến một chế độ tư bản mới mới so với
chủ nghĩa tư bản độc quyền. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là chủ nghĩa tư

bản độc quyền có sự can thiệp và điều tiết của nhà nước vào nền kinh tế, là sự kết
hợp giữa quyền lực của tư bản độc quyền và quyền lực của nhà nước trong nền
kinh tế.
1.2.2 Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản
chất của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là những khái niệm trong đó có các tổ chức tư bản
độc quyền ở hầu hết các ngành nghề hay là lĩnh vực của nền kinh tế và tổ chức này
đang kiểm sốt sự phát triển của tồn bộ nền kinh tế.
Bản chất của tư bản là quan hệ bóc lột trong đó giai cấp tư sản đã chiếm lấy giá trị
thặng dư bởi giai cấp công nhân sáng tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc
quyền có lẽ vẫn không đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Trong khi quy luật lợi
nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến chất của quy luật giá trị thặng dư.
Trong bản chất cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã
trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là những chủ sở hữu những xí nghiệp,
cũng đi theo lối kinh doanh và bóc lột sức lao động làm thuê như một nhà tư bản
thông thường. Nhưng điểm khác biệt ở đây là ngoài chức năng của một nhà tư bản
thơng thường, nhà nước cịn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như
quân đội, cảnh sát, nhà tù, ... Ph.Ăngghen cũng cho biết rằng: "nhà nước đó vẫn là
nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng
chuyển biến nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng
biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu"
Theo những quan điểm trên, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan
6


hệ kinh tế, chính trị và xã hội, chứ khơng phải là một chính sách trong giai đoạn duy
nhất của chủ nghĩa tư bản.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế thị trường cụ thể rõ ràng đối với xã
hội mà nó đang chiếm hữu, nhưng trong tất cả chế độ trong xã hội, vai trò kinh tế của
nhà nước có sự thay đổi bản chất thích hợp với xã hội đó. Các quốc gia tư bản trước

đây chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và ép buộc siêu kinh tế. Trong thời kỳ chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngồi q trình kinh tế, vai
trị của nhà nước chỉ dừng lại ở việc tiết chế bằng thuế hay pháp luật. Cùng với sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, vai trò của nhà nước tư sản dần thay đổi,
không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế và pháp luật mà còn đóng vai
trị tổ chức và quản lý các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước, điều tiết
bằng đòn bẩy kinh tế các biện pháp ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản
xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình thức vận động phát triển mới của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì được sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản,
làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi được với điều kiện lịch sử mới.

7


CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU CỦA ĐỘC QUYỀN NHÀ
NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
2.1 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước tư sản
Lenin đã từng nhấn mạnh rằng liên minh cá nhân giữa ngân hàng và công
nghiệp được bổ sung bởi liên minh cá nhân giữa ngân hàng và cơng nghiệp và chính
phủ: 'Hơm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng,
ngày mai là bộ trưởng ”
(Lê-nin: toàn tập, chủ biên. Chính sách Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 31, tr. 275. )
Việc gộp nhân sự do các đảng tư sản thực hiện.Chính các đảng này đã tạo cơ
sở xã hội cho tư bản độc quyền thực hiện quyền thống trị và trực tiếp xây dựng đội
ngũ cán bộ cho bộ máy nhà nước. Ngồi các đảng tư sản, cịn có các hiệp hội doanh
nhân với nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ: Hiệp hội cơng nghiệp quốc gia Mỹ, Tổng
liên đồn cơng nghiệp Ý, Liên đồn các nhà kinh tế Nhật Bản, Liên minh Nhà nước
công nghiệp Đức, Hội đồng sở hữu quốc gia Pháp, Tổng Liên đồn Cơng thương
Anh ... Các liên hiệp chủ xí nghiệp này đã trở thành một lực lượng kinh tế chính trị

to lớn, là rường cột của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Các hiệp hội này hoạt động
thông qua các đảng của giai cấp tư sản, họ cung cấp kinh phí cho các đảng, họ quyết
định về nhân sự và đường lối kinh tế chính trị của các đảng, họ tham gia vào việc
xây dựng bộ máy nhà nước các cấp. Mặt khác, bên cạnh các bộ, họ cũng thành lập
các cơ quan tham mưu để “thúc đẩy” các hoạt động của nhà nước theo chiến lược
riêng của họ. Vai trò của các hiệp hội lớn đến mức dư luận thế giới đã gọi họ là các
tổ chức đứng sau chính phủ, một thế lực thực sự đứng sau quyền lực của chính phủ.
Thơng qua chủ sở hữu của các hiệp hội, một mặt, đại diện của các tổ chức độc quyền
tham gia với các vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước; Mặt khác, các quan chức và
nhân viên chính phủ được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị của các công ty độc quyền,
giữ các chức vụ quan trọng hoặc danh dự, hoặc trở thành người bảo trợ của các
nhóm cơng ty độc quyền. Sự đan xen này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu
hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền với các cơ quan chính quyền
từ trung ương đến địa phương.
8


2.2 Sự hình thành và phát triển sở hữu Nhà nước
Độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm
vụ hỗ trợ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản. Nó khơng chỉ thể hiện ở sự lớn mạnh của sở hữu nhà nước mà còn ở
sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và độc quyền tư nhân, hai loại tài
sản gắn bó với nhau trong một q trình có tính chu kỳ của tổng vốn xã hội.
Tài sản nhà nước không chỉ bao gồm động sản, bất động sản cần thiết cho hoạt
động của bộ máy nhà nước mà còn bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước trong
công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông,
giáo dục, y tế, an sinh xã hội ...trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng
nhất.
Sở hữu nhà nước phát sinh dưới nhiều hình thức: thơng qua việc phát triển các
doanh nghiệp nhà nước có vốn từ ngân sách nhà nước; quốc hữu hóa các cơng ty tư

nhân thông qua tiếp quản; nhà nước mua cổ phần trong các công ty tư nhân; Mở rộng
các công ty nhà nước với vốn tích lũy từ các cơng ty tư nhân ...
Doanh nghiệp nhà nước thực hiện những chức năng quan trọng sau đây:
+ Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho chủ
nghĩa tư bản phát triển. Điều này đề cập đến các ngành sản xuất cũ không bền
vững và có nguy cơ tuyệt chủng, cũng như các ngành mới hơn đòi hỏi đầu tư vốn
lớn và mức độ nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao.
+ Thứ hai, tư bản độc quyền tự do từ các ngành ít sinh lợi hơn thành các doanh
nghiệp hiệu quả hơn.
+ Thứ ba, với tư cách là hỗ trợ điều tiết nền kinh tế tư bản theo các chương trình cụ
thể.Cùng với kinh doanh nhà nước, thị trường quốc doanh được hình thành.Việc
hình thành thị trường nhà nước, trong đó nhà nước chủ động mở rộng thị trường
trong nước bằng cách mua sản phẩm của các công ty độc quyền thông qua các hợp
đồng đã ký, đã giúp vốn tư nhân vượt qua khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng
thừa và giúp đẩy nhanh quá trình thường xuyên đảm bảo phát . Các hợp đồng ký
kết với nhà nước giúp các công ty độc quyền tư nhân tiêu thụ hàng hóa, đảm bảo
lợi nhuận ổn định, khắc phục tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược.
9


Tiêu dùng của chính phủ thơng qua mệnh lệnh của chính phủ, đặc biệt là đơn đặt
hàng của quân đội do tăng chi ngân sách. Những hợp đồng này đảm bảo cho các
cơng ty độc quyền tư nhân một dịng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận
của việc sản xuất hàng hóa đó cao hơn nhiều so với tỷ suất lợi nhuận của thông
thường.
2.3 Sự điều tiết kinh tế Nhà nước
Trong một bài giảng tại Đại học Sverdlov vào ngày 11 tháng 7 năm 1919,
Vladimir Ilyich Ulyanov đã nhận xét: “Nhà nước là một cỗ máy duy trì sự thống trị
của giai cấp này so với giai cấp khác”. Nói cách khác, nhà nước tư sản là sản phẩm
chính trị và thể chế kết tủa của sự thống trị xã hội của các nhà tư bản. Sự thống trị

này bao gồm những gì? Nó bao gồm việc quản lý thành công các đối kháng giai cấp
không thể hòa giải của một hệ thống xã hội nhất định. Bây giờ, trong chừng mực nhà
nước là một địa điểm trong lịch sử bị giai cấp thống trị chiếm đóng, nó là một cơng
cụ được nó triển khai độc quyền để duy trì quyền lực, một cơng cụ được cấu hình lại
liên tục để có hiệu quả chống lại những nỗ lực của những kẻ hạ cấp nhằm áp đặt
quyền kiểm sốt đối với hoạt động của nó.
Thực tế là nhà nước là một dạng quyền lực xã hội đã biến đổi - xa rời xã hội có
giai cấp và nằm ngồi tầm kiểm sốt của nó - bắt nguồn từ sự thống trị giai cấp của
giai cấp tư sản, bao gồm tồn bộ các hình thức thống trị về kinh tế, chính trị và tư
tưởng. Vì nhà nước xuất hiện cùng với sự phân chia xã hội loài người thành các giai
cấp, nên nó lấy nguồn dinh dưỡng từ những yêu cầu bá quyền của giai cấp thống trị,
đóng vai trị là nút điều tiết nơi quy tắc kinh tế của nó được chuyển thành quyền lực
chính trị; đó là nơi nó trở nên tập trung và cơ đọng, được củng cố quyền lực và thẩm
quyền của các bộ máy nhà nước.
Vì nhà nước là cơ quan chủ yếu mà qua đó giai cấp thống trị đưa ra các hình
thái chính trị - xã hội thích hợp cho ảnh hưởng kinh tế của mình, cơ sở cho bộ máy
nhà nước được xác định bằng bạo lực cấu thành của quan hệ lao động tiền lương vốn; tức là, giai cấp tư sản đòi quyền hợp pháp để chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai
cấp vô sản sản xuất. Do đó, tính chất giai cấp của nhà nước gắn liền với địa vị của nó
như một bộ máy chỉ thừa nhận vũ lực và bạo lực của giai cấp tư sản, biến thực tế cơ
bản của sự bóc lột kinh tế thành mạng lưới đồng thuận và cưỡng bức phức tạp và dày
10


đặc. Phần giới thiệu của G. M. Goshgarian về cuốn “Triết lý cuộc gặp gỡ sau đó,
1978-87” của Louis Althusser ghi chú:
Bởi vì nhà nước là kết quả của sự biến đổi lực lượng giai cấp dư thừa, sự khác
biệt giữa cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp thống trị với tất cả những người khác
(bạn hay thù), nên theo định nghĩa, đó là sự bảo tồn của những người chiến thắng
trong cuộc đấu tranh. Và bất kể ‘hình thức chính trị’ nào mà qua đó, sự thống trị của
nhà nước thực hiện quyền thống trị: quyền thống trị của giới quý tộc địa phương vẫn

tồn tại dưới chế độ chuyên chế, quyền thống trị của giai cấp tư bản không nhất thiết
bị giảm bớt - ngược lại vẫn giữ nguyên - với sự ra đời của nền dân chủ nghị viện.
Nói tóm lại, sự khác biệt mâu thuẫn giữa lực lượng của các giai cấp thống trị
và lực lượng của các giai cấp bị thống trị - động lực của đấu tranh giai cấp - tạo ra cơ
cấu cho nhà nước. Tuy nhiên, do nhà nước dựa trên sự khác biệt này, nên đấu tranh
giai cấp được đặt trong một khn khổ mới mà trong đó chỉ có một lực lượng duy
nhất - lực lượng của giai cấp tư sản - được công nhận, lực lượng này sau đó được
chuyển thành quyền lực bá chủ. Đó là lý do tại sao Lenin nói:
Mọi nhà nước tồn tại quyền sở hữu tư nhân về đất đai và tư liệu sản xuất, trong
đó tư bản thống trị, dù có thể dân chủ đến đâu, đều là nhà nước tư bản, một bộ máy
do nhà tư bản sử dụng để bắt giai cấp công nhân và nông dân nghèo phải phục tùng.
Trong khi nhà nước tư bản là một công cụ của giai cấp thống trị - hoạt động
như một chỉnh thể khớp nối và tồn tại nhờ những mục tiêu bá quyền cụ thể - thì nó
khơng tĩnh về mặt cấu trúc. Nếu chúng ta cố gắng hiểu nhà nước về mặt lịch sử - như
một ví dụ về sự kết hợp của các yếu tố đơn lẻ tạo ra nó, như một tập hợp các quan hệ
xã hội, trong đó con người thực sự vận động và hành động, như một tập hợp của các
điều kiện khách quan - thì rõ ràng là trạng thái ln ln được nhúng trong một ma
trận bá chủ. Mặc dù bộ máy nhà nước phục vụ giai cấp thống trị, nhưng lôgic phức
tạp, không đồng đều và mâu thuẫn của đấu tranh giai cấp dẫn đến sự tích tụ liên tục
của mâu thuẫn nội tại giữa các nhánh khác nhau, làm nổi bật vai trò tư tưởng của một
bộ máy nhất định, hoặc sự hợp nhất bạo lực.
Tuy nhiên, nhịp điệu thường xuyên của cuộc đấu tranh giai cấp không bao giờ
tác động đến các cấu trúc cơ bản của nhà nước. Trong khi giai cấp vơ sản có thể mở
rộng ảnh hưởng của mình trong xã hội dân sự và thậm chí giành được quyền lực quốc
11


hội, thì một thực tế cơ bản vẫn là: vì nền tảng phái sinh của nhà nước là xã hội có giai
cấp và bạo lực mà nó tồn tại, và mục đích của nó là biến thặng dư bạo lực thành lực
lượng chính đáng, cái mà một chiến thắng bầu cử gây thiệt hại - thông qua việc tạo ra

một kiến trúc thay thế về sự đồng ý - là hệ thống truyền tải của bộ máy nhà nước. Để
tiêu diệt toàn diện nhà nước tư sản - và giành quyền bá chủ hồn tồn - giai cấp vơ
sản khơng chỉ phải mở những cuộc phân tranh mà còn phải đương đầu với chính sức
mạnh vật chất của bộ máy đàn áp của nhà nước.

12


CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển biến từ nền kinh
tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố chưa đủ hợp lý của
mơ hình kinh tế trước đây vẫn đang còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải
pháp cụ thể để giải quyết nhanh chóng trong thời gian tới. Một trong các vấn đề nan
giải cần phải giải quyết là tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Sự
tồn tại của rất nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh chưa
hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực là một
trong những lý do chính được các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng định chắc chắn Việt
Nam khơng có nền kinh tế thị trường trong vụ cá da trơn của Việt Nam. Để hội nhập
kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện có thể gia nhập WTO trong thời gian
tới và tránh thua thiệt trong các cuộc thương mại quốc tế, vấn đề này phải được hoàn
thiện để quy định một mức độ đủ để cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà
nước, vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo rằng sự thúc đẩy sản xuất
trong nước phát triển một cách mạnh mẽ.
Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay, có hai loại hình độc quyền: thứ nhất là kết
quả của sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp Coca-Cola phân tích
ở trên được coi là một ví dụ về hình thức độc quyền xuất phát từ sự cạnh tranh trên
thị trường nước giải khát có ga tại Việt Nam. Tuy nhiên, như đã đề cập trước đó, nền
kinh tế thị trường của Việt Nam vẫn còn sơ khai, và cho đến nay mới chỉ xảy ra một
số trường hợp độc quyền do cạnh tranh. Tất nhiên, trong tương lai, những hình thức

độc quyền như vậy sẽ trở nên phổ biến hơn, nhưng đây là một hiện tượng bình
thường trong bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào. Dựa trên kinh nghiệm của các nước
có nền kinh tế thị trường phát triển, vấn đề này sẽ được giải quyết thông qua các quy
định về chống độc quyền trong luật cạnh tranh, như quy định về tự cấm, thỏa thuận
giá giữa các đối thủ cạnh tranh, tẩy chay hàng hóa, lạm dụng quyền lực thị trường,
tập trung kinh tế v.v... Luật cạnh tranh của Việt Nam cũng có những quy định này.
Đây là chương thứ hai quy định về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh và độc quyền trên thị trường, tập trung kinh tế và các vấn đề khác. So với
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các quy định về kiểm soát độc quyền
13


trong pháp luật cạnh tranh của Việt Nam chưa hoàn hảo. Tuy nhiên, trong điều kiện
kinh tế nước ta hiện nay, quy định như vậy là tương đối rõ ràng và thống nhất. Trong
tương lai, khi cạnh tranh trên thị trường lên mức cao hơn và xuất hiện nhiều hành vi
cạnh tranh khác, sẽ cần bổ sung các quy định kiểm sốt độc quyền mới. Loại hình
độc quyền thứ hai được coi là loại hình độc quyền phổ biến nhất ở Việt Nam hiện
nay, là kết quả tác động tổng hợp của các cơ chế hành chính trước đây và một số quy
định của pháp luật, chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung cao độ trước đây, chúng ta chỉ chấp nhận một hình thức sở hữu nhà nước và
hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân khơng xuất hiện trong thời gian
đó. Sở hữu cơng cộng này tạo ra độc quyền nhà nước trong mọi lĩnh vực của nền kinh
tế. Nhà nước thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất và cung cấp sản phẩm
cho người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế theo mệnh lệnh hành pháp đã làm phát
sinh các công ty độc quyền thuộc sở hữu nhà nước, một số công ty vẫn cịn tồn tại
cho đến ngày nay. Ngồi ra, hiện nay đang có xu hướng chuyển đổi từ độc quyền nhà
nước sang độc quyền doanh nghiệp. Sở hữu đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi
thế cho VNPT và ngăn cản các công ty khác tham gia thị trường viễn thơng, vì các
cơng ty khác sẽ phải sử dụng đường trục nếu muốn cung cấp dịch vụ viễn thông. Viễn
thông Quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị phần và quy định pháp luật hiện

có, giá dịch vụ viễn thông của VNPT cung cấp cho người dùng cao hơn 30% so với
các nước ASEAN. Tình hình tương tự với Công ty Điện lực Việt Nam (EVN), ở nước
ta đã có khá nhiều doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ có tập đồn EVN mới được
nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực hiện nay, việc sản xuất
điện có liên quan cực kì mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho các
doanh nghiệp sản xuất điện đều phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ nặng đô trên
cùng thị trường điện lực. Chính vì vậy, sự độc quyền của EVN đối với việc kinh
doanh điện là điều hiển nhiên.
Tóm lại, pháp luật quy định rằng nhà nước có quyền độc quyền đối với “các phương
tiện cơ bản” như đường trục viễn thông quốc gia, đường dây tải điện hoặc nhà ga
hàng không, hệ thống đường sắt, v.v., nhưng không phân biệt rõ yếu tố cạnh tranh
tiềm tàng với yếu tố độc quyền tự nhiên, khiến nhà nước chuyển sang Độc quyền trở
thành độc quyền doanh nghiệp. Điều này cho thấy những quy định này không phù
14


hợp với quy luật kinh tế thị trường và cần được thay đổi trong thời gian tới. Không
chỉ vậy, một số chính sách kinh tế trong quá khứ cũng đã tạo ra thế độc quyền của
nền kinh tế nước ta. Thông thường, chủ trương thành lập công ty tạo ra sự độc quyền
của một số ít doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng, xi măng, lắp đặt máy
móc…đều do Chính phủ quyết định. Ngồi ra, nhà nước đầu tư rất nhiều tiền vào
doanh nghiệp. Kết quả là, các cơng ty có sức mạnh thị trường đáng kể trong các
ngành mà họ hoạt động và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, và khơng cơng ty nào
có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp, chính phủ. Hiện nay, chính phủ chủ trương
thành lập các tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng các khối kinh tế có ý nghĩa
quan trọng vì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam cịn rất nhỏ so với các cơng ty nước
ngồi, đặc biệt là các công ty đa quốc gia về mức độ tập trung vốn và cơng nghệ.
Trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự hợp tác và cạnh tranh là điều tất yếu. Để
có thể tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam cần phải hình thành
một khối kinh tế đủ mạnh trong một số lĩnh vực nhất định. Theo số liệu trước đó của

Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), 4 tập đoàn kinh tế sẽ được thành lập vào
cuối năm trong lĩnh vực điện, khí và điện và khí đốt, viễn thơng và xây dựng Theo
chính sách này, các khối kinh tế dựa trên sự hợp nhất của các công ty nhỏ thành
những công ty lớn. Về lý thuyết và thực tiễn luật cạnh tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm
nếu chúng làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc trái với lợi ích công cộng, liên quan đến
các vấn đề như lợi ích của khách hàng, tạo việc làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược
lại, việc sáp nhập sẽ không bị cấm nếu nó có nhiều khả năng mang lại lợi ích kinh tế
vượt quá giới hạn cạnh tranh. Đối với các khối kinh tế của Việt Nam, xung đột giữa
độc quyền và lợi ích cơng phát sinh từ việc sáp nhập phải được tránh. Khi Nhà nước
thành lập tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp này có thể dễ dàng chiếm lĩnh vị trí
thống lĩnh và quyền lực thị trường đáng kể so với các doanh nghiệp khác và các quy
định chính sách cụ thể có thể tạo ra thế độc quyền cho tập đồn kinh tế. Ngồi ra, một
số chính sách của Nhà nước cũng có lợi hơn đối với DNNN do hình thức sở hữu. Vì
vậy, DNNN có nhiều lợi thế trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh trên thị
trường so với các thành phần khác của nền kinh tế. Cụ thể, trong một số trường hợp,
nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp bảo lãnh cho doanh nghiệp vay nợ, ưu đãi quyền sử
dụng đất, miễn thuế trong một số trường hợp, vay ngân hàng chỉ định hoặc vay ưu đãi
15


lãi suất. Vì vậy, có thể nói: ở một mức độ nào đó, chính sách kinh tế đã trở thành một
lực cản cho việc tạo ra độc quyền trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam.

 Một số giải pháp
Từ những phân tích về độc quyền trên, có thể thấy các rào cản thị trường ở Việt
Nam hiện nay được chia thành ba trường hợp sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp trên
thị trường đã loại bỏ các đối thủ khác thông qua các hành vi kinh doanh nhất định và
trở thành nhà độc quyền trên thị trường. Thứ hai, sự tồn tại của một số quy định pháp
luật và các chính sách kinh tế đã hình thành sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà
nước. Thứ ba, pháp luật không xác định rõ việc sử dụng “các phương tiện cần thiết”

trong mối quan hệ với độc quyền tự nhiên, do đó đã biến độc quyền nhà nước thành
độc quyền doanh nghiệp. Loại rào cản thứ nhất là hình thức phổ biến ở tất cả các
quốc gia, và Việt Nam cũng sẽ không ngoại lệ trong tương lai. Luật cạnh tranh đã đưa
ra một số luật và quy định phù hợp hơn với tình hình kinh tế hiện nay của nước tôi để
điều chỉnh mối quan hệ này. Vấn đề ở đây là cần phải có các quy định để giải quyết
sự tồn tại của các rào cản loại II và loại IIIĐối với loại thứ hai, cần thấy rằng: Trong
một số trường hợp, sự tồn tại của các rào cản thị trường do pháp luật quy định là cần
thiết. Điều này được chứng minh bằng việc hầu hết các quốc gia đều thừa nhận sự tồn
tại của các tổ chức độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích cơng
cộng hoặc an ninh quốc gia. Ví dụ, chính phủ Úc "thừa nhận rộng rãi độc quyền nhà
nước về nước, điện, đường sắt, đường bộ, bưu chính và viễn thơng. Việc chỉ định độc
quyền nhà nước trong các lĩnh vực này được giải thích trên cơ sở rằng các hoạt động
trên là một hình thức độc quyền tự nhiên." Ở Việt Nam, nghị quyết của đảng khẳng
định: nhà nước độc quyền trong lĩnh vực dịch vụ công, trong các ngành công nghiệp
mũi nhọn như điện lực, viễn thơng, cảng biển, thuốc lá, cấp thốt nước, sản xuất vũ
khí, vật liệu nổ ... Trong thời gian tới, Chính phủ nên cụ thể hóa các quy định này và
liệt kê các lĩnh vực độc quyền nhà nước để đảm bảo pháp lý rõ ràng, tránh biến độc
quyền nhà nước thành độc quyền thương mại. Đồng thời, chính phủ cũng nên trao đổi
về các kế hoạch cụ thể để xóa bỏ độc quyền trong một số ngành. Thực tế cho thấy,
lĩnh vực độc quyền nhà nước ở các nước không giống nhau, cũng không tồn tại ổn
định trong mọi thời kỳ mà phụ thuộc vào điều kiện quốc gia của mỗi nước. Tuy
16


nhiên, luật cần quy định cụ thể theo hướng nhà nước độc quyền trong lĩnh vực liên
quan đến độc quyền tự nhiên và lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia. Ngoài ra,
các cơ quan chức năng quốc gia, cụ thể là các cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia
(được thành lập theo luật cạnh tranh), cần rà soát các văn bản pháp luật để xác định
các vấn đề., Vì vậy, đề nghị các cơ quan ban hành văn bản này sửa đổi hoặc hủy bỏ
để phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường của nước ta. Chính sách thành lập các

khối kinh tế cũng là một vấn đề cần quan tâm. Tập đoàn kinh tế sau khi thành lập có
thế mạnh, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngồi. Do đó, với việc thành
lập các khối kinh tế, các quy định cần được ban hành để khuyến khích hơn nữa các
cơng ty nước ngồi, kể cả các khối kinh tế đa quốc gia, kinh doanh trên thị trường
quốc tế và làm đại lý tại Việt Nam. Điều này khơng chỉ đảm bảo tính cạnh tranh của
nền kinh tế mà cịn tạo mơi trường cho các tập đồn kinh tế của nước tơi phát triển.
Loại thứ ba là nơi yếu tố độc quyền tự nhiên gắn liền với một hoạt động có khả năng
cạnh tranh như sản xuất điện, dịch vụ hành khách đường sắt hoặc dịch vụ viễn thông.
Các quy định cần được xây dựng để phân biệt các yếu tố của độc quyền tự nhiên với
các hoạt động cạnh tranh tiềm tàng như vậy. Ví dụ, việc cung cấp cơ sở hạ tầng viễn
thông, truyền tải điện và các dịch vụ nhà ga sân bay phải được tách biệt với các dịch
vụ viễn thơng, phát điện và vận tải hàng khơng. Chính phủ nên thành lập các doanh
nghiệp nhà nước độc lập để quản lý các công ty độc quyền tự nhiên này. Nhất quán
với điều này, các chính phủ nên ban hành các quy định về việc sử dụng "các phương
tiện cần thiết" cho các công ty độc quyền tự nhiên. Thứ nhất, các công ty độc quyền
tự nhiên làm chủ "các phương tiện cơ bản" nên được quản lý bởi các bộ phận chun
mơn. Ví dụ, Bộ Giao thơng vận tải sẽ kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp quản
lý nhà ga hàng không, Bộ Công nghiệp sẽ quản lý các doanh nghiệp sở hữu hệ thống
truyền tải điện ... là "phương tiện cần thiết" để quản lý độc quyền tự nhiên để đáp ứng
các yêu cầu sử dụng các cơng trình đó Mọi trường hợp. Vì vậy, cần có quy định về
vấn đề này. Đặc biệt, cần quy định rằng các cơng ty đó khơng có trách nhiệm cung
cấp "cơ sở vật chất thiết yếu" cho các doanh nghiệp khác trừ khi cần thiết để thúc đẩy
cạnh tranh hiệu quả trong nền kinh tế. Ví dụ, khi một nhà ga hàng không đang hoạt
động hết công suất, nhà đầu tư độc quyền đương nhiên khơng có nghĩa vụ cung cấp
“các phương tiện thiết yếu” ngay cả khi được nhà cung cấp dịch vụ vận tải yêu cầu.
17


Ngồi ra, cần có quy định về việc xác định giá khi sử dụng "các phương tiện cần
thiết". Trên thực tế, các công ty nắm giữ "phương tiện cơ sở" có xu hướng tính giá

độc quyền cho các yếu tố này. Vì vậy, để tránh tình trạng độc quyền về giá, bộ phận
tuyến cần xác định giá sử dụng các dịch vụ cơ bản này. Xác định giá bằng cách sử
dụng "phương tiện cơ bản" không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Theo kinh nghiệm
của một số nước, giá sử dụng “phương tiện thiết yếu” phụ thuộc vào một số yếu tố
như phạm vi và mức độ sẵn có của “phương tiện thiết yếu” và kế hoạch sử dụng trong
tương lai. Chi phí xây dựng các "phương tiện cơ bản" này. Đồng thời, tác động của
giá cả đối với việc thúc đẩy sản xuất và bảo dưỡng "ô tô cơ bản" và vai trị quan trọng
của việc khuyến khích đổi mới cơng nghệ cũng cần được tính đến.

KẾT LUẬN

Việc ôn lại những chỉ dẫn này của chủ nghĩa Mác - Lê-nin sẽ giúp chúng ta có
thêm niềm tin khi dấn thân vào con đường xây dựng nhà nước kiểu mới trên cơ sở kế
thừa những giá trị của nhà nước tư sản pháp quyền. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày nay là sáng tạo, phù hợp với điều kiện đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lý luận có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường Việt Nam hiện nay. Nó giải thích bản chất của các thuộc tính hàng hóa, sự
khác biệt giữa các yếu tố cơ bản và các hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua bán
hàng hóa. Nó cũng là cơ sở để giải thích tính ngang giá giá trị trao đổi. Học thuyết
góp phần phân tích toàn diện bản chất của tế bào kinh tế tư bản chủ nghĩa, bản chất
của nó trong q trình trao đổi. Đặc biệt đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã
18


hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ sở lý luận để bảo đảm tính cạnh tranh, cơng bằng, hồn
thiện hệ thống kinh tế, nâng cao vai trò quản lý kinh tế.
Trên đây là phần trình bày của nhóm em về “Lý luận của Lênin về độc quyền
nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.”. Toàn bộ là từ những kinh nghiệm tham khảo,
hiểu, và vận dụng những lý thuyết vào bài tiểu luận. Tuy nhiên, cũng sẽ có nhiều

thiếu xót trong q trình thực hiện. Chúng em mong thầy có thể xem xét và gợi ý cho
chúng em cách chỉnh sửa để có thể hồn thành bài tiểu luận này ngày càng hồn thiện
hơn. Nhóm COCA-COLA xin chân thành cảm ơn!

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lênin
[2] Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. (2022, April 2). Lý tưởng.
/>[3] Bản chất của tư bản? (n.d.). Loigiaihay.Com. />[4] Nguyên nhân hình thành và bản chất của tư bản:
/>[5] Quan

hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản: />
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3 (Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr27-51,
[7] V.I.Lênin: Kinh tế và chính trị trong thời đại chun chính vơ sản.
[8] GS,TS, Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) 2011, Về các mối quan hệ lớn cần
được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Nxb CTQG, HN

20



×