VẬN DỤNG LÝ LUẬN HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP VÀ
ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người trải qua, không phải hình
thái kinh tế xã hội nào cũng tồn tại giai cấp, mà giai cấp chỉ xuất hiện trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, giai cấp thống
trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, sở hữu tư liệu sản xuất
và chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không
những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức, bóc lột cả về chính
trị, xã hội lẫn tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai
cấp bị trị. Họ dùng mọi thủ thuật, phương tiện để tuyên truyền về một xã hội
“công bằng”, “tự do”, bác ái; dùng mọi biện pháp kể cả vũ lực và công cụ hỗ trợ
để che chắn, bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho
phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp và công cụ chủ yếu là
quyền lực nhà nước.
Trước xu thế hoà bình - hợp tác, toàn cầu hóa, khu vực hóa và quá trình
hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều người dường như lãng quên vấn đề giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Ai nói đến đấu tranh giai cấp liền bị quy chụp là "bảo thủ",
"giáo điều". Ai nhắc nhở phải cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình" thì
cho là "thiếu thức thời", "tư duy cũ". Nhất là sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở các
nước Đông Âu và Liên Xô, một lần nữa, nhiều nhân vật chống cộng và không ít
kẻ "ăn theo" hí hửng rằng: CNXH đã chết, lý tưởng cộng sản đã hết thời; Họ cố
tình đồng nhất việc Liên Xô đổ vỡ với việc chấm dứt CNXH và chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong xu thế ấy, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp vẫn vững vàng
là một trong những nội dung căn bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết quả tất
yếu của sự hình thành và phát triển quan niệm duy vật về lịch sử. Lý luận đó đã
và đang là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản và giai
cấp công nhân trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng xác định đường lối
chiến lược, sách lược trong cuộc đấu tranh thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của mình, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
1
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Có thể nói, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp là một mảng lớn trong
học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin, một bộ phận không thể thiếu để hình
thành nên chủ nghĩa duy vật về lịch sử. Vậy giai cấp là gì, giai cấp tồn tại trong
điều kiện lịch sử nào, vì sao có đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp có vai trò
như thế nào trong lịch sử và trong thời đại ngày nay? Đó là những vấn đề cơ bản
để khám phá các quy luật lịch sử, để hiểu thêm về xã hội, loài người từ khi xã
hội nguyên thủy tan rã đến nay.
1. Giai cấp là gì?
1.1. Khái niệm và đặc trưng của giai cấp
Quan điểm về giai cấp được hình thành khá sớm trong lịch sử. Ở Trung
Quốc, từ thế kỷ IV, III Trước công nguyên người ta đã thừa nhận rằng xã hội
phân chia thành giai cấp là một thực tế. Nhưng do nguyên nhân gì mà xã hội
phân chia thành giai cấp thì có nhiều quan niệm khác nhau. Phần lớn các nhà
triết học, xã hội học trước C.Mác, đặc biệt là các nhà triết học và xã hội học tư sản
đều thừa nhận sự tồn tại thực tế của các giai cấp. Song, do hạn chế về nhiều mặt,
đặc biệt là hạn chế về nhận thức, về lập trường giai cấp, họ đã không thể lý giải
một cách khoa học về hiện tượng phức tạp này của lịch sử, họ đã cắt nghĩa sự
phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân chủ quan, do những yếu tố
tinh thần. Do chỗ họ không đưa ra được những tiêu chuẩn khoa học để phân
định sự khác nhau về giai cấp nên đã cho rằng: Sự khác nhau về giai cấp là do
khác nhau về chủng tộc, về màu da, về tâm lý, về tài năng cá nhân, về địa vị và
uy tín xã hội. Từ đó các nhà tư tưởng của các giai cấp bóc lột kêu gọi đi tìm
những giá trị xã hội, đạo đức,.. để hòa hợp giai cấp. Đó là quan điểm duy tâm về
vấn đề giai cấp.
Bên cạnh những quan điểm duy tâm nói trên, cũng có những quan điểm
có căn cứ thuyết phục hơn. Chẳng hạn ở Hy Lạp, Platon cho rằng: Sự độc quyền
quá lớn về của cải trong tay giai cấp quý tộc là nguy hiểm về mặt chính trị, vì nó
đẻ ra những mâu thuẫn hết sức sâu sắc.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản với
giai cấp địa chủ, quý tộc xuất hiện, quan niệm về giai cấp cũng như đấu tranh
giai cấp trở nên rõ ràng hơn. Tômátmorơ (ở Anh), Tômađô Campanela (ở Italia)
và Rútxô (ở Pháp) cũng đã nhìn thấy quyền tư hữu là gốc rễ của nhiều tai họa.
Xanhximông (ở Pháp) còn đi xa hơn, ông cho rằng xác lập quyền sở hữu là cơ
sở của kiến trúc xã hội, rằng lịch sử xã hội loài người là sự thay đổi những tiêu
chuẩn của xã hội khác nhau dựa trên chế độ sở hữu.
Tuy nhiên, công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
được gắn liền với tên tuổi các nhà sử học Pháp như Phờrăngxoa Ghidô,
Ôguýtxtanh, Chieri và Phờrăngxoa Milê, mặc dù họ chưa lý giải được một cách
khoa học về vấn đề giai cấp cũng như đấu tranh giai cấp. Theo quan điểm của
các nhà sử học Pháp thì sự thay đổi về quan hệ tài sản, chủ yếu là quan hệ về
2
ruộng đất đã đưa tới mối quan hệ giai cấp mới và sự thay đổi về quan hệ chính
trị.
Vận dụng và mở rộng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào xem xét lĩnh vực
xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã luận
giải một cách khoa học vấn đề giai cấp. Theo C.Mác, sự phân chia xã hội thành
giai cấp là kết quả tất nhiên của sự phát triển lịch sử xã hội. Quan hệ giai cấp
chính là biểu hiện về mặt xã hội của những quan hệ sản xuất, trong đó tập đoàn
người này có thể bóc lột lao động của tập đoàn người khác. Vì vậy, chỉ có thể
hiểu đúng vấn đề giai cấp khi gắn nó với đời sống kinh tế, với nền sản xuất vật
chất xã hội. Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong tác
phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa khoa học về giai
cấp. V.I.Lênin viết: “Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn gồm những
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này
được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và
về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập
đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do
chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”1.
Định nghĩa của V.I.Lênin đã chỉ ra đặc trưng cơ bản của giai cấp, đó là
những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp do toàn bộ
các điều kiện tồn tại kinh tế - vật chất của xã hội quy định và mang tính khách
quan. Địa vị của các giai cấp là do phương thức sản xuất nhất định sinh ra và quy
định. Địa vị của mỗi giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định, nói
lên giai cấp đó là giai cấp thống trị hay giai cấp bị thống trị. Phương thức sản xuất
xã hội là cơ sở hiện thực đưa tới sự ra đời của các giai cấp. Tuy nhiên, không phải
bất cứ phương thức sản xuất nào trong lịch sử cũng sản sinh ra giai cấp, mà chỉ có
những phương thức sản xuất chứa đựng những điều kiện vật chất tạo ra sự đối lập về
lợi ích giữa các tập đoàn người mới sản sinh ra giai cấp.
Địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp được quy định bởi vai trò của tập
đoàn người đó trong các mối quan hệ cơ bản, đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất; quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối của cải xã hội.
Trong những quan hệ trên, quan hệ đối với tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản và
chủ yếu nhất quyết định trực tiếp đến địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp. Bởi
vì, giai cấp nào nắm giữ tư liệu sản xuất tức là nắm được phương tiện vật chất chủ
yếu của nền sản xuất xã hội và theo đó sẽ nắm giữ luôn vai trò chi phối trong tổ
chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm lao động. Từ chỗ thống trị về kinh
tế, giai cấp đó cũng giữ luôn vai trò thống trị trên các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội và trở thành giai cấp thống trị xã hội. Các giai cấp khác do không có tư liệu
1
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.1977, tr. 17-18.
3
sản xuất, buộc phải phụ thuộc vào giai cấp có tư liệu sản xuất và trở thành các giai
cấp bị thống trị, bị bóc lột.
Như vậy, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc
lột, là tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do khác
nhau về địa vị trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Sự đối lập về lợi ích cơ
bản giữa các giai cấp là nguyên nhân căn bản của mọi xung đột xã hội từ khi lịch
sử xã hội loài người có sự phân chia thành các giai cấp cho đến ngày nay.
Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó
gắn với những hệ thống sản xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Vì thế, chỉ có thể nhận thức một cách đầy đủ bản chất của các giai
cấp khi xem xét nó trong hệ thống những mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp và
không ngừng vận động, biến đổi. Song, cơ sở khoa học để xem xét các mối quan
hệ đó, theo V.I.Lênin, không thể có gì khác hơn là phân tích chế độ kinh tế đã sản
sinh ra các giai cấp đó và địa vị cụ thể của mỗi giai cấp trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin mang bản chất cách mạng và khoa học,
có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở để nhận thức đúng đắn vị trí,
vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử; đồng thời trang bị cho giai cấp vô
sản cơ sở lý luận khoa học trong cuộc đấu tranh xoá bỏ giai cấp và xây dựng xã
hội mới.
Từ định nghĩa trên cho thấy, khi nói đến giai cấp là nói đến hệ thống các
tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định do chế độ đó sản sinh
ra, giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử.
Để hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể, phải đặt nó trong hệ
thống, trong mối quan hệ với giai cấp đối lập. Bản chất của giai cấp thể hiện ở
sự khác nhau về địa vị giữa các tập đoàn người trong hệ thống kinh tế – xã hội
nhất định. Sự tồn tại của giai cấp gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định
của sự phát triển sản xuất vật chất xã hội, gắn liền với những phương thức sản
xuất nhất định. Trong một hệ thống kinh tế – xã hội có giai cấp, nếu tập đoàn
người này nắm địa vị thống trị thì tập đoàn người khác ở địa vị bị thống trị. Sự
khác nhau về địa vị trong hệ thống kinh tế – xã hội là đặc trưng chung nhất của
giai cấp.
Làm thế nào để nhận biết một xã hội nào đó có sự phân hóa dân cư thành
giai cấp hay không? Và một nhóm người nào đó thuộc giai cấp này hay giai cấp
khác? Cần phải căn cứ vào các đặc trưng của hiện tượng dân cư bị phân hóa
thành giai cấp. Căn cứ vào cấu trúc của quyền lực kinh tế và mối quan hệ giữa
quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị những tập đoàn người trong một
phương thức sản xuất nhất định là các giai cấp của họ khi:
- Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất:
4
Đây là sự khác nhau cơ bản nhất. Chủ nô (trong chế độ nô lệ), địa chủ
phong kiến (trong chế độ phong kiến), tư bản trong (chế độ tư bản) là những tập
đoàn giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu trước
hết do các tập đoàn người này chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội, tức là nắm
được phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng nhất để chi phối lao động của
tập đoàn người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người
mất tư liệu sản xuất (nô lệ trong chế độ nô lệ, nông nô trong chế độ phong kiến,
vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa) buộc phải phụ thuộc về kinh tế trong các
tập đoàn thống trị.
- Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản
lý sản xuất.
Tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh
đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như
từng đơn vị kinh tế. Chẳng hạn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, vai trò, chức năng
quản lý công nghiệp các ngành kinh tế khác không thể không thuộc về các nhà
tư bản. Các giai cấp lao động là những tập đoàn người trực tiếp sản xuất dưới
điều kiện của giai cấp thống trị trong phương thức sản xuất. Ở một số nước,
trong nhiều công ty, xí nghiệp, công nhân có địa diện ở hội đồng quản trị, song
vai trò quản lý thực chất vẫn thuộc về các tập đoàn tư bản.
- Khác nhau về phương thức thu nhập của cải xã hội.
Là người trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức lãnh đạo sản
xuất, tập đoàn thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất
kinh tế là chiếm đoạt lao động thặng dư của các giai cấp lao động. Chế độ phân
phối sản phẩm trong các xã hội có giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất
công vì nó bảo đảm cho giai cấp thống trị (giai cấp chiếm thiểu số trong dân cư,
giai cấp không trực tiếp lao động sản xuất) chiếm hữu phần lớn của cải xã hội;
còn giai cấp lao động chỉ nhận phần ít ỏi của cải xã hội dưới hình thức này hay
hình thức khác. Trong xã hội nô lệ, người nô lệ sống như súc vật, họ không có
công cụ lao động, không được đối đãi như giá trị một con người, họ chỉ là công
cụ lao động biết tiếng người. Trong xã hội phong kiến, phần lớn sản phẩm của
nông nô và/ nông dân làm ra phải cống nạp cho địa chủ, vua quan, thậm chí có
trường hợp chiếm đến 80 – 90% sản phẩm.
Giai cấp tư sản, nhất là đại tư sản, chiếm hữu của cải xã hội dưới hình
thức thu lợi nhuận, tính bằng giá trị. Đó là giá trị thặng dư do lao động làm thuê
tạo ra. Trong nền sản xuất hiện đại, bộ phận lao động làm thuê có trình độ khoa
học kỹ thuật cao tạo ra nhiều giá trị thặng dư nhất cho giới chủ tư sản. Giai cấp
công nhân và những trí thức làm thuê được nhận một phần sản phẩm lao động
của mình dưới hình thức tiền lương. Đó là tiền bán sức lao động. Ngày nay giai
cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống cao hơn mức sống
những người lao động trước đây. Tuy nhiên sự nâng cao mức sống của những
người lao động hoàn toàn không tương xứng với sự tăng lên nhanh chóng của
5
năng xuất lao động. Tỷ suất bốc lột giá trị thặng dư của giai cấp tư sản vẫn
không ngừng tăng lên. Trong các xã hội có giai cấp, mức sống của người lao
động thay đổi theo những điều kiện cụ thể, song điều không thay đổi là họ phải
cống nạp phần lớn sức lao động của mình cho giai cấp thống trị dưới hình thức
này hay hình thức khác. Ngày nay, tài sản của một nhà tư bản có thể bằng tiền
lương cả cuộc đời lao động của hàng trăm, hàng ngàn công nhân.
Tóm lại, sự khác nhau giữa các tập đoàn người về đị vị kinh tế trong chế
độ kinh tế - xã hội tất yếu dẫn đến tập đoàn này chiếm đoạt lao động của tập
đoàn người khác. Đó là bản chất của quan hệ giai cấp đối kháng. Trong các xã
hội có giai cấp, bên cạnh giai cấp thống trị và bị trị bao giờ cũng tồn tại những
tầng lớp “trung gian” không chiếm địa vị cơ bản trong phương thức sản xuất.
Các tầng lớp trung gian luôn bị phân hóa, một số người leo lên địa vị giai cấp
trên, một số người rơi xuống địa vị giai cấp bị trị. Ở những nước tư bản phát
triển, bộ phận công nhân áo cổ trắng phát triển nhanh chóng, song họ vẫn là
công nhân làm thuê chứ không phải “giai cấp trung lưu” như xã hội học tư sản
miêu tả.
Trong xã hội tư bản đương đại, bộ mặt các giai cấp và quan hệ các giai
cấp có những biến đổi đáng kể. Trong giai cấp công nhân, như trên đã nói, số
lượng công nhân kỹ thuật cao, lao động trí tuệ hóa ngày càng tăng, trở thành bộ
phận tiêu biểu của giai cấp công nhân hiện đại; số lượng công nhân “áo xanh”
ngày càng giảm. Tham gia vào đổi ngũ giai cấp công nhân hiện đại còn có một
bộ phận trí thức kĩ thuật làm công ăn lương. Ngày nay, ở các nước tư bản, giai
cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển về số lượng, mặc dù tỷ lệ công nhân
thất nghiệp ở mức cao. Một số khá đông công nhân mua cổ phiếu, được phân
chia lợi nhuận, song giá trị cổ phiếu trong tay công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ
không đáng kể. Sự phát triển các công ty cổ phần biểu hiện xu thế xã hội hóa tư
bản, nhưng xu thế này không làm thây đổi bản chất của giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân, không làm thây đổi bản chất quan hệ giữa tư bản và lao động.
Đối với giai cấp tư sản hiện đại cũng diễn ra những biến đổi về hình thức chiếm
hữu tư liệu sản xuất, về cơ chế bốc lột giá trị thặng dư, về phương thức tổ chức
quản lý sản xuất. Điều không thây đổi là giai cấp tư sản vẫn là những người
chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội, những người chỉ huy sản xuất, những người
chiếm hữu giá trị thặng dư. Không lý thuyết nào bác bỏ được thực tế này.
1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
Xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại giai cấp. Mác là người
đầu tiên chứng minh rằng “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia xã hội thành giai
cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế. Thật vậy, điều đó đã được chứng minh
qua các chế độ xã hội khác nhau.
Chẳng hạn, trong chế độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn
thấp kém, công cụ lao động thô sơ bằng đá, gậy gộc, cung tên,… do vậy con
6
người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm
thừa. Hơn nữa, lúc này cũng vì lợi ích mà họ sống cùng nhau, kiếm ăn cùng
nhau để chống lại thiên tai, thú dữ,… họ sống giúp đỡ, bình đẳng với nhau,
tương tựa vào nhau mà sống. Không những nguyên nhân trên mà trong thời kỳ
công xã nguyên thủy vẫn chưa có giai cấp.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất chưa phát triển,
nên năng suất lao động còn rất thấp kém. Vì vậy, làm chung, hưởng chung trở
thành phương thức chủ yếu để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ. Điều kiện sản xuất lúc bấy giờ không cho phép và không thể có sự
phân chia xã hội thành giai cấp được. Ph.Ăngghen chỉ rõ, trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ tất cả đều bình đẳng và tự do, chưa có nô lệ và thường thường còn
chưa có sự nô dịch những bộ lạc khác.
Cuối xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ
mới do con người biết sử dụng công cụ sản xuất bằng kim loại và do thường
xuyên cải tiến công cụ sản xuất v.v.. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến
năng suất lao động tăng lên và xuất hiện “của dư ” trong xã hội. Sự xuất hiện của
dư không chỉ tạo khả năng cho những người này chiếm đoạt lao động của những
người khác, mà còn là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới phân công lao động xã hội
phát triển. Sự phát triển của phân công lao động xã hội làm cho hoạt động trao đổi
sản phẩm trở thành tất yếu, thường xuyên và phổ biến. Đến lượt mình, sự phát
triển của phân công lao động và trao đổi lại là những nhân tố kích thích mạnh mẽ
đến sự phát triển của sản xuất vật chất xã hội. Tình trạng sản xuất lúc bấy giờ cho
thấy, sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ không còn phù hợp nữa, sản xuất gia đình
cá thể trở thành hình thức sản xuất có hiệu quả hơn. Các gia đình có tài sản riêng
ngày một nhiều, trong công xã xuất hiện sự chênh lệch về tài sản. Chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất dần dần được hình thành thay thế cho chế độ công hữu nguyên
thuỷ về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện ấy, những người có chức, có quyền trong
thị tộc, bộ lạc lợi dụng địa vị của mình chiếm đoạt tài sản của công xã làm của
riêng. Sự phát triển tiếp theo của sản xuất vật chất từng bước phân hóa xã hội
thành những tập đoàn người có sự đối lập về địa vị kinh tế - xã hội và giai cấp
xuất hiện.
Nghiên cứu sự tan rã của các thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ, Ph.Ăngghen đi đến kết luận: “Trong những điều kiện lịch sử lúc đó, sự phân
công xã hội lớn đầu tiên, do tăng năng xuất lao động, tức là tăng của cải và do mở
rộng lĩnh vực hoạt động sản xuất, nhất định phải đưa đến chế độ nô lệ. Từ sự phân
công xã hội lớn đầu tiên, đã nảy sinh ra sự phân chia lớn đầu tiên trong xã hội thành
hai giai cấp: chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột và người bị bóc lột”2.
Như vậy, nguyên nhân của việc phân chia xã hội thành các giai cấp, cũng
như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của một hệ thống giai cấp này hay hệ
thống giai cấp khác không phải là nguyên nhân chính trị hay tư tưởng mà là
nguyên nhân kinh tế. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình
2
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.240
7
thành các giai cấp. Và chừng nào, ở đâu còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
thì ở đó còn có sự tồn tại của các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Giai cấp chỉ mất đi
khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hoàn toàn bị xóa bỏ.
Như vậy, nguồn gốc sâu xa của giai cấp là do sự phát triển của lực lượng
sản xuất và nguồn gốc trực tiếp đưa tới sự ra đời của giai cấp là chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất. Theo các nhà kinh điển mácxít, từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ
sang chế độ chiếm hữu nô lệ là cả một bước quá độ lâu dài từ chế độ công hữu
sang chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; từ chưa có giai cấp sang có giai cấp, trong
đó các cuộc chiến tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực là điều
kiện góp phần đẩy nhanh quá trình phân hoá giai cấp trong xã hội.
Tổng kết lại thì sự phân chia xã hội thành giai cấp diễn ra torng lịch sử
bằng hai con đường:
- Những người có chức có quyền trong bộ lạc chiếm hữu tài sản của công
xã là của riêng và trở nên giàu có, tiến hành bóc lột nô lệ, tù binh qua chiến
tranh.
- Sự phân hóa trong bộ lạc dẫn đến các thành viên trong bộ lạc mất hết tư
liệu sản xuất, phụ thuộc vào những người chiếm đoạt tư liệu sản xuất (giai cấp
thống trị) họ tham gia ngày càng đông đảo vào hàng ngũ của những người nô lệ.
Đến cuối xã hội nguyên thủy, công cụ kim loại ra đời làm cho năng suất
lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số lượng lớn sản phẩm vượt nhu
cầu tối thiểu để tồn tại, dẫn đến sản phẩm dư thừa. Lúc này họ nhận ra rằng làm
ăn riêng thì có lợi hơn là làm ăn chung như trước kia, sản xuất cá thể của từng
gia đình có hiệu quả hơn là sản xuất tập thể. Và thế là những người có chức có
quyền trong thị tộc, bộ lạc đã nảy lòng tham chiếm toàn bộ công cụ sản xuất,
chế độ tư hữu ra đời. Và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp hình
thành giai cấp. Thật vậy, những người nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của
xã hội sẽ nắm luôn tất cả các quyền lực về kinh tế, chính trị,… trong khi những
người không có tư liệu sản xuất, muốn sống phải bán sức lao động cho những
người kia và chấp nhận bị bóc lột sức lao động và bị chiếm đoạt toàn bộ giá trị
thăng dư do họ làm ra và lúc này giai cấp xuất hiện. Đó là giai cấp chiếm toàn
bộ tư liệu sản xuất của xã hội trở thành giai cấp thống trị, bóc lột, trong khi
những người không có tư liệu sản xuất thì trở thành giai cấp bị áp bức, bóc lột.
Vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sư ra
đời của giai cấp. Sự tồn tại của giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao
lại tạo tiền đề khiến chọ sự thủ tiêu chế độ tư hữu, các cơ sở kinh tế của sự đối
kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là
logic khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.
Nếu nhìn kỹ lại thì ta thấy nguyên nhân sâu xa của sự phân chia xã hội
thành giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lớn về
lao động xã hội. Còn nguyên nhân kinh tế trực tiếp phân chia xã hội thành giai
8
cấp đó chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy mà Các Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp cũng như
nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của hệ thống giai cấp chính là nguyên nhân
kinh tế chứ không phải là nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. Mặt khác, Ph.
Ăngghen cũng nhấn mạnh chiến tranh cũng góp phần vào việc phân chia giai
cấp như những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo ngược đã góp phần thúc
đẩy quá trình phân hóa giai cấp nhưng bản thân bạo lực chính trị không tạo ra
chế độ tư hữu và giai cấp. Như vậy, sự xuất hiện và mất đi của những giai cấp
cụ thể đều dựa trên lợi ích kinh tế. Vì vậy, muốn mất đi giai cấp thì không có gì
khác là bảo vệ lợi ích cho tất cả các cá nhân trong xã hội.
1.3. Kết cấu xã hội - giai cấp
Kết cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ giữa các
giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết cấu xã hội - giai cấp
trước hết là do trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội quy định.
Trong xã hội có giai cấp, kết cấu xã hội - giai cấp thường rất đa dạng do tính đa
dạng của chế độ kinh tế và cơ cấu kinh tế quy định.
Trong một kết cấu xã hội - giai cấp bao giờ cũng gồm có hai giai cấp cơ
bản và những giai cấp không cơ bản, hoặc các tầng lớp xã hội trung gian. Giai cấp
cơ bản là giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị, là sản phẩm của những
phương thức sản xuất thống trị nhất định; còn những giai cấp không cơ bản là
những giai cấp gắn với phương thức sản xuất tàn dư, hoặc mầm mống trong xã
hội. Thông thường các giai cấp do phương thức sản xuất tàn dư của xã hội sản
sinh ra, sẽ tàn lụi dần cùng với sự phát triển của xã hội; các giai cấp do phương
thức sản xuất mầm mống sản sinh ra chính là mặt phủ định xã hội cũ. Trong quá
trình phát triển của lịch sử, các giai cấp cơ bản và không cơ bản có thể có sự chuyển
hoá do sự phát triển và thay thế nhau của các phương thức sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp, ngoài những giai cấp cơ bản và không cơ bản
còn có các tầng lớp và nhóm xã hội nhất định. Mặc dù các tầng lớp, nhóm xã hội
không có địa vị kinh tế độc lập, song nó có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của xã hội nói chung và tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể mà nó có thể phục
vụ cho giai cấp này, hoặc giai cấp khác. Các tầng lớp xã hội này luôn bị phân hoá
dưới tác động của sự vận động nền sản xuất vật chất xã hội. Từ khi xã hội phân
chia thành giai cấp đến nay đều luôn tồn tại hai giai cấp cơ bản đối kháng gắn
liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội đó. Đó là chủ nô và nô lệ
trong chế độ nô lệ; địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến; tư sản và vô sản
trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp của mỗi chế độ kinh tế – xã hội vừa
là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội vừa là giai cấp quyết định sự
tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Trong đó, giai cấp
thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế, xã hội đang tồn
tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản đó, thì mỗi kết cấu giai cấp xã hội còn có giai cấp
không cơ bản (ví dụ là tập đoàn giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ hay
là tập đoàn giai cấp là mầm móng của phương thức sản xuất tương lai, những
9
tập đoàn giai cấp này chỉ là mầm móng hay là mầm móng tương lai của phương
thức sản xuất đang tồn tại, chứ không phải là giai cấp cơ bản.
Như đã đề cập ở trên thì còn có các tầng lớp trung gian, là sản phẩm của
chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã
hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Nó không giữ địa vị cơ bản trong phương
thức sản xuất đang tồn tại và rất dễ bị phân hóa, gia nhập vào giai cấp thống trị
hoặc rơi vào các địa vị giai cấp bị trị. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ,
tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Xã hội có giai
cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế – xã hội
– chính trị – văn hóa, đó là tầng lớp tri thức. Một câu hỏi đặt ra, vậy tri thức có
phải là một giai cấp hay một tầng lớp đặc biệt đứng ngoài giai cấp. Tri thức là
khái niệm dùng để chỉ những người làm nghề thuộc về lao động trí óc chứ
không phải là khái niệm dùng để chỉ giai cấp. Bản thân một tri thức nào đó cũng
xuất thân từ một giai cấp nhất định. Đó chỉ là xuất thân của một tri thức, chứ tri
thức chỉ là một tầng lớp chứ chưa được gọi là giai cấp vì nó không gắn với một
phương thức sản xuất nào.
Kết cấu xã hội - giai cấp luôn có sự vận động và biến đổi không ngừng.
Sự vận động, biến đổi đó diễn ra không chỉ khi xã hội có sự chuyển biến các
phương thức sản xuất, mà cả trong quá trình phát triển của mỗi phương thức sản
xuất.
Phân tích kết cấu xã hội - giai cấp và khuynh hướng vận động, phát triển
của nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong điều kiện
hiện nay. Phân tích khoa học kết cấu xã hội - giai cấp giúp cho chính đảng của
giai cấp vô sản xác định đúng các mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu của xã
hội; nhận thức đúng địa vị, vai trò và thái độ chính trị của mỗi giai cấp. Trên cơ
sở đó để xác định đối tượng và lực lượng cách mạng; nhiệm vụ và giai cấp lãnh
đạo cách mạng, v.v..
2. Đấu tranh giai cấp và vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội
có giai cấp?
2.1. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là quy luật tất yếu của xã hội.
Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp xuất phát từ tính tất yếu kinh tế, từ sự đối lập
về lợi ích căn bản không thể điều hoà được giữa các giai cấp. C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu
tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông
nô, thợ cả của phường hội và thợ bạn, nói tóm lại là những kẻ áp bức và những
người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh
không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng
kết thúc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt vong
của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau”3.
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.597.
10
Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi
ích căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định. Trong
xã hội có giai cấp, về cơ bản các giai cấp, tầng lớp xã hội còn lại đều có lợi ích ít,
nhiều gắn với việc đánh đổ giai cấp thống trị bóc lột. Song, do lợi ích giữa các tập
đoàn là hết sức khác nhau, nên thái độ của các giai cấp tham gia vào cuộc đấu
tranh chung không giống nhau. Chỉ có giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất
mới và quần chúng cùng khổ là lực lượng tham gia đông đảo, tích cực nhất. Vì
vậy, đấu tranh giai cấp chủ yếu và trước hết là cuộc đấu tranh của hai giai cấp cơ
bản trong xã hội có lợi ích căn bản đối lập nhau. Cuộc đấu tranh này là trục chính
thu hút các giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian trong xã hội tham
gia.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của giai cấp bị thống trị,
bóc lột chống lại giai cấp thống trị, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.
V.I.Lênin khẳng định: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận nhân dân này
chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức
và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản”4.
Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội, đây là điểm khác
nhau căn bản giữa quan điểm của những người cách mạng với những người cơ
hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội là phương thức tất yếu để lật đổ ách thống trị
của giai cấp thống trị bóc lột, xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển.
Đấu tranh giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn trong lịch sử. Cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các giai trong lịch sử tất yếu phát triển đến cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp vô sản. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản đứng lên
giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của mình và thông qua nền chuyên
chính đó tiến hành cải tạo triệt để xã hội cũ, tiến tới xoá bỏ mọi đối kháng giai
cấp, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong đấu tranh giai cấp tất yếu có liên minh giai cấp. Liên minh giai cấp
là sự liên kết giữa những giai cấp này để chống lại những giai cấp khác. Cơ sở của
liên minh giai cấp là sự thống nhất về lợi ích cơ bản. Liên minh giai cấp có tính
chiến lược lâu dài khi các giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất với nhau. Ngược
lại, sẽ là sách lược tạm thời khi dựa trên cơ sở sự thống nhất về những lợi ích
trước mắt, không cơ bản. Liên minh giai cấp là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng để tập hợp và phát triển lực lượng trong các cuộc đấu tranh giai cấp.
2.2. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai
cấp đối kháng
4
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 237 - 238.
11
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng (chiếm hữu nô lệ, phong kiến và
tư bản chủ nghĩa) thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Vai trò là động lực thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp thì mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất mới với quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ được giải quyết, từ đó thực hiện
bước quá độ từ một chế độ xã hội lỗi thời sang một chế độ xã hội mới tiến bộ
hơn.
Như đã biết: sự phát triển của xã hội xét đến cùng là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất quyết định. Nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất lại
phụ thuộc vào việc lực lượng sản xuất mới có gạt bỏ được những quan hệ lỗi
thời đang kìm hãm nó hay không. Nếu như không gạt bỏ được quan hệ sản xuất
lỗi thời thì chứa đựng mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ
sản xuất lỗi thời đang kìm hãm nó. Mà mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất
mới và quan hệ sản xuất lỗi thời, biểu hiện về mặt xã hội chính là mâu thuẫn
giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp đại diện cho quan
hệ sản xuất lỗi thời. Mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng một cuộc đấu
tranh giai cấp mà đỉnh cao là một cuộc cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ quan hệ
sản xuất lỗi thời, xác lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ, từ đó làm cho xã hội phát
triển đi lên. Do vậy mà nói, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội
có giai cấp đối kháng.
Hai là, Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối
kháng không chỉ thể hiện trong thời kỳ cách mạng xã hội mà còn thể hiện trong
cả thời kỳ hòa bình. Trong thời kỳ hòa bình, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chẳng hạn đấu tranh của
giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản tăng lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày
lao động đã buộc các chủ tư sản phải chú ý sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để
nâng cao năng suất lao động, qua đó để rút ngắn thời gian lao động cần thiết cho
công nhân, khi phong trào đấu tranh của công nhân đang đòi hỏi phải giảm bớt
thời gian lao động. Các Mác có nhận xét rằng: ở nước Anh kể từ năm 1825 sự
phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh giữa công nhân
và chủ các xí nghiệp. Hoặc những cải cách tiến bộ ở một số nước nào đó cũng là
kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và áp lực của đấu tranh giai
cấp ở các nước khác trên thế giới tạo ra. Như thế chứng tỏ trong thời kỳ hòa
bình, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mà sự phát triển của lực lượng sản xuất lại là nguyên nhân sâu xa của sự
phát triển xã hội.
Ba là, Đấu tranh giai cấp không chỉ có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các
lực lượng xã hội phản động mà còn có tác dụng cải tạo cả bản thân các giai cấp
cách mạng. Vì qua đấu tranh giai cấp, các giai cấp cách mạng được tôi luyện và
trưởng thành lên về nhiều mặt như tư tưởng, lý luận, tổ chức,.. để đương đầu và
chiến thắng giai cấp đối kháng.
12
Tóm lại: Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã
hội có giai cấp đối kháng. Đấu tranh giai cấp là quy luật chung, phổ biến của
mọi xã hội có phân chia giai cấp. Song quy luật này lại có những biểu hiện đặc
thù trong từng xã hội cụ thể do kết cấu giai cấp trong xã hội, do địa vị lịch sử
của giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất, do tương quan lực
lượng giai cấp trong từng giai đoạn và trên từng địa bàn quyết định. Do vậy,
muốn hiểu đúng quy luật đấu tranh giai cấp còn phải phân tích cụ thể những
điều kiện lịch sử cụ thể
II. CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN NÓI CHUNG VÀ CUỘC
ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP VÔ SẢN Ở NƯỚC TA NÓI RIÊNG
Từ những lý luận đã trình bày ở trên, giúp ta có thể hiểu rõ hơn về đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản từ lúc chưa giành được chính quyền cho đến
sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp vô sản, đặc biệt là khi chuyên
chính vô sản được thiết lập.
1. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền
Đấu tranh giai cấp trong lịch sử tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản chống lại giai cấp tư sản - cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử.
Tổng kết thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa giành được
chính quyền, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát và chỉ ra ba hình thức đấu tranh cơ
bản, đó là đấu tranh kinh tế; đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng.
Đấu tranh kinh tế là một trong những hình thức cơ bản đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản. Đấu tranh kinh tế có nhiệm vụ trước mắt là bảo vệ những lợi
ích hàng ngày của công nhân như tăng lương, rút ngắn thời gian lao động, cải
thiện điều kiện sống v.v.. Đấu tranh kinh tế bao gồm nhiều hình thức đa dạng và
có vai trò rất quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp vô sản. Nếu
không có đấu tranh kinh tế thì không thể giành và bảo vệ được những quyền lợi
hàng ngày của công nhân; không hạn chế được sự bóc lột của giai cấp tư sản và sẽ
làm cho giai cấp vô sản nhanh chóng trở thành đám đông nghèo nàn, kiệt quệ.
Ngoài ra, đấu tranh kinh tế còn có tác dụng tập hợp lực lượng, giác ngộ quần
chúng trong cuộc đấu tranh giai cấp nói chung. Tuy nhiên, đấu tranh kinh tế chỉ
hạn chế chứ không thể xoá bỏ được sự bóc lột của giai cấp tư sản, không thể đạt
được mục đích cuối cùng là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản.
Mục tiêu của đấu tranh chính trị là đánh đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, phản
động, giành chính quyền về tay giai cấp vô sản. Đấu tranh chính trị có nhiều hình
thức cụ thể và trình độ khác nhau. Thực tiễn cách mạng cho thấy, khi chưa có
điều kiện tiến lên đánh đổ chính quyền của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản sử
dụng nhiều hình thức đấu tranh như: tham gia nghị viện tư sản và dùng nghị viện
làm phương tiện để tố cáo chính sách của nhà nước tư sản; tổ chức các cuộc mít
tinh, biểu tình, bãi công chính trị v.v.. Những hình thức đấu tranh này có ý nghĩa
hết sức to lớn, nhằm nâng cao giác ngộ và bảo vệ lợi ích giai cấp, phát triển lực
13
lượng cách mạng v.v.. Tuy nhiên, muốn giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của xã
hội, theo quy luật chung, giai cấp vô sản phải sử dụng bạo lực cách mạng để đập
tan nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập quyền lực chính trị của mình đối với
toàn bộ xã hội. Trên cơ sở đó mà tổ chức cải tạo xã hội cũ và xây dựng thành
công xã hội mới. Đây là hình thức đấu tranh cao nhất, quyết định nhất và có tính
chất gay go, quyết liệt. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh, giai cấp vô sản
tất yếu phải tổ chức ra chính đảng của mình. Đảng là đội tiền phong của giai cấp
có nhiệm vụ vạch ra đường lối chiến lược, sách lược, tổ chức lực lượng, nắm bắt
tình thế, thời cơ, xác định các hình thức đấu tranh phù hợp để giành thắng lợi.
Đấu tranh tư tưởng có mục đích đập tan hệ tư tưởng của giai cấp tư sản,
khắc phục những ảnh hưởng của tư tưởng, tâm lý, tập quán lạc hậu trong phong
trào cách mạng; vũ trang cho họ hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp
công nhân, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, đấu tranh tư tưởng còn nhằm
giáo dục quần chúng nhân dân lao động thấm nhuần đường lối chiến lược, sách
lược cách mạng của đảng, biến đường lối cách mạng của đảng thành hành động
cách mạng. Đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng lệch lạc, hữu khuynh, tả
khuynh trong phong trào cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối,
chủ trương, chính sách của đảng. Đấu tranh tư tưởng được diễn ra dưới nhiều
hình thức đa dạng, phong phú, cả công khai, cả bí mật, như tuyên truyền cổ động;
đấu tranh trên lĩnh vực báo chí; đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, v.v..
Ba hình thức đấu tranh cơ bản của giai cấp vô sản có quan hệ chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ lẫn nhau, nhưng có vai trò không ngang bằng nhau. Trong đó, đấu tranh
chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của giai
cấp vô sản. Việc sử dụng các hình thức đấu tranh nào, ở những giai đoạn cụ thể nào
của cuộc đấu tranh là do điều kiện lịch sử cụ thể, do tương quan lực lượng giữa các
giai cấp quy định. Vì vậy, để đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng của cuộc đấu tranh,
giai cấp vô sản phải xác định và sử dụng đúng các hình thức đấu tranh cho phù hợp
với mỗi giai đoạn cụ thể của cuộc cách mạng.
2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội
Do đặc điểm kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chi
phối mà đấu tranh giai cấp là tất yếu. Sau khi giành được chính quyền, mục tiêu
cuối cùng của giai cấp vô sản là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vẫn chưa
hoàn thành. Thời kỳ này, giai cấp tư sản tuy bị đánh đổ về mặt chính quyền, song
chúng vẫn còn lực lượng, tiềm lực về kinh tế, chính trị và tư tưởng. Được sự giúp
đỡ của chủ nghĩa tư bản và các thế lực thù địch quốc tế, chúng luôn tìm cách
chống phá sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản để khôi phục lại thiên đường
đã mất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế để nảy sinh giai
cấp bóc lột vẫn tồn tại. Nền sản xuất nhỏ và kinh tế nhiều thành phần còn chứa
đựng cơ sở khách quan để tồn tại và nảy sinh ra các giai cấp bóc lột. Mặt khác,
những tư tưởng, tâm lý và tập quán của giai cấp bóc lột, của xã hội cũ chưa bị
14
quét sạch. Những tàn dư đó không tự động mất đi, chúng chỉ có thể bị thủ tiêu
thông qua cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản sau khi giành được chính
quyền được diễn ra trong điều kiện mới với những thuận lợi rất cơ bản, song cũng
có không ít các khó khăn, thách thức đặt ra. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, cơ cấu và địa vị các giai cấp có sự biến đổi căn bản, tạo ra so sánh lực
lượng có lợi cho giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản từ địa vị giai cấp bị thống trị, bị
bóc lột, trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội; trong tiến trình của cách mạng nó có sự
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp nông dân được giải
phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, trở thành lực lượng lao động cơ bản xây dựng xã
hội mới. Tầng lớp trí thức mới được hình thành và có sự phát triển nhanh chóng,
ngày càng có những đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức được củng cố vững chắc trở thành
nền tảng của chế độ xã hội mới.
Các lực lượng phản cách mạng ngày càng bị thu hẹp và phân hoá, tiến tới
bị xoá bỏ hoàn toàn. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi rất cơ bản trên, đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ còn diễn ra trong điều
kiện có không ít các khó khăn. Các khó khăn nổi lên trong thời kỳ này là, kinh
nghiệm quản lý xã hội về mọi mặt của giai cấp vô sản còn nhiều hạn chế; giai
cấp tư sản và các thế lực thù địch bằng nhiều âm mưu và thủ đoạn chống phá sự
nghiệp cách mạng; các tàn dư về tư tưởng, tập quán, tâm lý của xã hội cũ và của
giai cấp thống trị, bóc lột còn nhiều v.v.. Vì vậy, tính chất của cuộc đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ này là hết sức gay go, quyết liệt và phức tạp.
Khác với cuộc đấu tranh giai cấp trước khi giành được chính quyền, cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
có nội dung mới. Mục tiêu của nó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá.v.v.. Về thực chất, đây là
cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản đồng thời phải
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, là bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng đã
giành được và cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới trên tất cả các
lĩnh vực. Hai nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ với nhau, làm tiền đề cho nhau.
Trong đó, thực hiện nhiệm vụ thứ nhất là trọng yếu và không thể thiếu được,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này tạo ra điều kiện thuận lợi để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ này có vai trò
đặc biệt quan trọng trong thời kỳ đầu khi mới giành được chính quyền, hoặc
trong tình huống đất nước bị đe doạ và có khả năng xảy ra chiến tranh.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu
nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi hoàn toàn của giai cấp vô sản đối
với giai cấp tư sản. Bởi vì, phân tích đến cùng thì năng xuất lao động là cái quan
15
trọng nhất, căn bản nhất cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới. Mặt khác, có
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới tạo ra sức mạnh hiện thực để bảo vệ
vững chắc thành quả của sự nghiệp cách mạng. Đây cũng là nhiệm vụ phức tạp,
khó khăn và lâu dài nhất trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản giai cấp diễn ra trong những điều kiện
mới, với nội dung mới tất nhiên phải có những hình thức mới. Trong cuộc đấu
tranh này, giai cấp vô sản phải sử dụng tổng hợp và kết hợp các hình thức đa
dạng, phong phú, như có đổ máu và không có đổ máu; bằng bạo lực và hoà bình;
bằng quân sự và kinh tế; bằng giáo dục và hành chính, v.v.. Sử dụng hình thức
nào, điều đó do tình hình kinh tế, chính trị xã hội của mỗi nước, mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể quy định.
Hình thức mới của đấu tranh giai cấp còn được biểu hiện ở việc thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể của sự nghiệp cách mạng. Về kinh tế, đó là xây dựng, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về chính trị, là xây
dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống chính trị và
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về tư tưởng và văn hoá, là xác lập vai trò
thống trị của hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa. Bên cạnh đó, giai cấp vô sản còn phải đấu tranh làm thất bại các âm
mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc
hệ tư tưởng vô sản và đấu tranh kiên quyết với các quan điểm tư tưởng sai lầm,
phản động của giai cấp tư sản và chủ nghĩa cơ hội.
3. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta hiện nay
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta có đặc trưng là gắn liền và
được tiến hành ngay sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất
yếu. Thật vậy, đất nước chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà
thời kỳ quá độ là thời kỳ tồn tại đan xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ ở đây
chính là giai cấp tư sản, mặc dù không còn giữ địa vị thống trị nhưng cơ sở kinh
tế – xã hội của nó vẫn còn; cái mới chính là giai cấp công nhân dù đã giành
được chính quyền nhưng khả năng, cơ sở kinh tế vẫn chưa vững chắc để đảm
bảo cho chính quyền đang có, nền chuyên chính vô sản đang được thiết lập. Cho
nên, vẫn còn phải đấu tranh, đấu tranh để xóa bỏ tận gốc tàn dư của cái cũ đang
kìm hãm sự phát triển của cái mới. Hơn nữa, cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đang phát triển thành hệ thống quốc tế, chúng liên
minh tối đa để bóc lột giai cấp vô sản và do đó, giai cấp vô sản đấu tranh từng
giờ từng phút từng giây. Mục tiêu của họ không chỉ là giành lại lợi ích riêng tư,
giải phóng cho mình mà giành chính quyền để nhân dân lao động làm chủ, xóa
bỏ tận gốc, triệt để người bóc lột người.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng,
hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của nước ta còn tồn tại một cách khách quan
các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp hiện nay phải nhận
16
thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung và hình thức
mới.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay mà nhất là xu hướng toàn
cầu hóa ngày càng cao đã đặt nước ta trước nhiều nguy cơ và thử thách. Dĩ
nhiên cũng tạo cho ta nhiều cơ hội hòa nhập dễ dàng hơn vào thị trường thế giới.
Và Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1999) của Đảng xác định 4
nguy cơ đến nay vẫn tồn tại và có nhiều diễn biến hơn, đó là: tụt hậu về kinh tế,
diễn biến hòa bình, nguy cơ chệch hướng XHCN và nguy cơ nạn tham nhũng.
Để giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN đưa đất nước thoát ra khỏi
những nguy cơ trên thì các giai cấp, tầng lớp xã hội phải hợp tác, đoàn kết trong
mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng như đã từng hợp tác,
đoàn kết trong thời kỳ giành độc lập dân tộc.
Đấu tranh giai cấp diễn ra trong những điều kiện mới như sau:
Một là, Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH chứ chưa thật sự
trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Chủ nghĩa tư bản đang phát triển rất mạnh trên thế giới.
Ba là, Xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày càng gia tăng.
Mối quan hệ của các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh
đạo của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
III. THỰC TIỄN CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CNXH Ở NƯỚC TA TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA
1. Đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay
1.1. Bối cảnh quốc tế: Hiện nay tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp : thống nhất nước Đức, sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô, chiến tranh
vùng vịnh, sự kiện Kosovo,sự nổi lên của nhà nước hồi giáo IS…, trong đó sự
kiện sụp đổ của Liên Xô là biến động lớn nhất, chi phối tình hình thế giới và
chấm dứt cục diện của thế giới từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II, tức là hai
phe, hai siêu cường, hai cực và thế giới đang phát triển theo hướng hình thành
cục diện mới : cục diện đa cực; xu hướng đa cực diễn ra từ từ chứ không như ở
chiến tranh thế giới lần thứ II. Trên đà sụp đổ của các nước XHCN Đông Âu và
Liên Xô, chủ nghĩa đế quốc đang hy vọng xoá bỏ hoàn toàn CNXH hiện thực
trên hành tinh và cả học thuyết Mác-Lênin, trong đó có lí luận về giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
Về kinh tế : xu hướng quốc tế hoá ngày càng phát triển với sự ra đời hàng
loạt những liên minh như : liên minh Châu Âu (EU), hiệp định mậu dịch tự do
17
Bắc Mỹ (NAFTA), hiệp hội các nước Đông nam Á (Asean), tổ chức hợp tác
kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC)… đòi hỏi các quốc gia phải có sự hoà
nhập nhất định mới có thể tồn tại được.
Có thể nói, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra ở
tất cả các chế độ xã hội, biểu hiện ra nhiều mức độ khác nhau. Với chế độ tư bản
chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp vẫn tiềm ẩn với sự bất công, phân cực giàu nghèo
ngày càng sâu sắc; thất nghiệp ngày càng đông; tính mạng, an ninh và trật tự xã
hội luôn bị đe dọa; sự phá hủy và suy đồi đạo đức xã hội ngày càng gia tăng vì
cơn lốc của lợi nhuận. Nếu đi sâu thêm, ta thấy rằng, nguồn gốc của sự xung đột
giai cấp trong xã hội tư bản là do lô-gích phát triển trong điều kiện bất bình
đẳng, đa số phải phục tùng lợi ích và quyền lực của thiểu số; đồng thời, đó là sự
vận hành trên cơ sở quan hệ bóc lột và bị bóc lột giữa giai cấp tư sản và người
lao động. Ở các nước phương Tây hiện nay, đi đôi với việc phát triển khoa họccông nghệ và tăng năng suất lao động, mức độ bóc lột của giai cấp tư sản (thể
hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư) vẫn tăng đáng kể. Chẳng hạn ở Mỹ, tỷ suất giá trị
thặng dư trong các ngành sản xuất công nghiệp mấy thập kỷ qua đã tăng như
sau: năm 1950: 241%; năm 1960: 247,6%; năm 1970: 255%; năm 1980: 289%;
những năm 1990: khoảng 300%; những năm đầu thế kỷ XXI: khoảng 307%....
Không chỉ ở các nước đang phát triển, mà ngay trong lòng các nước TBCN giàu
có nhất, luôn đồng thời tồn tại một thế giới của những người nghèo khó (số
người sống dưới mức nghèo khổ hiện nay ở Mỹ khoảng 30 triệu, ở Tây Âu
khoảng 40 triệu). Mặc dù giai cấp tư sản đã có sự mềm dẻo nhất định trong việc
làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, nhưng đấy vẫn chỉ là ở từng nơi,
từng lúc, còn về cơ bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động vẫn ngày càng gay
gắt; thuế khóa, thất nghiệp, các tệ nạn xã hội luôn đeo đẳng người nghèo. Điều
đó, sẽ đẩy những mâu thuẫn xã hội lên đỉnh điểm, dẫn đến bùng nổ xã hội. Cuộc
sống ngày càng chứng minh dự báo của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đắn: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của lực lượng
sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất sẽ được giải
quyết theo hướng công cộng hóa hình thức sở hữu cho phù hợp với tính chất xã
hội hoá của lực lượng sản xuất, và điều đó không phải cái gì khác mà chính là
CNXH. Từ tự do cạnh tranh, CNTB phát triển tới độc quyền, độc quyền nhà
nước; trong phạm vi, rồi ra ngoài phạm vi quốc gia và trở thành CNTB toàn cầu.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa ngày càng tăng, những biện pháp điều chỉnh
các quan hệ kinh tế và sở hữu theo hướng công cộng hóa cũng ngày càng tăng;
bảo đảm cho các cổ đông, các tổ chức công đoàn và người lao động ngày càng
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý kinh tế-xã hội. Những biến đổi trên, vô
hình dung đã trở thành những tiền đề của chế độ xã hội mới trong lòng CNTB.
Mặc dù các nhà kinh doanh tư sản hiện đại đã biết linh hoạt và đôi khi
ứng phó có hiệu quả trước diễn biến của tình hình kinh tế-xã hội, nhưng các lực
lượng dân chủ, đội ngũ đông đảo những người làm công ăn lương ở các nước
TBCN hiện nay cũng đã khác trước. Họ hiểu biết và có nhiều hình thức đấu
18
tranh linh hoạt hơn, nhưng không kém phần mạnh mẽ, hiệu quả, tạo ra trong
lòng xã hội tư bản những cơ cấu mới và những quan hệ mới, không mang tính
chất tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động chống bóc lột và
bất công ở các nước TBCN hiện nay diễn ra không chỉ trong khuôn khổ cấu trúc
thượng tầng mà cả ở cơ sở hạ tầng, làm thay đổi nền móng xã hội, làm biến dạng
chế độ tư sản. Để có thể thích nghi với thời đại, CNTB đã cố gắng tự điều chỉnh
trên mọi lĩnh vực, nhưng cũng chính vì thế đã tự làm nảy sinh những vấn đề
mới, ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Nó sẽ bị hút dần một cách không tự giác
vào một trật tự xã hội; mà ở đó, những mầm mống và yếu tố mới phát sinh trong
lòng xã hội tư bản sẽ là những điều kiện dẫn tới sự thay thế chế độ tư hữu bằng
chế độ công hữu trên cơ sở cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra theo một cách thức
mới.
Với các nước trong thế giới thứ ba, cuộc đấu tranh giai cấp cũng diễn ra
không kém phần quyết liệt. Có lẽ trên thế giới, nhiều người vẫn chưa quên nỗi
đau về cái chết của Tổng thống A-gien-đê với chế độ xã hội mà ông định xây
dựng ở Chi-lê; về sự thất bại ở Ni-ca-ra-goa, En Xan-va-đo, những đảo lộn ở
Mô-dăm-bich, Dim-ba-bu-ê, Ăng-gô-la, Xéc-bi, Áp-ga-ni-xtan,... Người ta cũng
không quên những gì đã và đang diễn ra xung quanh việc bao vây, cấm vận đối
với nước Cu-ba dũng cảm và kiên cường, cùng các điểm nóng khác ở một số
nước thuộc Liên Xô (cũ)... Tất cả những sự việc trên cho thấy: cuộc đấu tranh
giai cấp ở mọi nơi chưa hề ngưng nghỉ, kể cả sau chiến tranh lạnh. Cũng vì lẽ
đó, mà lịch sử đã diễn ra với nhiều sự kiện chưa từng thấy ở các nước thế giới
thứ ba; phong trào cánh tả Mỹ La tinh - nơi các dân tộc ngày càng thức tỉnh,
không cam phận phụ thuộc vào Mỹ. Một sự thật mà ai cũng biết là, ở Mỹ, hết
đời tổng thống này đến đời tổng thống khác, chính sách đối ngoại đều có một
điểm chung: đối phó với cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước thế giới thứ ba. Và
cũng vì thế, trên thế giới đã xuất hiện những nhân vật nổi tiếng, đại diện cho
lương tri của các dân tộc: A-rơ-ben, Hồ Chí Minh, Lu-mum-ba, Phi-đen Ca-xtơrô, A-gien-đê... Trên quy mô toàn cầu, các lực lượng chống cộng và chống cách
mạng vẫn tiếp tục các đòn tiến công, không chỉ bằng các vũ khí hủy diệt con
người, mà bằng mọi vũ khí có thể sử dụng, như: kinh tế, tư tưởng, văn hóa,
truyền thông... Điều đó càng chứng tỏ, CNTB lo sợ sức mạnh ngày càng tăng
của các dân tộc kiên quyết đấu tranh xoá bỏ xiềng xích nô lệ, thực hiện bằng
được chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Sức mạnh của CNTB ở cuối
thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đang bị lung lay, không còn như trong thế kỷ
XX.
2.2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: đấu tranh
giai cấp là tất yếu, tính tất yếu của nó do các đặc điểm kinh tế - xã hội của thời kỳ
quá độ quy định.
19
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mục tiêu cuối cùng
của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội chưa hoàn thành. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá độ gián tiếp
từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất còn thấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong
thời kỳ này còn cơ sở kinh tế để nảy sinh giai cấp bóc lột và mâu thuẫn giai cấp
vẫn tồn tại. Với đặc điểm nền kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến và bản thân trong
quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường đòi hỏi tất yếu phải đấu tranh chống lại khuynh hướng tự phát đi lên
chủ nghĩa tư bản, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực phát
triển của đất nước.
Hiện nay, các thế lực phản động trong nước đang bằng nhiều âm mưu và
thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của đất nước. Chúng đang ra sức tập
hợp lực lượng, lôi kéo các phần tử bất mãn với chế độ, lợi dụng chiêu bài dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng. Để thực
hiện các mưu đồ phản động đó, chúng đang tìm mọi cách câu kết với chủ nghĩa
đế quốc, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những tàn dư
về tư tưởng, tâm lý và tập quán lạc hậu của giai cấp phong kiến, tư sản, của chủ
nghĩa thực dân cũ, chủ nghĩa thực dân mới còn tồn tại. Mặt khác, còn có các tư
tưởng, tâm lý lạc hậu nảy sinh chính trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đó
là những tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường sinh ra. Tất cả những yếu tố và
tàn dư lạc hậu đó không tự động mất đi, mà chỉ có thể thông qua cuộc đấu tranh giai
cấp mới loại bỏ được. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay đang diễn ra gay
go, phức tạp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay được diễn ra trong điều kiện mới với
những thuận lợi rất cơ bản song cũng có không ít các khó khăn. Cùng với những
biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp, địa vị của các giai cấp
trong xã hội ta có biến đổi căn bản, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho sự nghiệp
cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng và có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Khối liên
minh giai cấp mới công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam được củng cố vững chắc và trở thành nền tảng của chế độ xã
hội mới ở nước ta. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, song vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn được giữ vững và tăng cường. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục được củng cố, hoàn thiện và trở thành
công cụ chính trị mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động. Sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua đã “đạt được
20
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử’’ 5, tạo ra thế và lực mới’’6 cho đất
nước tiếp tục phát triển. Những thành quả của sự nghiệp cách mạng và các tiền đề
kinh tế - vật chất đã tạo dựng được là cơ sở để thực hiện thắng lợi mục tiêu của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại; xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới; hội nhập và hợp tác quốc tế, khu vực
phát triển đang tạo ra cho cách mạng nước ta cả thời cơ, vận hội và cả các thách
thức trên con đường phát triển của mình.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cơ bản trên, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt nam còn gặp không ít khó khăn, thời cơ và
thách thứ đan xen nhau. Tình hình hiện nay cho thấy, ‘‘Các thế lực thù địch vẫn
tiếp tục thực hiện âm mưu ‘‘diễn biến hoà bình’’, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các
chiêu bài ‘‘dân chủ’’, ‘‘nhân quyền’’ hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước
ta’’3. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới và sự điều chỉnh để thích nghi
của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có tác động không nhỏ đến cuộc đấu tranh giai
cấp ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là một nhiệm vụ trọng đại, nhưng cũng rất khó khăn, phức tạp và lâu dài.
2. Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội hiện nay
Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay là thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Về thực chất,
đây là cuộc đấu tranh ‘‘giữa hai con đường’’ xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa; giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với
các nhân tố tác động nhằm chuyển dịch đất nước theo định hướng tư bản chủ
nghĩa.
Thứ nhất, Nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên CNXH là cuộc đấu tranh giữa hai con đường TBCN và XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực phản động trong nước và quốc tế
chống độc lập dân tộc và CNXH chủ yếu thông qua “diễn biến hòa bình” nhằm
thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm tan rã hệ tư tưởng, tiến tới lật đổ
chính quyền nhân dân bằng hình thức này hay hình thức khác. Cuộc “đấu tranh
giữa hai con đường”, con đường CNXH và con đường TBCN là biểu hiện của
cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đây là cuộc đấu tranh
giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hướng XHCN với những
nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyển theo định hướng TBCN. Các nhân tố tự
phát TBCN này được những thế lực chống độc lập dân tộc và CNXH lợi dụng
phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.17.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.17.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.75.
5
21
trên diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực
kinh doanh, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự xã hội.
Trong cơ cấu giai cấp – xã hội ở nước ta hiện nay, ngoài công nhân, nông
dân, trí thức và tầng lớp nhân dân lao động khác còn có tầng lớp tư sản, tầng
lớp này có điều kiện phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đương nhiên có
mẫu thuẫn về lợi ích giữa những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản và
có mâu thuẫn giữa sự phát triển con đường XHCN với khuynh hướng tự phát
của thành phần kinh tế tư nhân. Đây là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa giai
cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản, tuy mang tính chất mâu
thuẫn giữa lao động và bóc lột lao động, song trong thời kỳ quá độ nước ta lại là
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ta. Kinh tế tư nhân là một bộ phận không thể
thiếu trong nền kinh tế nhiều thành phần và tầng lớp tư sản có vai trò tích cực
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong xã hội ta hiện nay, lợi ích hợp
pháp của các nhà tư sản căn bản thống nhất chung với lợi ích của cộng đồng.
Đây là mặt thống nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tầng lớp tư
sản để cùng thực hiện hợp tác, đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Như vậy, nhìn ở góc độ khái quát, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ mới là
đấu tranh giữa hai khuynh hướng vận động trái ngược nhau, đó là khuynh hướng
vận động khách quan mang tính tự phát của các nhân tố tiền TBCN, TBCN và
khuynh hướng khách quan mang tính tự giác của các nhân tố XHCN.
Thứ hai, Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng XHCN.
Những diễn biến hết sức phức tạp trên thế giới và trong nước thời gian
qua cho thấy độc lập dân tộc chưa thực sự bền vững khi đất nước còn nghèo,
chưa phát triển, định hướng XHCN không thể giữ vững khi đất nước chưa vượt
khỏi tình trạng chậm phát triển. Vì vậy, chúng ta phải bằng mọi cách phát huy
toàn bộ sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp xã hội hướng vào nhiệm vụ trung
tâm của giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt khi mà sự chống đối từ bên trong của một số
phần tử vẫn chưa chấm dứt và sự tiếp tay cho sự chống đối đó từ bên ngoài vẫn
còn là một thực tế. Với cách hiểu vấn đề như vậy, giúp chúng ta nhận thức đúng
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là nhanh chóng phát triển lực lượng sản
xuất, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rõ ràng, sự
kém phát triển hay phát triển chậm là nguyên nhân đất nước bị phụ thuộc, mất
độc lập, mất tự chủ và đứng bên ngoài quá trình toàn cầu hóa. Thua kém về kinh
tế sẽ làm suy yếu về vị thế chính trị quốc tế và trong điều kiện như vậy sẽ khó
giữ được ổn định chính trị trong nước.
22
Do điểm xuất phát thấp lại bỏ qua chế độ TBCN nên các nhân tố tiền
TBCN không hoàn toàn là những nhân tố tàn dư do xã hội cũ để lại. Vì thế cuộc
đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai khuynh hướng không có nghĩa là loại bỏ tất cả
các nhân tố của khuynh hướng TBCN khi bản thân nó chưa hết vai trò lịch sử
nên nhà nước vô sản cần tạo điều kiện để các nhân tố ấy vận động trong khuôn
khổ của pháp luật.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên nhân dân ta phải thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược trên của cách mạng Việt
Nam có quan hệ thống nhất với nhau. Bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới tạo ra được
môi trường và điều kiện thuận lợi để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mặt
khác, có tạo lập đầy đủ cơ sở kinh tế - vật chất, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội mới có điều kiện để nâng cao sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong
điều kiện hiện nay, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chính
quyền nhân dân là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; phát triển kinh tế, tạo lập cơ sở
vật chất - kỹ thuật để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trung tâm,
xuyên suốt của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta chỉ rõ, nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta
hiện nay, là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển; thực
hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục
những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc,
xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa7.
Như vậy, đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay đang diễn ra hàng ngày,
hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với các nội dung cụ thể khác
nhau, nhằm giải quyết nhiều mâu thuẫn của quá trình vận động đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
được diễn ra với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và đòi hỏi phải sử dụng
tổng hợp và kết hợp các hình thức, biện pháp linh hoạt: bằng hành chính và giáo
dục; giữa cải tạo và xây dựng; sử dụng các hình thức kinh tế trung gian, quá độ;
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở cửa và hội nhập để
tranh thủ các vận hội, thời cơ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; kết hợp giữa phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh v.v..
* Đấu tranh trong lĩnh vực kinh tế:
Đảng ta đã khẳng định các thành phần kinh tế bình đẳng cùng phát triển
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương này không
nhằm mục đích nào khác mà hướng tới phát huy mọi tiềm năng của dân tộc và
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.75
7
23
đáp ứng lợi ích của giai cấp, tầng lớp trong xã hội, giải phóng sức sản xuất, tạo
động lực cho xã hội phát triển. Mọi giai cấp, tầng lớp xã hội đều tìm thấy lợi ích
hợp pháp của giai cấp mình trong mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân chủ, văn minh. Mặt khác, hướng tới hợp tác đoàn kết giai
cấp, tầng lớp trên phương diện xã hội, Đảng khẳng định: “Tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định
kiến phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp thành phần, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai”. Nhờ vậy mà trong những năm đổi
mới, nước ta đã nhận được nhiều sự đóng góp của các doanh nghiệp trong nước,
những người công nhân ở nước ngoài, những người tiểu chủ, tiểu thương,… cả
về vốn , kinh nghiệm, tri thức và cả bầu nhiệt huyết. Cho nên, đấu tranh ở đây là
ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực của các tầng lớp tư sản nhằm thực hiện chủ
trương hợp tác, đoàn kết vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên bản thân của nền kinh tế nhiều thành phần tự nó tiềm tàng khả
năng phát triển theo hướng TBCN, mà điều đó càng thuận lợi hơn trong bối
cảnh toàn cầu hóa TBCN. Chính vì vậy mà Văn kiện Đại hội Đảng lần IX khẳng
định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN”. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước thì kinh tế tư bản tư nhân có khả năng tạo thành cơ sở xã hội, tạo khả năng
khách quan cho sự phát triển của CNTB. Do vậy, đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế
nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều
thành phần của nước ta hiện nay.
Tóm lại, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp tri thức, nước ta
còn tồn tại những nhà doanh nghiệp, người sản xuất hàng hóa nhỏ, tiểu chủ, tiểu
thương. Trong giai đoạn hiện nay, để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, các giai tầng đều có vai trò nhất định, song để giữ vững định hướng
XHCN, giai cấp công nhân và liên minh của nó phải trở thành lực lượng đại diện
cho dân tộc.
* Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa:
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền độc lập về chính trị của các quốc gia,
dân tộc đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và hội nhập kinh tế toàn cầu trở
thành quá trình không thể đảo ngược, đấu tranh vì lợi ích dân tộc được triển khai
mạnh mẽ trên cả lĩnh vực văn hóa. Đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa để chống lại
sự đồng hóa, bài trừ tệ nô dịch, củng cố những giá trị truyền thống và tôn trọng
những bản sắc đặc trưng của dân tộc, đẩy mạnh phát triển tín ngưỡng, ngôn ngữ
văn học nghệ thuật dân tộc. Sự bành trướng nô dịch của CNĐQ trên lĩnh vực
văn hóa đối với thế giới thứ 3 được thực hiện bằng các phương tiện thông tin đại
chúng, mạng lưới xuất bản phim ảnh, lối sống,… Nó còn được sự hỗ trợ lợi hại
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa khổng lồ và của hệ thống quyền lực chính trị
“sen đầm quốc tế” hùng hậu. Một khi vẫn vẫn tồn tại các thế lực muốn giành
kéo quyền phán xét về các vấn đề dân tộc, nhân quyền tự do và phát triển trên
24
toàn thế giới thì cuộc đấu tranh vì độc lập và chủ quyền đấu tranh vẫn là nhiệm
vụ quan trọng và cấp thiết.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay biểu hiện nội dung rộng lớn, hình
thức phong phú, tính chất phức tạp, diễn ra hàng ngày, hằng giờ không chỉ trên
lĩnh vực kinh tế, văn hóa mà nó còn diễn ra khá phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng
và cả an ninh quốc gia, trật tự xã hội.
Trước hết, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng để khắc phục những tư tưởng,
hành động tiêu cực, sai trái: “ đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng gắn liền
với cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng. Đặc biệt là khi tệ quan liêu,
tham những đã trở thành nguy cơ đe dọa, cản trở sự phát triển của đất nước thì
đấu tranh giai cấp hiện nay cũng chính là cuộc đấu tranh chống tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức , lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ Đảng viên. Đó là cuộc đấu tranh không dễ dàng và không
kém phần quyết liệt. Chúng ta cũng không được quên rằng, hiện nay có một số
thế lực bên ngoài chẳng ưa thích gì sự tồn tại của nước ta, của chế độ ta. Các thế
lực đó cũng chẳng ngần ngại gì trong việc dùng mọi cách đánh phá ta từ bên
trong thông qua những kẻ chống đối, những phần tử thoái hóa, biến chất và
những tệ nạn khác nhau. Theo đó, cuộc đấu tranh để làm trong sạch nội bộ sẽ
góp phần vào việc bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và thành quả cách
mạng; là một bộ phận không tách rời của cuộc đấu tranh giai cấp. Điều đáng sợ
nhất lúc này là sự thoái hóa từ bên trong cũng là căn bệnh truyền nhiễm đáng sợ
làm suy yếu đất nước, suy yếu chế độ. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì
tham nhũng phát triển và diễn ra với tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn với
phạm vi ngày càng mở rộng, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn. Tham nhũng
không chỉ biểu hiện sự suy thoái, thoái hóa về đạo đức, nhân cách con người mà
tham nhũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của đất nước vì lượng
tiền mà tham nhũng đụng chạm tới ngày càng lớn, có vụ lên tới hàng nghìn tỷ
đồng. Trước đây hoạt động tham nhũng tập trung tương đối nhiều vào việc dùng
quyền lực để được tiền tài. Ngày nay, việc dùng tiền tài để thao túng quyền lực,
thậm chí để đạt được quyền lực, thậm chí để đạt được quyền lực người ta dùng
tiền để “mua quan” cũng không còn là chuyện hiếm. Chính vì vậy mà đấu tranh
chống tham ô, tham nhũng là cần thiết và bức bách ở nước ta trong thời kỳ quá
độ, đặc biệt là trong xu thế hội nhập hiện nay.
Tác hại vô cùng nghiêm trọng của nạn tham nhũng, buôn lậu là làm suy
yếu bộ máy Đảng và Nhà nước, làm xói mòn sức mạnh vật chất và tinh thần của
quốc gia, làm suy yếu lòng tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước và chế độ.
Hơn thế nữa, với chính sách mở cửa, giao lưu hợp tác giữa Việt Nam với
các nước trên thế giới và khu vực đã tạo điều kiện để buôn bán ma túy, buôn bán
phụ nữ, trẻ em, rửa tiền,… thâm nhập vào nước ta.
25