Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Chứng minh cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.95 KB, 13 trang )

BÀI TẬP LỚN
Mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: “Chứng minh cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ”

1


MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………tr 3
I. Cách tiếp cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề xã hội…..tr 4
II. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội………tr 7
III. Quan điểm cá nhân……………………………………………tr 10
Kết luận……………………………………………………………..tr 11
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………tr 12

2


Lời mở đầu
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, sợi
chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng
này đã đưa dân tộc Việt Nam đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống
nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Là một người dân mất nước, nhiều lần được
chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân đối với đồng bào mình và
người dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí Minh thấy rõ một dân
tộc khơng có quyền bình đẳng chủ yếu là do dân tộc đó mất độc lập. Tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện, hồn cảnh
cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách


mạng Việt Nam trong thời đại mới: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội”. Sau khi tìm được đường lối cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc chủ
trương đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vơ sản. Chính
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản". Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra
trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách
mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản, chính là làm cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH. Giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền mật thiết với nhau thể hiện ở mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

3


I. Cách tiếp cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề
xã hội
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là 1 khái niệm có nội hàm rộng
và sâu, có 1 ngoại diện bao quát rất nhiều vấn đề, từ lý luận đến thực tiễn, lý
tưởng và hiện thực, đạo đức và lối sống, văn hóa và con người, khái niệm về
chủ nghĩa xã hội tư tưởng Hồ Chí Minh là 1 khái niệm đang vận đơng, ở
những tình huống khác nhau, hồn cảnh khác nhau và những vấn đề rất khác
nhau. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan niệm rằng, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và
cách mạng của giai cấp vơ sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa,
thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng tồn thể xã hội lồi
người. Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện
nó như là một q trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Có lẽ

trong lịch sử phát triển và thực hiện học thuyết về chủ nghĩa xã hội, khơng có
người nào tiếp cận chủ nghĩa xã hội thực tế như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự
tiếp cận các vấn đề chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ con người, từ đạo đức của con
người thật sự là 1 cách tiếp cận độc đáo. Chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ
nghĩa cá nhân. Muốn đi lên chủ nghĩa xã hội, muốn phấn đấu cho chủ nghĩa xã
hội, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Đối với Người, chủ nghĩa xã hội là một
chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các cá nhân. Như vậy, đây là
cách tiếp cận mới mà Người đã làm phong phú thêm hướng tiếp cận về chủ
nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã làm sáng tỏ
bản chất chủ nghĩa xã hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội.
Ngoài những kiến giải ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn nhìn nhận bản chất chủ
nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, văn hóa. Theo Người, chủ nghĩa xã hội
đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề phủ nhận cá nhân; trái
lại, tôn trọng cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì sự phát triển xã hội
và hạnh phúc của con người nói chung. Đây là chiều sâu trong tư duy biện
chứng, trong nhãn quan văn hóa, đạo đức của Người.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng mới mong hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Để có đạo đức cách mạng thì phải loại trừ mặt
trái của nó là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ thù nguy hiểm,
ngăn cản chúng ta đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Nếu khơng gạt bỏ được
nó ra khỏi ý thức và hành động của chúng ta, thì chúng ta sẽ tự mình phá hủy
sự nghiệp của mình. Đây chính là nỗi lo toan thường trực của Người.
4


Từ tác phẩm "Đường cách mệnh" (năm 1927) cho đến "Di chúc" để lại cho
toàn Đảng, toàn dân (năm 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng lúc nào xa rời
điều quan tâm lớn lao đó. Trong tác phẩm "Tư cách của người cách mệnh" và
nhất là tác phẩm "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân",

Người nhấn mạnh: Khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo
được nhân dân. "Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là
một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình
đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?".
Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra lời khẳng định: "Tư tưởng xã hội chủ
nghĩa là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa". Theo Người, cần chống chủ nghĩa
cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm cho mỗi cá nhân
phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự phát triển hài hịa giữa cá
nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Người đưa ra quan
niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó, con người ứng xử với nhau theo
phương châm: mình vì mọi người, mọi người vì mình. Do đó, một trong
những nét nổi bật của con người xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát
triển cao về đạo đức, nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Xã hội
xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những con người như thế, và chăm lo
giáo dục, phát triển con người là chiến lược quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa
xã hội. Điều cần lưu ý là, mặc dù rất chú trọng nhân tố đạo đức trong sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội và coi đạo đức xã hội chủ nghĩa là thuộc về bản
chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội, song Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng bao giờ
xem đạo đức là hiện tượng nằm ngoài tác nhân khác, gây nên sự chia cắt, đối
lập giữa kinh tế và đạo đức. Người đề cao sức mạnh tinh thần của đạo đức,
nhưng khơng rơi vào duy ý chí, chủ quan hoặc chủ nghĩa trừu tượng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ln ln thể hiện tính thống nhất
biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức. Từ
cách tiếp cận đó về chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực tiễn
hết sức phong phú của mình, Người đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản
chất của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Theo Người, "xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội". "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là chống tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa". Bởi vậy, đạo đức và tư cách của người cách mạng

luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành bại của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Luận đề tổng quát đó được Người cụ thể hóa thêm:
"Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con
5


cháu chúng ta ngày càng sung sướng". "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân
giàu nước mạnh".
Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề
quan trọng mà Người đặc biệt quan tâm. Theo Người, dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân; chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ,
bởi vậy, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ là chìa khóa của mọi sự tiến bộ và
phát triển. Quan niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt
động của Đảng và Nhà nước ta.
Cùng với chế độ mới, nền kinh tế mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh
tới nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Bao quát mục tiêu đó, Người nhắc nhở chúng ta: "Cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất...
Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và
đời sống tươi vui hạnh phúc".
Bàn về động lực, nhất là động lực bên trong, thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực và quý
báu. Theo Người, động lực quan trọng và quyết định của xây dựng chủ nghĩa
xã hội chính là nhân tố con người. Do đó, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước
của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân là sức
mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Người luôn luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc và nhấn mạnh:
đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vơ địch.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa là động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thấy rõ vai trò ngày càng tăng của
văn hóa trong sự phát triển, Người cho rằng, văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi; phải xúc tiến công tác đào tạo con người mới và cán bộ mới. Đó là
nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia.
Cùng với động lực tinh thần, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực
kinh tế trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh có tác dụng giải phóng mọi năng lực sản xuất vì ích nước, lợi
nhà. Người sớm chủ trương áp dụng "Tân kinh tế chính sách" (Chính sách
6


kinh tế mới) của V.Lê-nin khi Người khởi thảo Điều lệ Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội. Như vậy, dự cảm và trù tính về tương lai của Người
thực sự là sáng suốt và chuẩn xác.
Ngoài các động lực bên trong, do các nhân tố nội sinh tạo nên, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kết hợp được
các nhân tố nội sinh với các nhân tố bên ngoài (ngoại sinh). Một trong những
sự kết hợp đó là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trên lập trường của giai cấp công nhân.
Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đứng trước một thực tế
là trở thành Đảng cầm quyền. Nỗi quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở thành Đảng quan
liêu, xa dân, thối hóa, biến chất, làm mất lịng tin của dân. Để tránh được
nguy cơ đó, theo Người, trước hết Đảng phải tăng cường đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân và thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên. Người coi đó là điểm mấu chốt. Chỉ như vậy, Đảng mới mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, mới xứng đáng với lịng tin của nhân dân.


II. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi xun suốt
tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh; thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và
hoạt động thực tiễn của Người. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi
trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí
Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của
cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở ba nội dung lớn, đó là:
- Thứ nhất, về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt
Nam có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được
thực hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì
7


thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực
tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với tồn nhân loại. Với dân
tộc Việt Nam, đó cịn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi
máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền
độc lập thật sự, độc lập hồn tồn, chứ khơng phải là thứ độc lập giả hiệu, độc
lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc

lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân
dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh khơng bao giờ coi đó
là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân
tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều
kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập dân tộc tạo
tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ
nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập
dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao
giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân,
những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ.
Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo
lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người
khẳng định "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt
để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nơ lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính"
- Thứ hai, những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt
8



Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc
lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trị lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hồn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất,
phải thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong
đó cơng tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng
cố và tăng cường khối liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và trí thức làm
nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ
lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng.
Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người địi hỏi cơng - nơng
- trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên
minh cơng - nơng và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân
và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức
cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt
chẽ với cách mạng thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Người có nhiều chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hồ bình dân chủ trên thế giới.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hố khi gắn liền với những điều kiện
bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Thứ ba, sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời
và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên

phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm
20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam
liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực
tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:
9


Giai đoạn 1930 - 1945: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương
lĩnh vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo. Trong đó, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư
sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự do
tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu đánh
đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám 1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn
năm, chấm dứt sự đơ hộ của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ
đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta bước sang một kỷ nguyên mới:
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1945 - 1954: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu.
Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành cơng cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt
được ở miền Bắc. Sau hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia
cắt thành hai miền Nam - Bắc. Sau khi hịa bình lập lại, miền Bắc tiến hành

cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương lớn cho cách mạng giải
phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Giai đoạn 1954 - 1975: cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Khát vọng hịa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy
truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha, truyền thống chiến thắng
giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước xuống đường, cả nước hướng về miền
Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta "Tất cả
cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng kiến sự kết hợp
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô lớn như thời
điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến
cơng và nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất
nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất
và chủ nghĩa xã hội.
10


Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc gắn liền với chỉ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất Tổ
quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm
vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn
gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng
định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ
độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”

III. Quan điểm cá nhân
Bác Hồ mn vàn kính u đã để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, với
những giá trị nhân văn cao cả, đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng và đồng
thời cũng là đạo đức xã hội chủ nghĩa. Cuộc vận động "Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Trung ương Đảng phát động và được
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hưởng ứng, thực hiện nghiêm túc là một biện
pháp rất quan trọng để trước hết, mọi cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức
khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, cũng như củng cố, giữ
vững niềm tin của họ và nhất là của nhân dân đối với Đảng, đối với lý tưởng
xã hội chủ nghĩa. Điều đó càng trở nên cấp thiết khi sự suy thoái về đạo đức,
lối sống, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên cũng như sự xuống cấp về đạo đức trong xã hội ta đang
có chiều hướng gia tăng.
Để cuộc vận động đạt hiệu quả thiết thực, trước hết phải nâng cao nhận thức
về đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời phải coi trọng làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Như vậy, vấn đề có tầm quan trọng là phải hành động sau
khi nhận thức đã được nâng lên. Chính khâu hành động - thực hiện tốt lại góp
phần củng cố và nâng cao nhận thức mới. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian
vừa qua, ở các đơn vị biết tổ chức học tập tốt, biết liên hệ một cách sát thực và
coi trọng hành động thiết thực thì bước đầu tạo được chuyển biến rõ rệt trong
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngược lại, nơi nào
chỉ coi trọng việc học tập, thậm chí tổ chức thi nói rất rầm rộ, nhưng khơng có
chương trình hành động cụ thể thì sau khi học tập, tình hình vẫn như cũ,
11


không tạo được chuyển biến cần thiết theo yêu cầu đặt ra đối với cuộc vận
động lần này. Bên cạnh đó, nếu các đơn vị biết sơ kết và phổ biến kinh nghiệm

kịp thời thì sẽ thúc đẩy cuộc vận động đạt hiệu quả cao hơn.
Những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã đạt được trong thời gian qua,
đặc biệt là trong hơn 20 năm đổi mới, là một thực tế khơng ai có thể phủ nhận
được. Con đường đi tới của cách mạng nước ta đang có nhiều cơ hội thuận lợi,
nhưng cũng gặp khơng ít thách thức, khó khăn, nhất là sau khi nước ta gia
nhập WTO. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội, với sự kiên định mục tiêu, lý tưởng và đạo đức xã hội chủ
nghĩa cùng sự lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Đảng, nhân dân ta sẽ từng
bước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Kết luận
Trong 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ xác định rõ nội dung và cụ
thể hóa mục tiêu về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách và đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn đó chỉ ra rằng, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán
và đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân
dân ta trong 91 năm qua. Hiện tại, dù còn nhiều khó khăn, nhưng Ðảng ta vẫn
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì đó là con đường
đúng đắn, là quy luật và xu thế phát triển tất yếu của thời đại; là điều kiện bảo
đảm để dân tộc thực sự độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trở thành
hiện thực.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực cịn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là
các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hịng xóa bỏ vai
trị lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay
trong nội bộ Đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn vững vàng lập trường, bản
lĩnh, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi
cấp, ngành và địa phương; mọi lực lượng và toàn dân cần tin tưởng tuyệt đối

vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nêu cao cảnh giác, chủ động
12


ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa.

Danh mục tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr 253
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 9, tr 280 (TG nhấn mạnh)
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 10, tr 591, 317
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 8, tr 226
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, tr 572
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 8, tr 493 – 494
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 5, tr 286
Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 298
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 64.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 97.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 12, tr. 267.
Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học và Chiến lược Công an
Giảng viên, Khoa Triết học & CNXHKH, Học viện Chính trị Cơng an nhân
dân



13




×