Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.5 KB, 21 trang )

BÀI TẬP LỚN
Mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề bài: “Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự
vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển
cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.”


Đề bài:
Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng
quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành
phần kinh tế ở nước ta hiện nay.

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................3
NỘI DUNG......................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU THÀNH PHẦN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI...........................................4
1.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần...................4
1.2. Quan điểm của Lênin về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội........................................................................................................................... 4
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.................................................................................5
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ HIỆN NAY
........................................................................................................................................ 9
2.1. Thực tiễn vận dụng...............................................................................................9


2.2. Thành tựu vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh của Đảng cộng sản Việt Nam......11
2.3. Hạn chế...............................................................................................................15
2.4. Giải pháp............................................................................................................16
KẾT LUẬN.......................................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................19

2


MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị bàn về kinh tế, tư tưởng kinh tế của
Người cơ bản là tư tưởng kinh tế - chính trị. Trên cương vị lãnh đạo quốc gia, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế ở một nước
nông nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế là một bộ phận
đặc sắc trong tư tưởng kinh tế của Người và vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với đất
nước ta trong công cuộc đổi mới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa hiện nay. Cơ cấu các thành phần của một nền kinh tế phụ thuộc vào sự tồn
tại của các hình thức sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất, vào trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, của sản xuất hàng hoá thời kỳ quá độ. Như Lênin đã chỉ rõ: Nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ, xét về tồn bộ, nó là nền kinh tế q độ, cịn tồn tại nhiều hình thức
sở hữu, do đó sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan.
Mỗi thành phần kinh tế cịn phát huy tác dụng tích cực, có đóng góp vào quốc kế dân sinh
thì khơng thể dùng mệnh lệnh hành chính mà xố bỏ ngay một lúc được.
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm,
đây là khoảng thời gian lâu dài đối với một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, nhưng đối
với thời kỳ quá độ - một giai đoạn chuyển tiếp từ một hình thái kinh tế xã hội cũ sang một
hình thái kinh tế xã hội mới thì chỉ là một chặng đường của thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên
CNXH và tiến lên Cộng sản chủ nghĩa. Các Mác cho rằng: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở
đây khơng phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính

nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa”;
Lênin kế thừa quan điểm của Các Mác và khẳng định, xã hội mới mới lọt lòng từ xã hội
cũ sau “những cơn đau đẻ kéo dài”; Hồ Chí Minh cho rằng, thời kỳ quá độ đây là một thời
kỳ lâu dài và gian khổ, vì một chế độ này biến thành một chế độ khác là cuộc đấu tranh
gay go và kịch liệt, giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới; đồng thời, Bác cho rằng cần
phải có những bước đi trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội “bước ngắn, bước dài,
tuỳ theo hoàn cảnh” nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ… đi bước nào vững chắc
bước ấy, cứ tiến dần dần.”. Tựu chung lại, thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc, triệt để, toàn diện trên tất các các lĩnh vực, nhằm biến một cái cũ thành cái mới
tiến bộ hơn. Để thực hiện thành công thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa xã hội phải giải
quyết những nhiệm vụ về kinh tế, chính trị… Trong đó trọng tâm là những nhiệm vụ về
kinh tế, nhiệm vụ này được Lênin phân tích rất rõ trong chính sách kinh tế mới.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU THÀNH PHẦN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần
Xét về mặt lịch sử, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công bước vào thời
kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội, đất nước tiếp thu một di sản của nền sản xuất bao gồm
nhiều thành phần kinh tế như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, các thành
phần kinh tế này vẫn còn tác dụng đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta nên
cần thiết phải tiếp tục duy trì. Mặt khác, do yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải
xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vì vậy, về mặt lịch sử, sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.
Xét về mặt lý luận, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với

tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nước ta bước vào thời
kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội với một trình độ lực lượng sản xuất cịn thấp kém, phát
triển khơng đồng đều giữa các vùng, các ngành.
Điều đó có nghĩa là tồn tại nhiều loại trình độ lực lượng sản xuất khác nhau, do đó
địi hỏi phải có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu quy
luật trên, Đảng ta chủ trương vừa duy trì các thành phần kinh tế cũ vừa xây dựng và phát
triển các thành phần kinh tế mới, các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen, vừa
hợp tác vừa cạnh tranh với nhau tạo thành một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
1.2. Quan điểm của Lênin về thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Tính quy luật chung về kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, quan điểm này được Lênin
đưa ra trong Chính sách kinh tế mới, để thay thế cho Chính sách cộng sản thời chiến đã
lạc hậu và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời, Lênin đưa ra các thành phần kinh tế
chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH là: Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất
hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
Trong q trình thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin ln đánh giá cao vị trí,
vai trị của thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước dưới hình thức tô nhượng, hợp tác xã, tư nhân đại lý, cho tư nhân thuê cơ sở sản
xuất.v.v.được xem là “chiếc cầu nhỏ vững chắc xuyên qua” chủ nghĩa tư bản để đi vào
chủ nghĩa xã hội. Phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là biện pháp “quá độ
đặc biệt” mà còn là khâu “trung gian” để chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã
4


hội. Về kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, điểm xuất phát trong quá trình xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần là phải đáp ứng lợi ích kinh tế cho đại đa số nông dân, mà
trước hết là từ nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dựa vào khôi phục và phát triển kinh tế
tiểu nông để khôi phục và phát triển đại công nghiệp.
Ngay Đại hội X Đảng cộng sản bolshevik (bơn-sê-vích) Nga, Lênin đã u cầu

chính quyền Xơ viết phải nhanh chóng phát triển nền sản xuất tiểu nơng bằng cách
khuyến khích nền kinh tế nơng dân cá thể với những biện pháp “quá độ”, những hình thức
“trung gian” có khả năng cải tạo nơng dân, đổi mới nông thôn và chuyển đổi nền kinh tế
tiểu nông của những người nông dân cá thể thành nền sản xuất tập thể có tính xã hội chủ
nghĩa, diễn ra một cách tuần tự, có tính kế thừa, thận trọng. Về kinh tế tư bản tư nhân, khi
chính sách kinh tế mới được áp dụng trong thực tiễn nước Nga, Lênin hiểu rõ có thể chủ
nghĩa tư bản sống lại, nhưng ơng cho rằng khơng sợ nó, mà kêu gọi Chính quyền Xơ viết
cần sử dụng tư nhân nơng dân, thợ thủ công, thương nhân…để phát triển kinh tế đất nước,
bởi vì tư bản tư nhân sẽ tạo ra nhiều hàng hóa tiêu dùng cho xã hội - cơ sở ổn định chính
trị.
Kinh tế chủ nghĩa xã hội, Lênin đánh giá rất cao vị trí, vai trị của thành phần kinh
tế này, đây là xương sống của nền kinh tế -những mạch máu kinh tế cơ bản như công
nghiệp, ngân hàng, tài chính tín dụng ln nằm trong tay chính quyền Xơ viết, thuộc sở
hữu nhà nước. Khi chính sách kinh tế mới được thực hiện, Lênin chủ trương các xí nghiệp
quốc doanh hoạt động theo chế độ tự hồn vốn, chế độ hạch tốn kinh tế, các xí nghiệp
này được giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm vật chất với kết quả hoạt động của
mình.
Về thứ tự các thành phần kinh tế, Lênin đã cố tình sắp xếp các thành phần kinh tế
theo thứ tự, cấp độ tăng lên về tính chất xã hội chủ nghĩa của mỗi thành phần kinh tế; tỷ
trọng của các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử; sự biến đổi tỷ trọng các
thành phần kinh tế phải theo hướng xã hội chủ nghĩa; tính đan xen, mâu thuẫn, đấu tranh
và thống nhất giữa các thành phần kinh tế, tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững, tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của đất nước và tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng chủ yếu được thể
hiện trong các bài nói, bài viết của Người. Những tư tưởng đó bao giờ cũng được Người
diễn đạt một cách ngắn gọn, súc tích dễ hiểu và dễ nhớ. Điều đó xuất phát từ mục đích
của người là nhằm tun truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng nhân dân.


5


Theo thống kê sơ bộ, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
nói chung, từng thành phần kinh tế nói riêng được thể hiện ít nhất 36 lần trong Hồ Chí
Minh tồn tập (12 tập). Cụ thể:
Tập 2 : trang 203.
Tập 4 : trang 49.
Tập 7 : trang 203, 205, 221, 222, 247-248, 361, 539.
Tập 8 : trang 147, 227,493, 494, 577.
Tập 9 : trang 163, 175, 187, 319, 561, 584, 588, 589.
Tập 10 : trang 13, 15, 42, 312, 246, 380.
Nhưng thể hiện rõ nhất là trong hai tác phẩm: “Thường thức chính trị” - 1953 (tập
7 trang 221-222) và “Báo cáo dự thảo Hiến pháp năm 1959” (tập 9 - trang 588, 589).
Hồ Chí Minh cho rằng: “Có nước thì đi lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên
Xơ, có nước phải kinh qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội” như các
nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
Có thể hiểu: “chế độ dân chủ mới” theo Hồ Chí Minh là thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tiếp đó Người lý giải: nước ta phải trải qua một giai đoạn dân chủ mới vì
“đặc điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đây là điểm xuất
phát của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính điểm xuất phát này là cơ sở
khách quan quy định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế - xã hội và sự tồn tại các thành
phần kinh tế khác nhau. Từ đó người xác định cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ ở nước ta thể hiện ở ba khía cạnh sau:
Một là, Người xác định thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do 1953) gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh tế của chế độ
xã hội phong kiến. Trong đó, giai cấp địa chủ chiếm ruộng đất và nông cụ nhưng không
cày cấy, “không nhắc chân đụng tay mà lại cửa cao nhà rộng, phú q phong lưu” cịn

nơng dân phải mướn ruộng của địa chủ phải nộp tô, phải hầu hạ "nông dân khơng khác gì
nơ lệ”. Trong chế độ mới, thành phần kinh tế đó đã lỗi thời, chỉ cịn là tàn dư. Nhưng để
thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, phục vụ chiến lược giải phóng dân tộc, nhằm
thu hút số địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng, ủng hộ kháng chiến, Hồ Chí Minh khơng
chủ trương xóa bỏ thành phần kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức, tạo điều
kiện cho thành phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến.
- Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà nước, là của
chung nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội... Đây là thành phần kinh tế ra đời trong chế
6


độ dân chủ mới, có vai trị đáp ứng u cầu to lớn và quan trọng của toàn xã hội, của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Theo Hồ Chí Minh, kinh tế quốc doanh là
"nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát
triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”.
- Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp
tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư bản nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên "về
mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ to" (5). Họ có
nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử dụng vốn, khoa học kỹ thuật cho nên, Chính phủ cần giúp
họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân”.
- Kinh tế tư bản quốc gia: Đây là thành phần kinh tế do Nhà nước và nhà tư bản
cùng góp vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh đạo. Tư bản của tư nhân là tư
bản chủ nghĩa. Tư bản của Nhà nước là xã hội chủ nghĩa. Theo Lênin, thành phần kinh tế
này là nấc thang, bước trung gian để một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Và
thành phần kinh tế "nửa chủ nghĩa xã hội" này sẽ tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Ngoài ra cịn có kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất
nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế cá thể của nông dân và của thủ công nghệ.
Hai là: Ngay từ năm 1953, Hồ Chí Minh đã cho rằng: Dưới chế độ dân chủ mới

có 5 loại thành phần kinh tế khác nhau là:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung nhân dân). - Kinh
tế hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội).
- Kinh tế của cá nhân, nơng dân và thủ cơng (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là
nửa chủ nghĩa xã hội).
- Kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế tư bản của nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).
Và, trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, để khỏi chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng phải làm cho kinh tế quốc doanh phát triển nhanh hơn và
giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hồ Chí Minh đề ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ là: - Cơng tư
đều lợi. - Chủ thợ đều lợi. - Công nông giúp nhau. - Lưu thơng trong ngồi.
“Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta”. Chỉ bằng những
câu ngắn gọn Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những nguyên tắc, mục tiêu cần hướng
7


tới của nền kinh tế nhiều thành phần là: các thành phần kinh tế phải tồn tại trong mối quan
hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.
Tư tưởng trên của Người đã được đưa vào cuộc sống và đã đưa lại những thành tựu
to lớn. Công cuộc khơi phục kinh tế 1955 -1957 nhanh chóng hồn thành, công cuộc cải
tạo và phát triển kinh tế 1958-1960 giành được những thắng lợi to lớn, mở ra một thời kỳ
"hoàng kim" của kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc phát triển. Về cải tạo và sử dụng các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì trong báo cáo
sửa đổi Hiến pháp trước Quốc hội, Hồ Chí Minh đã trình bày đường lối chung tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Người nêu rõ các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta
và chính sách đối với các loại hình đó. Người cho rằng: “trong nước ta hiện nay có những
hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.

- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản. Mục đích của chế độ ta là
xóa bỏ các hình thức sở hữu khơng chủ nghĩa xã hội, làm cho nền kinh tế gồm nhiều
thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể”.
Nhìn vào thứ tự trên ta thấy rằng, Hồ Chí Minh sắp xếp các loại hình sở hữu, căn
cứ vào vai trò thực tế của chúng đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Sở hữu xã hội chủ nghĩa
đứng ở vị trí cao nhất. Nó là nền tảng kinh tế của chế độ xã hội mới, chỗ dựa của Nhà
nước nhân dân; quy định bản chất các quan hệ xã hội mới đang trong quá trình manh nha
và định hình. Theo Hồ Chí Minh, vai trị chủ đạo của kinh tế xã hội chủ nghĩa thể hiện:
đây là hình thức sở hữu chính, tồn tại trong các lĩnh vực then chốt, ảnh hưởng đến quốc
kế, dân sinh, có tác dụng hướng dẫn các loại hình kinh tế khác đồng thời cũng là mục đích
hướng tới của các quan hệ và hoạt động kinh tế. Sở hữu xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong
quá trình vận động theo nấc thang tương ứng với trình độ phát triển, quy mơ xã hội hóa
của sản xuất xã hội. Q trình đó là một quy luật.
Thành phần kinh tế quốc doanh dựa trên cơ sở chế độ sở hữu nhà nước, sở hữu
toàn dân cho nên nó giữ vai trị chủ đạo, lãnh đạo nền kinh tế. Nhà nước phải đảm bảo
cho nó phát triển ưu tiên: "chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo
nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa". Hình
thức thứ hai của sở hữu xã hội chủ nghĩa là sở hữu tập thể. Hồ Chí Minh nêu rõ "đường
lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ
đi từ tổ đổi công (có mầm mống xã hội chủ nghĩa) tiến lên hợp tác xã cấp thấp (nửa xã hội
chủ nghĩa) rồi tiến lên hợp tác xã cấp cao (xã hội chủ nghĩa)”. Kinh tế hợp tác xã là hình
8


thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước đặc biệt khuyến khích và giúp đỡ
phát triển. Hồ Chí Minh cho rằng: “Hợp tác hóa nơng nghiệp là khâu chính thúc đẩy cơng
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”. Ngoài sở hữu xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh

cịn thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, lâu dài của các hình thức không xã hội chủ
nghĩa. Cụ thể như đối với người làm nghề thủ công và riêng lẻ khác, “Nhà nước phải bảo
hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách
làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”.
Đối với tư sản cơng thương, nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế
dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của nhà nước, đồng thời hướng họ vào quỹ đạo
kinh tế của chủ nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo
khác. Tư tưởng trên của Người không những cho chúng ta thấy cần phải phát huy mọi
năng lực sản xuất của mọi thành phần kinh tế mà còn cho chúng ta thấy tinh thần đoàn kết
dân tộc sâu sắc. Người nói rằng: "Giai cấp tư sản nước ta có xu hướng chống đế quốc, có
xu hướng yêu nước... cho nên nếu ta thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng
theo chủ nghĩa xã hội”. Bên cạnh đó Người cịn rất quan tâm đến việc làm ăn của ngoại
kiều ở Việt Nam. Trong lời kêu gọi nhân ngày giải phóng thủ đơ, Người nói: "Các bạn,
người bn bán kinh doanh tiểu thương, tiểu chủ, công nhân và trí thức đã chung sống với
nhân dân Việt Nam. Các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở Việt Nam. Những hoạt động chính
đáng về kinh tế và văn hóa của các bạn cũng có lợi cho Việt Nam. Vì vậy tơi khun các
bạn: “Các bạn cứ n lịng làm ăn như thường. Nhân dân và Chính phủ Việt Nam sẽ giúp
đỡ và bảo hộ các bạn" (13). Tóm lại, những quan điểm trên thể hiện rất rõ tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm đó thể hiện sự mẫn cảm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về việc nắm bắt
và vận dụng các quan điểm mác xít, khắc phục trên thực tế xu hướng tả khuynh trong
đường lối xây dựng chủ nghĩa ở nhiều Đảng Cộng sản và công nhân khi hiểu không đúng
về luận điểm của Mác và Ăngghen: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành cơng thức duy nhất là xóa bỏ chế độ tư hữu”. Phải hiểu rằng không phải
những người cộng sản thủ tiêu chế độ tư hữu nói chung mà thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa. Bởi vì khi trả lời câu hỏi: “Liệu có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức được
không?”. Mác, Ăngghen đã khẳng định: “Không, không thể được, cũng y như không thể
làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng
một nền kinh tế công hữu. Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vơ sản đang có tất cả các

triệu chứng là sắp nổ ra sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi
nào tạo nên một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì mới thủ tiêu
được chế độ tư hữu”. Phải chăng sự cải tạo một cách dần dần ấy chính là những bước
trung gian, với những chặng đường, những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
9


quá độ, hay nói cách khác là xây dựng một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, sau Lênin, Hồ Chí Minh là người đầu tiên vận dụng lý luận về cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong xây dựng kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN KINH TẾ HIỆN
NAY
2.1. Thực tiễn vận dụng
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong nền kinh tế vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về
cả lý luận và thực tiễn vấn đề về các thành phần kinh tế và khẳng định, đặc điểm kinh tế
cơ bản có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tồn tại
khách quan của nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Đây
là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) xác định: “Xuất phát từ sự đánh giá
những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động,
kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc phát triển
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và
tranh thủ vốn ngồi nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế khác”. Đồng thời chỉ ra: Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là: “Kinh tế xã hội
chủ nghĩa; Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ
cơng, nơng dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư

bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư
hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi cao khác”.
Đại hội VII của Đảng nêu rõ: Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh
doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu cơ bản, sẽ hình thành nhiều thành phần
kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng: Kinh tế quốc doanh được củng
cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt; kinh tế tập thể, với hình thức
phổ biến là hợp tác xã, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành, nghề với quy mô
và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp sức của những người
lao động. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả thành thị
và nông thôn. Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn
hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp khơng cấm. Kinh tế gia đình khơng phải
là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển mạnh. Nhà nước
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt
10


tài sản hợp pháp, khơng gị ép tập thể hố tư liệu sản xuất, khơng áp đặt hình thức kinh
doanh.
Đến Đại hội VIII Đảng ta tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện chủ trương, chính sách
đối với từng thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp
tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá chủ, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Đại hội IX của Đảng ta ghi rõ: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật. Đại hội cũng chỉ
rõ các thành phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế
tập thể; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi. Đại hội X của Đảng khẳng định, ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu
là tồn dân, tập thể và tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều thành phần kinh tế gồm:
Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn

đầu tư nước ngồi.
Trong q trình phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội XI của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Hồn thiện cơ
chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực
của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy
hoạch”. Đại hội cũng chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh
tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường”.
Để phát triển nhanh và bền vững đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát
triển”.
11


2.2. Thành tựu vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh của Đảng cộng sản Việt Nam
Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đa dạng
hố các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức thực tiễn. Đảng

không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong
suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự cần thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử
dụng và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự vận động của thực tiễn và sự phát triển
của nhận thức, lý luận về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội
VII, VIII, IX và X. Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước
ta gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế
tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá
thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân thành thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định
đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực
tạo sự n tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các thành
phần kinh tế phi nhà nước.
Sự phát triển khơng đồng đều của lực lượng sản xuất, tính kế thừa trong phát triển,
cũng như đặc điểm cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v.
quy định sự tồn tại đa dạng, đan xen của các hình thức sở hữu và tương ứng với đó là sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Trong cơ cấu nền kinh tế đó,
kinh tế nhà nước được Đảng xác định là thành phần đóng vai trị chủ đạo, các thành phần
kinh tế khác góp phần quan trọng trong việc huy động mọi tiềm năng, nguồn lực vào sản
xuất, kinh doanh, phát triển lực lượng sản xuất.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, có những thành phần kinh
tế đã thể hiện tốt vai trò của mình, song cũng có những thành phần kinh tế còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém.
Về kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế này lấy sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất là cơ sở kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,
mà cịn bao gồm các tài sản, cơng cụ kinh tế quan trọng thuộc sở hữu nhà nước, v.v.. Văn
kiện Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, v.v.. Kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc

dân”.
Trong những năm qua, tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nước có xu hướng giảm
xuống. Trước thực trạng này, đã có nhiều ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước chỉ cần nắm
12


lấy những yết hầu của nền kinh tế là đủ. Tuy nhiên, theo chúng tơi, đó chỉ là điều kiện cần
nhưng chưa đủ, bởi nếu nắm được yết hầu kinh tế mà các doanh nghiệp vẫn thua lỗ triền
miên, tỷ trọng GDP q thấp thì sẽ khơng thể đem lại sức mạnh cho kinh tế nhà nước. Vì
vậy, kinh tế nhà nước chỉ có thể phát huy được vai trị chủ đạo của mình khi nó vừa nắm
được huyết mạch của nền kinh tế, vừa có năng suất lao động cao và chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP. Vấn đề là ở chỗ, làm cách nào để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có
hiệu quả.
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là một thành phần kinh tế của
chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế này tồn tại và phát triển dựa trên hình thức sở hữu
tập thể và sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ và vững chắc thành phần kinh tế này, bởi như
V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mơ hình dễ tiếp thu nhất của những người nông dân để tiến
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Rút bài học kinh nghiệm sâu sắc từ phong trào tập thể
hóa trước đổi mới và thực tế những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm đến việc phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây dựng các hợp tác xã kiểu
mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các chủ thể sản xuất.
Những năm qua, mặc dù được xác định là cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, song sự phát triển của kinh tế tập thể
còn nhiều hạn chế: hoạt động chưa có hiệu quả, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ
trọng GDP liên tục giảm. Do vậy, để thực hiện mục tiêu mà Chính phủ đề ra là kinh tế tập
thể chiếm 13,8% GDP vào năm 2010 và quan trọng hơn, cùng với kinh tế nhà nước trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, chúng ta cần có những biện pháp tích cực để
kinh tế tập thể phát triển từng bước, vững chắc.
Kinh tế tư nhân bao gồm cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nhìn chung, sau hơn

20 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ và đóng vai trị ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong những năm gần đây, kinh tế dân doanh phát
triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP (trong đó
kinh tế hợp tác đóng góp 6,8% GDP). Như vậy, kinh tế tư nhân đạt 38,9% GDP, tương
đương với tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nước.
Trong kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư
liệu sản xuất, có vai trò quan trọng trong nhiều ngành nghề ở cả thành thị và nơng thơn,
có khả năng huy động vốn và lao động. Đóng góp của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong lĩnh
vực nông nghiệp khá lớn, tỷ trọng GDP khá cao nhưng lại đang giảm liên tục. Sự giảm sút
này khơng đáng lo ngại, thậm chí là một dấu hiệu tích cực, phản ánh sự di chuyển khá
mạnh mẽ của nó vào các bộ phận, các thành phần kinh tế có trình độ cao hơn; thực chất,
là sự thu hẹp cách thức sản xuất nhỏ lẻ để tiến lên những hình thức sản xuất tiến bộ hơn.
Đây là một xu thế tất yếu, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và q trình cơng
13


nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ buộc những thành viên của kinh
tế cá thể, tiểu chủ phải thay đổi, di chuyển vào các bộ phận, các thành phần kinh tế khác
để bảo đảm lợi ích, do đó làm tăng sức cạnh tranh và cơ hội để phát triển khoa học và
công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân, đây là bộ phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
bộ phận kinh tế này đã đóng góp tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, huy động
vốn, tạo việc làm cho người lao động, v.v..
Từ khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ra đời (21/12/1990), các doanh
nghiệp tư nhân đã thực sự đi vào hoạt động với đầy đủ tư cách pháp nhân, kinh tế tư bản
tư nhân đã có sự phát triển đáng kể, phát huy có hiệu quả khả năng huy động vốn và tạo
việc làm mới cho người lao động; đóng góp của nó cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên, do
mới hình thành, nên tỷ trọng cơ cấu GDP của nó chưa cao. Đối với thành phần kinh tế
này, Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản

xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính
sách, pháp lý để nó phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, v.v..
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp
về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngồi nước dưới các
hình thức hợp tác, liên doanh. Trong quan niệm của V.I.Lênin, kinh tế tư bản nhà nước là
hình thức kinh tế quá độ đặc biệt quan trọng và cần thiết để đi lên chủ nghĩa xã hội. Ơng
coi nó là thứ chủ nghĩa tư bản mà 2/3 là chủ nghĩa xã hội, là cái “không đáng sợ”, thậm
chí cịn là “phịng chờ” để đi vào chủ nghĩa xã hội.
Tuy vậy, sự vận động hiện thực của thành phần kinh tế này ở nước ta đang là một
vấn đề cần phải bàn. Các cơ chế, chính sách, điều kiện ở Việt Nam hiện nay chưa tạo ra
sự thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Những năm đầu tiên khi chúng ta mới
thực hiện đường lối mở cửa, có lẽ các doanh nghiệp nước ngồi hy vọng vào việc khai
thác những tiềm năng của một thị trường còn rất mới mẻ, nên họ đã đầu tư rất lớn vào
Việt Nam, liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nước ngoài
diễn ra mạnh mẽ, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ở mức cao. Tuy nhiên, chỉ sau đó
một thời gian, số vốn này giảm mạnh. Chính vì nguồn vốn đầu tư giảm nên tỷ trọng GDP
của thành phần kinh tế này cũng liên tục giảm. Đầu tư nước ngoài là bộ phận phát triển
nhất của kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta, nếu đầu tư nước ngoài giảm sút thì tất yếu sẽ
làm cho thành phần kinh tế này kém phát triển, thậm chí là khơng phát triển.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong thời gian tới, kinh tế tư bản nhà nước có khả năng
phát triển mạnh mẽ, bởi hiện nay, chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Đảng và Nhà nước ta đang tìm mọi biện pháp tích cực và hiệu quả để cải thiện
môi trường đầu tư. Hơn nữa, hiện nay, một số thành phần kinh tế khác đang phát triển rất
14


mạnh mẽ, nên trong tương lai không xa, nhu cầu liên doanh, liên kết sẽ tăng cao, từ đó sẽ
làm cho kinh tế tư bản nhà nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển sang
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế mới nảy sinh trong quá

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm 1987, khi Luật Đầu tư trực tiếp nước
ngồi được ban hành thì kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi mới thực sự có bước phát triển
nhanh chóng. Hiện nay, đã có hàng ngàn cơng ty nước ngồi có dự án đầu tư ở Việt Nam.
Tính từ năm 1988 đến năm 2003, nước ta đã thu hút được trên 40 tỷ USD đầu tư trực tiếp
nước ngoài và đã thực hiện được hơn 20 tỷ USD. Năm 2005, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi đóng góp khoảng 15,9% GDP, năm 2007 khoảng 17%. Từ khi chúng ta
gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam tăng đột
biến, năm 2007 là hơn 20 tỷ USD (tăng khoảng 70% so với năm 2006), sáu tháng đầu
năm năm 2008 là 31,6 tỷ USD.
Kết quả của 35 năm đổi mới về kinh tế nước ta tốc độ tăng trưởng bình quân khá
cao, trong điều kiện khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, mơi trường quốc tế không thuận lợi);
Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343,6 tỉ USD (đứng
thứ 4 Đông Nam Á; Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt khoảng
6%/năm, năm 2020 đạt 2,91% ; Thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD năm 2020.
( xếp thứ 6 ASEAN); Dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD; Xếp thứ 42/131 quốc gia và
nền kinh tế về chỉ số đổi mới và sáng tạo. Những kết quả nêu trên, một lần nữa khẳng
định rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng; đi lên chủ nghĩa
xã hội là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam đảm bảo tính quy luật chung và tính đặc thù và phù
hợp với thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mỗi thành phần
kinh tế tồn tại có ví trí, vai trị riêng để thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh
thần dân chủ về kinh tế tuân thủ theo pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
2.3. Hạn chế
Hiến pháp đã quy định kinh tế nhà nước là chủ đạo, nhưng cũng quy định các
thành phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh. Tuy nhiên trong thực

tiễn, KTTN khơng có nhiều cơ hội tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, mất nhiều cơ hội trong
đấu thầu cũng như tiếp cận thị trường. Từ nhận thức như vậy cho nên vai trò của các hiệp
hội, tổ chức đại diện cho kinh tế nhà nước vẫn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự có
15


tiếng nói nhất định trong các tổ chức đại diện quyền lực của Nhà nước. Trong khi đó,
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn được “ưu ái” về mọi phương diện, chiếm nguồn lực
lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ gây bức xúc
dư luận. Mặc dù đã có chủ trương cải cách, thối vốn, tái cơ cấu DNNN, nhưng q trình
này cịn rất chậm. Sự bất bình đẳng trên dẫn đến hậu quả là khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế nước ta cịn thấp, mơi trường đầu tư kinh doanh đã được cải thiện nhưng chưa đáp
ứng yêu cầu, doanh nghiệp khởi nghiệp rất nhiều nhưng giải thể cũng không ít do “hữu
sinh, vô dưỡng”. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) dù tăng nhanh về số lượng,
nhưng quy mô vẫn chủ yếu nhỏ lẻ, nguồn lực hạn chế, khó đầu tư sản xuất lớn.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2016, đã thành lập thêm hơn 110.000 doanh nghiệp,
nhưng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 12.478, tăng 31,8% so với năm 2015,
số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động lên tới 60.667 doanh nghiệp.
Khu vực kinh tế tư nhân thiếu sự liên kết, khó tạo ra tiếng nói chung để nâng cao
năng lực cạnh tranh, tham gia đầy đủ vào chuỗi giá trị khu vực và tồn cầu cịn nhiều hạn
chế. Hiện chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia một số chuỗi giá trị tồn
cầu, 14% thành cơng trong việc liên kết với đối tác nước ngồi. Trình độ quản lý của các
chủ doanh nghiệp còn thấp. Các chủ doanh nghiệp tư nhân trưởng thành qua học hỏi, qua
bạn hàng, ước tính khoảng trên 80% trưởng thành từ kinh nghiệm thực tiễn chỉ có một số
được đào tạo qua trường lớp chính quy về quản trị doanh nghiệp hay quản lý về kinh tế
chung. Chính vì quản lý và điều hành dựa vào kinh nghiệm được tích lũy, chưa qua đào
tạo và khơng có bằng cấp chun mơn nên các chủ doanh nghiệp tư nhân khó khăn trong
việc cạnh tranh.
Hơn nữa trong điều kiện hội nhập như hiện nay, với kiểu kinh doanh như trên sẽ
khơng cịn phù hợp do hiện nay nó là rào cản sự phát triển của doanh nghiệp, chẳng hạn là

làm ăn theo lối chộp giật, khó có khả năng tiếp thu những cái mới. Bên cạnh đó, vẫn cịn
tình trạng doanh nghiệp “ma” tiến hành đăng ký, nhận giấy đăng ký, mã số thuế nhận hóa
đơn, khơng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, biến mất khỏi địa bàn, năng lực
công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công
nghệ chỉ chiếm 0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với các nước như Ấn Độ (5%), Hàn
Quốc (10%),… Công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất lao động không cao, khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường thấp, kể cả thị trường trong và ngoài nước, trong
khi cạnh tranh là yếu tố cơ bản để đảm bảo tồn tại và phát triển, là yếu tố sống còn của
doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù đã khẳng định được vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, đóng
góp vào GDP ngày càng tăng, song năng lực nội tại của các doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân (KTTN) ở nước ta nhìn chung cịn thấp, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, cá thể.
Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng
16


giảm xuống, tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động giai đoạn 2007 - 2015 là 4550% số doanh nghiệp mới thành lập. Khu vực kinh tế tư nhân (doanh nghiệp, hộ kinh
doanh cá thể, hộ gia đình) tạo ra việc làm cho khoảng 85% lực lượng lao động cả nước,
trong đó chỉ tính riêng khu vực doanh nghiệp hằng năm tạo ra khoảng 1 đến 1,5 triệu việc
làm mới. KTTN hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành nghề, nhưng cơ cấu ngành nghề
còn chưa hợp lý: tập trung phần lớn trong các ngành nghề như thương mại và dịch vụ
nhỏ, lẻ phục vụ người tiêu dùng (81%); phần còn lại khoảng 19% trong các lĩnh vực cơng
nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất tập trung chủ yếu ở khâu gia công
lắp ráp, mang lại giá trị gia tăng thấp, doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN trong các lĩnh
vực công nghiệp phụ trợ cịn ít. Tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực này tham gia liên kết
với các doanh nghiệp FDI cũng như chuỗi liên kết sản xuất còn rất khiêm tốn.
2.4. Giải pháp
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh
tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (14). Đó là nền kinh tế

thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công
cụ, lực lượng vật chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị
trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ
pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển
đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực
mới, mơ hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền,
ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách
nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
17


Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường
quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt
động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị
trường”. Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù
để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mơ hình kinh tế mới, khởi

nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực
hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ
chế, chính sách, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản
hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính
sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.
Thực hiện công khai, cơng bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư, quản lý, thuế, tài
chính v.v.. đối với các thành phần kinh tế. Xóa cơ chế "xin – cho"; ngăn chặn hữu hiệu xu
hướng quay lại bao cấp trong một số ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế. Khắc phục mọi
biểu hiện đặc quyền đặc lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng, hối lộ v.v.. trong các khâu
của quá trình vận hành nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường.
Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các thành phần kinh tế.
Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất kinh
doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng khả năng lãnh đạo của Đảng
và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để bảo đảm sản xuất, kinh
doanh đúng hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước
tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế tiếp cận với thị trường khu vực và
quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, tăng sức cạnh tranh,
tiếp thu được những tiến bộ khoa học – công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ của thế
giới.
Coi trọng bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế
nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết phát hiện, ngăn chặn kịp thời
những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn thất cho sản xuất, kinh doanh và gây tác
hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị kinh tế sản xuất,
kinh doanh hàng kém phẩm chất, làm hàng giả, gian lận trong sản xuất, kinh doanh để tạo
nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục những biểu hiện sai trái, tiêu cực của các
thành phần kinh tế có thể xảy ra gây nên những biến động về kinh tế – xã hội của đất
nước.


18


KẾT LUẬN
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó là sự kết tinh
sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tế cho thấy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới xứng đáng là người lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân Việt Nam. Chỉ 15 năm sau ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn
thể nhân dân Việt Nam đứng lên giành chính quyền, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, tự
do.
Như vậy, đường lối, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong những Văn kiện Đại hội của Đảng là sự kế thừa và phát triển về tư
duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, thật sự khoa học, có nhiều nội dung mới, kết
tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Những đường lối, quan
điểm, chính sách này có tính khái qt cao; vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa
thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất
nước nhanh, bền vững.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.12, tr.372.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, t.8, tr.293-294.
3. Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 12, tr. 435
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.9, tr.589.
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.9, tr.589.
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.9, tr.589-590.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự
thật, H.1987, tr.56.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự
thật, H.1987, tr.56-57
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb.CTQG, H.2011, tr.101- 102.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn
phịng Trung ương Đảng, H.2016, tr.102-103.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, H.2021, t.1, tr.128-129

20



×