Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN KHÁCH QUAN CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI XÃ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.32 KB, 19 trang )

1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng
Cộng sản và Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn từ khi Đảng ta ra đời - năm
1930. Đây là một quan điểm kiên định, thống nhất xuyên suốt cả quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Thực tiễn cách mạng nước ta hơn
90 năm qua chỉ rõ, Đảng ta luôn lấy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm
mục tiêu, động lực cho cách mạng; đồng thời kiên định với nguyên lý cách
mạng đó.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
thể hiện tính tất yếu là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã khẳng định mục tiêu
và con đường của cách mạng Việt Nam: “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Từ đường lối chiến lược đó,
q trình lãnh đạo cách mạng, dù trong bất kỳ hồn cảnh nào, thuận lợi hay
khó khăn; chiến tranh hay hịa bình, Ðảng ta vẫn kiên trì mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Đúng như Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ IV (12/1976), tởng kết lịch sử của cách mạng nước ta do Đảng
lãnh đạo, Đảng đã khẳng định: “Đảng ta từ khi ra đời đến nay, vẫn luôn
giương cao ngon cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là đường lối, là
sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta”. Điều đó càng
chứng tỏ rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn của
cách mạng Việt Nam. Gắn kết chặt chẽ mục tiêu giải phóng dân tộc với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trở thành lý luận khoa học và rất cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Hiện nay, chủ nghĩa tư bản tuy có thay đởi hình thức áp
bức, bóc lột nhưng vẫn không thay đổi bản chất, vẫn là nguyên nhân gây ra
nghèo đói cho các nước chậm phát triển, vẫn là nguồn gốc gây ra những cuộc
chiến tranh và tạo nên biết bao hệ quả xấu về văn hóa, xã hội, môi trường…
trên thế giới. Ngay trong các nước tư bản phát triển, tình trạng phân hóa giàu
nghèo vẫn diễn ra rất gay gắt. Do đó thực hiện mục tiêu chiến lược thực sự


hiệu quả, trong lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn sáng tạo và linh hoạt gắn


2

kết hai nhiệm vụ đặt ra của cách mạng cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Chính nhờ sự sáng tạo và linh hoạt đó, đã làm nên những thắng lợi cho cách
mạng Việt Nam, đưa nước ta từ nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành quốc
gia có vị thế trên trường quốc tế như Tởng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú
Trọng đã phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin
để toàn Đảng, toàn dân và tồn qn ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
tiếp tục vững bước trên con đường đởi mới tồn diện, đồng bộ; phát triển
nhanh và bền vững đất nước.


3

PHẦN II: NỘI DUNG
I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MỘT SỰ LỰA CHỌN KHÁCH QUAN CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM
Với hướng đi đúng đắn, hợp quy luật; ý Đảng hợp với lòng dân; phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng vươn lên mãnh liệt và
ý chí, quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã lập nên
những kỳ tích đáp ứng mong mỏi, ước vọng của toàn dân tộc. Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân
tộc Việt Nam đã lựa chọn, là bài học lớn xuyên suốt quá trình cách mạng Việt
Nam. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con
đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lịng
dân. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, của nhân dân ta đi theo Đảng, Bác Hồ.

1.1. Sự lựa chọn khách quan của lịch sử
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn - lịch sử những thập niên đầu của thế kỷ
XX và quá trình vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam trong 90 năm
qua (1930-2020), trong đó có 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và hội nhập
quốc tế, đã khẳng định con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và của nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm
lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm
lược. Từ 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào
yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sỹ, trí thức, nơng
dân, binh lính yêu nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau.
Dù tràn đầy lịng u nước, đức hy sinh, nhưng các cuộc khởi nghĩa, các
phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn đề độc lập
dân tộc không được giải quyết, trước hết là do khơng có đường lối cách mạng
đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách
mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước, do khơng có một đường lối
đấu tranh phù hợp.
Trước thực tế đó, vượt qua lối mòn và những hạn chế trong đường lối


4

cách mạng của các nhà yêu nước đương thời, người thanh niên trẻ Nguyễn
Tất Thành quyết định sang phương Tây - nước Pháp, quê hương của tư tưởng
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và cũng là nước đang thực hiện chế độ thực dân
đối với dân tộc Việt Nam để xem xét, nghiên cứu, học hỏi. Tháng 6 năm 1911
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước, nhiều châu lục,
vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của
các nước, rút ra nhiều bài học q báu và bở ích, đây cũng là cơ sở cho sự lựa

chọn con đường cách mạng của mình.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Cách mạng
Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu “chủ nghĩa Uyn-xơn” và thấy
rõ đây là “một trò bịp lớn”. Người cũng đã chứng kiến thực trạng xã hội tư
bản chủ nghĩa; nghiên cứu bản chất bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đế
quốc, thực dân; thấy rõ tính chất dân chủ giả hiệu “khơng đến nơi” của các
cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Đây là một tiền đề quan trọng để
Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, nắm bắt được “ánh sáng lý luận” từ bản sơ thảo lần
thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin. Cách
mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn
Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người là khi được đọc Sơ
thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin
(1919), tác phẩm lý luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Người đã tìm thấy con đường
duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đơ hộ của thực
dân Pháp. Đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải
phóng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng thế giới... Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vơ sản”. Từ niềm tin đó, Người tở chức truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo
Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn


5

dân ta ln một lịng đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn này xuất phát từ những cơ sở sau:
Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành

công - chủ nghĩa xã hội trở thành một phong trào cách mạng rộng lớn, diễn ra
rộng khắp trên thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng
hiện thực cho những dân tộc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả
năng hiện thực này giúp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa đang bế tắc về hướng đi.
Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản
và nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột, bất cơng, mới đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở
thành những người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa
xã hội thì mới vững chắc. “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc” như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ.
Như vậy, Tiếp xúc với bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của V.I.Lênin, bằng sự mẫn cảm về chính trị, tư duy nhạy bén và kinh
nghiệm thực tiễn phong phú của những năm bôn ba trong phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước thuộc địa và tư bản
phát triển, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc Việt Nam. Khi cách mạng dân tộc giành được thắng lợi, chúng ta
đứng trước sự lựa chọn giữa hai con đường: tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa. Đi theo con đường tư bản chủ nghĩa là trao quyền lực nhà nước cho
một lực lượng thiểu số (giai cấp tư sản), tiếp tục duy trì chế độ xã hội áp bức,
bóc lột của họ đối với đại đa số nhân dân lao động (giai cấp công nhân và
nông dân); là phản bội lại giai cấp công nhân và nông dân, lực lượng chủ lực
của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ; trái với xu hướng “cách mạng không
ngừng”, xu hướng tất yếu của thời đại. Chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ


6


nghĩa xã hội là con đường chúng ta mới có nhà nước thực sự của dân, do dân,
vì dân, mới đảm bảo được độc lập dân tộc thực sự, giữ gìn được bản sắc văn
hóa dân tộc, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của đất nước để hội nhập
quốc tế một cách có hiệu quả.
1.2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam
Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, khơng cịn con đường nào
khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; cách mạng Việt Nam trở thành
một bộ phận của cách mạng thế giới, vận động và phát triển theo quỹ đạo
cách mạng vô sản và trào lưu phát triển của thời đại mới từ sau Cách mạng
Tháng Mười Nga và trên thực tế, thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã xác
nhận tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Hơn 90 năm qua, Đảng và nhân dân ta
luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành
lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp của các
phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng,
từ cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao
trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ
thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đởi mới, tiến
hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,



7

công bằng, văn minh”; củng cố vững chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước
đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội.
Bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của
Đảng, trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất
nhiều thời cơ, vận hội đi liền với thách thức đó. Trên cơ sở quan niệm đúng
đắn về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại có kinh nghiệm thực tiễn hơn
90 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
cho phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.
II. SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC VỀ ĐẶC ĐIỂM, ĐẶC
TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MÀ NHÂN DÂN TA
XÂY DỰNG
2.1. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thực tiễn luôn vận động biến đổi không ngừng, sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay đang đòi hỏi lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần
phải được nghiên cứu, nhận thức sâu sắc hơn, nhằm khẳng định những giá trị
của nó, đồng thời bở sung, phát triển cho phù hợp. Về đặc điểm của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng
năm 1991 (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) được bổ sung và phát
triển tại Đại hội XI (gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011) đều khẳng định:
- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã

hội, lực lượng sản xuất rất thấp.
- Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều chục năm, hậu quả
xã hội do chiến tranh để lại rất nặng nề.
- Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại.


8

Đó là những khó khăn khách quan trên con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, cho thấy thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử
lâu dài, phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, chưa có tiền lệ.
Bên cạnh đó, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa cũng có nhiều thuận lợi:
- Đất nước hồ bình và thống nhất.
- Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt;
nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền thống đồn kết và nhân
ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng.
- Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất – kỹ
thuật rất quan trọng.
- Thời cơ phát triển do cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế quốc
tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo ra.
Như vậy, đặc điểm này chi phối, tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhằm từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân,
phong kiến, đồng thời từng bước gây dựng các mầm mống cho chủ nghĩa xã
hội phát triển, đó là một tất yếu.
2.2. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh năm 1991 đã khái quát 6 đặc trưng của xã hội xã hội

chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là:
“Do nhân dân lao động làm chủ.
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu (quan hệ sản xuất dựa trên
“chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” chính là quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa).
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo


9

năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện cán nhân.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta được bổ sung, phát
triển tại Đại hội X
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn, trên cơ sở Cương lĩnh
1991, Đại hội X đã bổ sung và phát triển, nêu lên 8 đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa ở nước ta:
Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh (đây là đặc trưng mới mà
Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập; sự bổ sung phản ánh yêu cầu diễn đạt chủ
nghĩa xã hội một cách khái quát, ngắn gọn, dễ hiểu nhất).
Hai là, do nhân dân làm chủ (so với Cương lĩnh 1991, bỏ cụm từ “lao
động” cho đúng với thực tế khi đã xây dựng về cơ bản chủ nghĩa xã hội).
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (so

với Cương lĩnh năm 1991, bỏ cụm từ: “dựa trên chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu” và thay bằng cụm từ mới “quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” nhằm tránh sự hiểu lầm, xuyên
tạc về đường lối kinh tế của Đảng ta. Cách diễn đạt này khơng trái với Cương
lĩnh năm 1991 vì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất
hiện đại trong điều kiện nền kinh tế phát triển cao chính là quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa).
Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện (so với Cương lĩnh năm
1991, bỏ đoạn “bóc lột” xuất phát từ thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ và do
khái niệm “bóc lột” cịn có ý kiến khác nhau).


10

Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (so với Cương lĩnh năm 1991, bổ sung
thêm cụm từ tương trợ).
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (đặc trưng này
chưa được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991; sự bổ sung thể hiện nhận thức
rất mới của Đảng về Nhà nước xã hội chủ nghĩa).
Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, về số lượng, Đại hội X bổ sung
thêm 2 đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa và sửa đổi một số ý trong 6
đặc trưng nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Đó là bước phát triển mới của
Đảng trong nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn về xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục hồn thiện mơ hình chủ nghĩa
xã hội ở nước ta
Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục bở sung, hồn thiện thêm nội dung các
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, gồm:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (so với Đại hội
X, đưa “dân chủ” lên trước “công bằng” cho phù hợp về lý luận và thực tiễn
mối quan hệ giữa dân chủ và công bằng);
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp (thay đổi so với Đại hội X trong cách diễn
đạt về quan hệ sản xuất nhằm khẳng định quả quyết hơn về quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa khi kết thúc thời kỳ quá độ vì để tránh khả năng có quan hệ
sản xuất phù hợp mà khơng phải xã hội chủ nghĩa);
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện (so với Đại hội X, bỏ cụm từ “con người được giải phóng khỏi


11

áp bức, bất công” cho phù hợp với thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ);
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng
và giúp nhau cùng phát triển (so với Đại hội X, bổ sung thêm các cụm từ “tôn
trọng” và “phát triển” vì đây là những vấn đề rất quan trọng trong quan hệ dân
tộc hiện nay);
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
(so với Đại hội X có thay đổi cho phù hợp với xu thế trong thực tiễn quan hệ
đối ngoại của nước ta với các nước trên thế giới, khơng bó hẹp trong quan hệ

đối ngoại chỉ với nhân dân các nước).
Đại hội XI của Đảng cũng đã khẳng định, để xây dựng được xã hội với
các đặc trưng trên phải tiến hành một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để,
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trãi qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tở chức kinh tế, xã
hội đan xen nhau. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
III. SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC VỀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐI
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
3.1. Phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh năm
1991 của Đảng
Đảng ta đã chỉ rõ trong Cương lĩnh năm 1991 nêu 7 phương hướng cơ bản:
Một là, Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tở quốc và của nhân dân.
Hai là, Phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo


12

hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân.
Ba là, Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về

hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn
minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến
bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý
của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, Thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, hợp tác và hữu
nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng
nhân, đồn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu
tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ Tở quốc và các


13

thành quả cách mạng.
Bảy là, Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và

tở chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
3.2. Sự bổ sung, phát triển về phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta của Đảng tai tại Đại hội X
Trên cơ sở bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội nêu trong Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh
và bổ sung thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta:
Một là, “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hai là, “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa".
Ba là, “Xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền
tảng tinh thần của xã hội”.
Bốn là, “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc”.
Năm là, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Sáu là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
Bảy là, “Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”.
Tám là, “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
3.3. Sự bổ sung, phát triển về phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
So với Cương lĩnh năm 1991 và sự bổ sung, phát triển của Đại hội X,
Cương lĩnh năm 2011 đã hoàn chỉnh và sắp xếp lại thứ tự tám phương hướng
cơ bản như sau:
Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng



14

xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự và
an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của
Đảng đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
3.4. Đại hội XII với việc kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đại hội XII của Đảng đã bổ sung nhận định của Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) về tình hình thế giới và trong nước. Đại hội chỉ rõ: “Tình
hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức
đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
tồn vẹn lãnh thở của Tở quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải
quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”.
Đánh giá thành tựu và hạn chế 30 năm đổi mới và 5 năm thực hiện
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Đại hội XII nêu: “Ba mươi năm
đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của
nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu
sắc, tồn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân

và tồn qn vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”. Nhìn tởng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những


15

thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra nhiều vấn
đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc
phục. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn
một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục
làm rõ.
Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mơ có lúc thiếu ởn định, tốc độ tăng
trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Trên một số mặt, một số lĩnh vực,
một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của
cơng cuộc đởi mới. Đởi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng
lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Đại hội đánh giá: “Những hạn chế và khuyết điểm trên đây địi hỏi tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp
tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ
nghĩa”. Đại hội XII của Đảng đánh dấu bước phát triển về nhận thức lý luận
của Đảng trong việc xác định phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trong giai đoạn 2016 - 2020. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI, Đại hội xác định mục tiêu tổng quát phát triển đất nước
trong 5 năm tới: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đởi mới; phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hịa bình, ởn định, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trong khu
vực và trên thế giới”. Đến Đại hội XIII của Đảng ta, Báo cáo chính trị ngay
trong tiêu đề đã nêu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống


16

chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
tiếp tục đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ởn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”
IV. LIÊN HỆ TẠI XÃ PHẠM VĂN CỘI - HUYỆN CỦ CHI
Đối với huyện Củ Chi, tại Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua và Dũng
sĩ các Lực lượng võ trang Nhân dân Giải phóng tồn miền Nam lần thứ II do
Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh miền Nam tổ chức ngày 17/9/1967, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tặng Củ Chi
danh hiệu “Đất thép thành đồng”.
Là một xã thuộc huyện Củ Chi “Đất thép thành đồng”, trên cơ sở lịch
sử truyền thống hào hùng của Đảng bộ, Nhân dân huyện nhà, nhận thức chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng kiên định, sáng tạo
trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng – an
ninh của xã, đặc biệt là trong việc tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới
theo chủ trương của Trung ương, Thành phố Hồ Chí Minh và sự triển khai
thực hiện của huyện đối với 20 xã, trong đó có xã Phạm Văn Cội. Với truyền
thống Anh hùng trong chiến đấu và Anh hùng trong thời kỳ đổi mới, kể từ khi xã

Phạm Văn Cội được thành lập vào năm 1977 đến nay, dưới sự lãnh đạo toàn diện,
trực tiếp, tập trung, thống nhất của Huyện ủy, địa phương đã đạt được những
thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn và nâng cao đời sống Nhân dân.
Trong chiến tranh, huyện Củ Chi nói chung và địa bàn xã Phạm Văn Cội bị
tàn phá nặng nề, cơ sở hạ tầng hầu như khơng có, đa số người dân thuộc diện đói
nghèo. Sau ngày giải phóng, được sự quan tâm, hỗ trợ của Trung ương, Thành
phố, của Đảng bộ, chính quyền huyện Củ Chi và sự nỗ lực, phấn đấu của
Đảng bộ, chính quyền cùng nhân dân trong xã đã xây dựng lại quê hương, có
bước phát triển vượt bậc, làm thay đổi cơ bản diện mạo của xã nhà, góp phần


17

làm thay đổi diện mạo vùng quê Đất thép thành đồng như ngày nay. Để đạt
được kết quả như ngày nay, xuyên suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
và phát triển kinh kế xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh, đặc biệt trong
giai đoạn từ năm 2010-2015 và 2015-2020, Xã ln tập trung đẩy nhanh tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn, phát triển nền
nông nghiệp đô thị, tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường, tạo nguồn lực phát triển quốc phịng địa phương.
Đến nay, xã đã có nét đởi thay, phát triển góp tăng thu nhập cải thiện
đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng môi trường xã hội nông
thôn văn minh lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tiếp tục giữ vững ởn định
chính trị, củng cố quốc phịng an ninh, phát huy dân chủ cơ sở, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh. Đặc biệt là sau 10 năm thực hiện xây dựng, nâng
chất nông thôn mới, trên địa bàn xã Phạm Văn Cội đã có nhiều thay đởi tích
cực. Có thể kể đến như: tởng số doanh nghiệp hoạt động tăng liên tục qua các
năm, đến nay có 74 doanh nghiệp trú đóng trên địa bàn xã, giải quyết việc làm

thường xuyên cho hơn 1000 lao động, thu nhập bình quân đầu người đến năm
2020 là hơn 60 triệu đồng/người/năm, cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư,
nâng cấp: hệ thống đường giao thông xã, đường giao thông nơng thơn được
bê tơng, nhựa nóng hơn 44 km, 04 cơ sở giáo dục cơng lập, 01 khu văn hóa
thể thao, hệ thống điện bảo đảm nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, cơ sở vật chất
khác tiếp tục được đầu tư, nâng cấp…
Những thành tựu đạt được về phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững quốc
phòng – an ninh, nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần của người dân
trong xã, là một minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và dân tộc
về con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Từ kết quả đạt được, cấp ủy, chính quyền và nhân dân xã Phạm Văn
Cội quyết tâm tiếp tục thực hiện thắng lợi nhiệm vụ theo Nghị quyết đại hội
đại biểu Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra, cùng với huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn


18

liền với chủ nghĩa xã hội.


19

PHẦN III: KẾT LUẬN
Đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng tích cực của thời đại,
tiếp tục phát huy thành quả của cách mạng, trao quyền lực nhà nước cho nhân
dân, xây dựng nhà nước dân chủ thực sự của dân, do dân, vì dân; xóa bỏ áp
bức, bóc lột và bất cơng - khát vọng chính đáng cháy bỏng của nhân dân lao
động. Trước bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường,
nhất là các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, nhằm

xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đòi
hỏi ngay trong nội bộ Đảng, hơn bao giờ hết phải vững vàng lập trường, bản
lĩnh kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi
cấp, ngành và địa phương; mọi lực lượng và toàn dân cần thấu suốt mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Nêu cao cảnh
giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, chúng ta phải thấy rõ dù ngay cả
trong lúc khó khăn khi Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan
rã, sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời đi vào thoái trào, nhưng trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng vẫn
luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách.
Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Do
đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản và nhân dân
Việt Nam đã lựa chọn là tất yếu khách quan./



×