Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Vai trò của con người và quan điểm của chiến lược trồng người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.52 KB, 18 trang )

BÀI TẬP LỚN NHĨM 6
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Vai trò của con người và quan
điểm của chiến lược trồng người

ĐỀ BÀI:

1


HÀ NỘI - 2022

MỤC LỤC
I/ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI & VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI....................2
1.

Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về con người..........................................................................2
2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người..................................................................3

II/ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI................................................................5
III/ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH........6
IV/ QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VỀ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG & PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI HIỆN NAY.............10

I/ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI &
VAI TRỊ CỦA CON NGƯỜI
1. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về con người
Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định cho cách mạng Việt Nam là nhằm giải phóng dân tộc,


giải phóng xã hội để đi đến giải phóng con người. Con người vừa là
chủ thể của cách mạng, vừa là mục tiêu cao nhất của cách mạng.
Theo Bác, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực,
thể lực; đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ
gia đình, dịng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các mối
quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, tơn giáo...).
Người định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình,
anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả lồi người"
→ Như vậy, con người khơng phải là những cá thể biệt lập.
 Con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên của
một cộng đồng xã hội
 Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có
ăn, mặc, ở, đi lại... Nhưng đời sống con người không chỉ dừng
lại ở vật chất, mà còn những nhu cầu tinh thần, văn hóa là
những đặc trưng của con người. Tất cả nhu cầu về vật chất và
tinh thần đó được đáp ứng hay khơng, lại hồn tồn phụ thuộc
2


vào chế độ xã hội, vào hình thái kinh tế - xã hội mà con người
đang sống.
 Theo Bác, “Dân dĩ thực vi thiên” (Dân lấy ăn làm trời, nếu
không có ăn là khơng có trời), “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”
→ Trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực
hiện ngay làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành
 Trong thực tế: con người có nhiều chiều quan hệ:
o Quan hệ với cộng đồng xã hội (là một thành viên)
o Quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức)

o Quan hệ với tự nhiên (một bộ phận không tách rời)
 Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là
nhìn nhận con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ
thể, với những cấu trúc kinh tế xã hội cụ thể
Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các giai cấp bóc lột
ở Việt Nam chỉ có một số ít cam tâm làm tay sai cho thực dân đế
quốc, chỉ có một số ít là phản lại dân tộc và đất nước, còn đại bộ
phận vẫn thấy cái nhục mất nước của con người Việt Nam. Truyền
thống lịch sử và văn hóa dân tộc đã hun đúc nên tinh thần văn hóa
tiềm ẩn bên trong mọi người dân Việt Nam, bất kể giai cấp nào. Cho
nên nếu làm thức tỉnh tinh thần dân tộc ở họ, thì họ vẫn đứng về
phía dân tộc đối mặt với bọn đế quốc thực dân. Từ đó, Người đã sớm
đưa ra chủ trương phân hóa giai cấp địa chủ thành thị, trung, tiểu địa
chủ; phân hóa giai cấp tư sản thành tư sản dân tộc, tư sản mại bản,
không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, không phân biệt giàu
nghèo...
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thắng lợi
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi ấy đã chứng minh Hồ Chí Minh
đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp một cách
sáng tạo, không chỉ trong đường lối cách mạng, mà còn về mặt con
người, và con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể của
nó.)
2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị của con
người
a. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định sự thành
công của sự nghiệp Cách mạng
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “trong bầu trời khơng gì q bằng nhân
dân. trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
3



dân” Người cho rằng “việc dễ mấy khơng có nhân dân cũng chịu,
việc khó mấy có dân liệu cũng xong” Nhân dân là người sáng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tinh thần.

 Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. Người phân tích
phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng
vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh
đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo vệ,
nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng
 Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều
vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người
tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ mãi khơng ra”. Đặc biệt là
lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách
mạng.
 Nhân dân là yếu tố quyết định thành cơng của cách mạng.
“Lịng u nước và sự đồn kết của nhân dân là một lực lượng
vơ cùng to lớn, không ai thắng nổi.”
b. Con người là mục tiêu của Cách mạng
 Con người là chiến lược số một trong tư tưởng và hành động
của Hồ Chí Minh: mục tiêu này được cụ thể hóa trong 3 giai
đoạn của cách mạng (giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân - tiến dần lên chủ nghĩa) nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
o Giải phóng dân tộc: là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa
đế quốc, dành lại độc lập cho dân tộc. Con người trong
giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.
o Giải phóng xã hội: là đưa xã hội phát triển thành một xã
hội khơng có chế độ người bóc lột người, một xã hội có

nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên
tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội
đó phát triển cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là
xã hội xã hội chủ nghĩa.
o Giải phóng giai cấp: là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai
cấp này đối với giai cấp khác, xóa bỏ sự bất cơng, bất
bình đẳng xã hội, xóa bỏ nền tảng kinh tế - xã hội đẻ ra
sự bóc lột giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp,
các điều kiện dẫn đễn sự chia xã hội thành giai cấp và xác
lập một xã hội khơng có giai cấp. Con người trong giải
phóng xã hội là các giai cấp cần lao, trước hết là giai cấp
4


công nhân và giai cấp nông dân. Phạm vi thế giới là giải
phóng giai cấp vơ sản và nhân dân lao động các nước.
o Giải phóng con người: là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột,
nơ dịch con người, xóa bỏ các điều kiện xã hội làm tha
hóa con người, làm cho mọi người được hưởng tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát huy sáng tạo, làm chủ xã hội, làm
chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện
theo đúng bản chất tốt đẹp của con người. Con người
trong giải phóng con người là cá nhân mỗi con người.
Phạm vi thế giới là giải phóng lồi người
→ Các “giải phóng” kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân
tộc đã có một phần giải phóng xã hội và giải phóng con người;
đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc nhường cho giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
c. Con người là động lực của cách mạng

 Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
 Người nhấn mạnh:
o “Mọi việc đều do người làm ra”
o “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân, trong thế
giới khơng gì bằng sức mạnh đồn kết của nhân dân”
o “Ý dân là ý trời”
o “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong”
→ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
 Nhân dân là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thơng
qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản
xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn
hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành,
lịng tốt, niềm tin,, đó chính là gốc, là động lực cách mạng.
II/ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON
NGƯỜI
Ý nghĩa của việc xây dựng con người: Xây dựng con người là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu dài, có
ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận
hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt
5


chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí
Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng
con người.
- Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”: “Trồng người” là cơng
việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là
cơng việc của văn hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành

thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải
đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng.
Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ
phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
“Trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt
cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm
của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
=> Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các
đồn thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng
người.
- “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con
người xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người
xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Khơng phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao
rồi mới xây dựng con người xã; hội chủ nghĩa; cũng không phải xây
dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra
ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
“Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa” cần được
hiểu trước hết cần có những con người với những nét tiêu biểu của
xã hội xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã
hội chủ nghĩa. Đó là những con người đi trước, làm gương lơi cuốn
người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đơng
là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng
cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến”.
Nội dung xây dựng con người: Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm xây
dựng con người tồn diện vừa “hồng” vừa “chun”. Đó là những con
người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững

vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong
và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Tóm lại là có đức
6


và có tài. Xây dựng con người tồn diện với những khía cạnh chủ yếu
sau:
-

Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư
tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
Có lịng u nước nồng nàn, tỉnh thần quốc tế trong sáng.
Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng,
dân chủ, nêu gương.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ,
trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn
nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.

Phương pháp xây dựng con người: Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý
thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộ
máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng
đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói đến
“tu thân, chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình thên hạ” (làm
những việc có lợi cho nước, cho dân). Văn hóa phương Đơng cho thấy
“một tắm gương, sàng có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền” và “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Bác thường nhắc lại
những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây dựng con người. Người

nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn
nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhắc nhở rằng “hiền, giữ của con người khơng phải là tính sẵn. Phần
nhiều do giáo dục mà nên”. Theo Người, các cháu mẫu giáo, tiểu học
như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Nói như
vậy để thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây dựng con người.
Chú trọng vai trị của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần
chúng. Thơng qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu
nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo
quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ
chức của ta”.
III/ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

7


Thực hiện và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VII, với quan điểm
coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn nhất, là chủ
thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; coi
hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng.
Hội nghị Trung ương IV đã ban hành 5 Nghị quyết liên quan đến
chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người: Về tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Về một số nhiệm vụ văn hoá, văn
nghệ những năm trước mắt; Về những vấn đề cấp bách của sự
nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; Về chính sách dân số
và kế hoạch hố gia đình; về công tác thanh niên trong thời kỳ mới.
Các nghị quyết trên cho thấy quan điểm cách mạng và nhân văn của
Đảng: Tất cả là do con người, tất cả vì hạnh phúc con người, chúng

ta coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn nhất, là chủ
thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội;
đồng thời, coi hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao
nhất.
Có thể thấy, ngay từ Đại hội VII đã đề cập và rất chú trọng đến
con người và phát triển con người như là mục tiêu cao nhất để phấn
đấu theo như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau thời gian
này, rất nhiều cuộc vận động hướng tới sự phát triển của con người
đã được đề ra. Hội nghị Trung ương 12, khố IX (7-2005) đã chỉ đạo
thí điểm cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Chỉ thị số 03, từ năm 2008 đến năm 2010, với các chủ đề
khác nhau hàng năm, cuộc vận động đã nhanh chóng trở thành
phong trào sâu rộng trong toàn xã hội, tạo sự chuyển biến rõ rệt về ý
thức tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên.
Đại hội XI khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, là chủ thể phát triển”. Xây dựng con người Việt Nam giàu
lịng u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức,
sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hố, nghĩa tình; có tinh thần
quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Và Đại hội này
cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục và nghiên cứu khoa học, đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công
dân học tập suốt đời. Hội nghị Trung ương 9, khóa XI (5-2014) nêu
chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển văn hố, con người Việt
Nam, các chính sách xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước.
8



Trong Đại hội XII (2016) Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết
luận, chỉ thị về văn hóa nói chung; về giáo dục, đào tạo; khoa học,
công nghệ; báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật,... nói riêng. Bầu
khơng khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn; dân trí được nâng cao; tính
tích cực cá nhân và xã hội được phát huy. Những nhân tố mới, giá trị
mới của văn hóa, con người Việt Nam từng bước được định hình trong
đời sống. Quyền tự do sáng tạo, quảng bá văn hóa, văn học, nghệ
thuật được tơn trọng; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và sinh hoạt
tâm linh của nhân dân được quan tâm thực hiện. Có thể thấy con
người luôn là yếu tố được quan tâm và con người Việt Nam ngày
càng được định hướng phát triển toàn diện: Chỉ số phát triển con
người tăng lên, từ 0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ
100/177 nước tham gia xếp hạng. Thu nhập thực tế sau 10 năm gấp
3,5 lần so với năm 2000. Hệ thống chăm sóc sức khỏe và an sinh xã
hội ngày càng được đẩy mạnh phát triển.
Gần đây nhất là Đại hội XIII (2021), từ quan điểm chỉ đạo, định
hướng phát triển đến nhiệm vụ trọng tâm đều nhấn mạnh đến con
người, xã hội bền vững, quyền con người, sức mạnh con người, an
ninh con người và hạnh phúc của con người. Đại hội khẳng định:
Nhiệm vụ trọng tâm số 2 là Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh
đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục,
đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh
con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chương V văn kiện Đại hội XIII về: đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển
con người. Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có

hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất
nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại,
hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu
cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và cơng nghệ, thích
ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng hơn giáo
dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất
là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống
9


và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân
dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố dân tộc
tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống
với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt chú
trọng giáo dục mầm non, tiểu học, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện
thuận lợi để mỗi người dân có cơ hội được thụ hưởng công bằng
thành quả của nền giáo dục. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ
cập giáo dục. Thực hiện tốt hơn phân luồng học sinh sau trung học
cơ sở. Đa dạng hố các loại hình đào tạo. Thúc đẩy xây dựng xã hội
học tập, học tập suốt đời. Đẩy mạnh tự chủ đại học. Có chính sách
đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Thúc đẩy
phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng
các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động
phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng cơng nghiệp lần thứ

tư.
Xây dựng và hồn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục
Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy
chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai
thực hiện lộ trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thơng,
trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Hồn thiện
cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngồi cơng lập phù
hợp với xu thế của thế giới và điều kiện của Việt Nam trên cơ sở bảo
đảm công bằng xã hội và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội
chủ nghĩa. Quan tâm thích đáng đến phát triển giáo dục ở miền núi,
vùng cao, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hồn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của
các cơ sở giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo
với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và cơng
nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm
đổi mới sáng tạo mạnh. Cùng với đề cao vị trí, vai trị và trách nhiệm
xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt. Sắp
xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện
đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống,
10


nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục.
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo gắn với
đổi mới cơ chế chính sách để nâng cao hiệu quả đầu tư. Hồn thiện
cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo đúng
hướng, hiệu quả. Đầu tư thích đáng cho giáo dục và đào tạo chất

lượng cao, trình độ cao; có chính sách đầu tư đặc thù cho vùng khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả các
chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh đổi mới đồng
bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị
nghiệp vụ chuyên môn trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực
hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các
cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh,
kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn ngừa và xử lý nghiêm
các tiêu cực trong giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn
định các phương thức đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và
đào tạo, thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh vào các
trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Xây dựng và thực hiện có
hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào
tạo. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục
và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham
gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế.
Với mục tiêu là chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
Đột phá chiến lược số 2 của Đại hội XIII đề ra: Tiếp tục phát triển
toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc,
ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam: Đẩy
nhanh đổi mới giáo dục theo hướng mở, linh hoạt; phát triển mạnh
mẽ khoa học, công nghệ; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao,
phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút,
trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cơng chức có phẩm chất tốt,
chuyên nghiệp, tận tụy, phục vụ nhân dân.
Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục
cơng lập và ngồi cơng lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng
đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo

và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo,
hồn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngồi cơng lập,
thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu
11


thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học cơng lập kém hiệu
quả sang mơ hình hợp tác cơng - tư. Quy hoạch, sắp xếp lại các
trường đại học, cao đẳng; có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường
đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo
có uy tín trong khu vực và thế giới.
Thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị
lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho th một số cơ sở giáo
dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến
trường. Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây
dựng xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường
lao động. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân
tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy
và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu
đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực.
IV/ QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VỀ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG & PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI HIỆN NAY
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã kế thừa và phát huy tinh hoa của
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người: lấy con người làm trung
tâm. Dưới sự lãnh đạo của Người trong quá trình đấu tranh vì độc lập
dân tộc, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định sự thành
công của sự nghiệp Cách mạng. Con người của thời kỳ mới giữ vai
trò là nhân tố quyết định, là động lực to lớn nhất, là chủ thể sáng tạo
mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; coi hạnh phúc

của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng (Nghị quyết
Đại hội VII). Trong Di chúc của Hồ Chủ tịch trước lúc đi xa, Người đặc
biệt quan tâm đến giáo dục thanh niên thành những người thừa kế
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng vừa “chun”. Đó là những con
người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong
và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Tựu chung lại là,
phải có đức và tài – vừa phải có đạo đức, vừa phải có trình độ chun
mơn.
Hồ Chí Minh đồng thời đề cập đến việc nêu gương, nhất là người
đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Người nói rằng “lấy gương
người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết
và bổ ích”. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đề cao vai trò nêu gương
của Cán bộ , Đảng viên, thúc đẩy việc tự giác nêu gương của cán bộ,
12


đảng viên, người đứng đầu. Góp phần kiềm chế, ngăn chặn tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hố" trong nội bộ, tích cực bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trên tất cả, Người đề cao vai trò của giáo dục: “hiền, giữ của con
người khơng phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên.” Kế
thừa tư tưởng đó, Đảng chú trọng tới đổi mới tồn diện giáo dục và
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người .
Điều này được thể hiện cụ thể tại Chương V Văn kiện Đại hội XIII :
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”. Đảng và Nhà nước đặt

mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực. Nền giáo dục tốt góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực tương lai, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là một trong những nhiệm
vụ chủ chốt, được thể hiện tại Đại hội XII.
Qua từng đại hội và các nhận định của Đảng, thấy được Đảng
và nhà nước ta đang ngày càng chú trọng vào việc phát triển con
người trong mọi khía cạnh để nâng cao đời sống cho người dân. Cụ
thể, những quan tâm của đảng đối với con người được thể hiện rõ
qua các thước đo về chỉ số như: HDI, GNI;...Đối với chỉ số HDI (chỉ số
phát triển con người; là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập,
tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ của con người); Chỉ số này được đo dựa trên
các tiêu chí về sức khỏe, tri thức và mức thu nhập. Trong giai đoạn
2016-2020, HDI của cả nước và hầu hết 63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đều tăng qua các năm. HDI của cả nước tăng từ
0,682 năm 2016 lên 0,687 năm 2017; 0,693 năm 2018; 0,703 năm
2019 và 0,706 năm 2020. Chỉ số thành phần do các Chỉ số này cũng
đạt được mức tăng và tốc độ tăng. Chỉ số sức khỏe của cả nước tăng
từ 0,822 năm 2016 lên 0,823 năm 2017 và năm 2018; 0,825 năm
2019 và đạt 0,826 năm 2020. Chỉ số giáo dục 5 năm tương ứng đạt
lần lượt là: 0,618; 0,621; 0,625; 0,641 và 0,640; Chỉ số thu nhập là:
0,624; 0,634; 0,648; 0,659 và 0,664. Từ những con số ngày càng
tăng qua các năm, thấy được Đảng và nhà nước ta ngày càng chú
trong hơn trong việc phát triển con người theo nhiều khía cạnh. Đặc
biệt, đến năm 2021, Việt Nam xếp hạng 115 trên 191 quốc gia và
vùng lãnh thổ và nằm trong Nhóm Phát triển con người cao. Con
người được quan tâm nhiều hơn về vấn đề sức khỏe, về khía cạnh
13



giáo dục và về mức thu nhập trong cuộc sống. Con người được phát
triển song song với thời đại, được hưởng thụ và cống hiến, được xây
dựng và tạo lập sự bình đẳng về mọi mặt như tơn giáo, dân tộc, giới
tính, quốc tịch, màu da,...Từ những khía cạnh đó cho thấy được phát
triển con người sẽ làm tăng thêm những lợi ích về các mặt liên quan
khác như về mặt kinh tế, mặt chính trị, văn hóa, xã hội,...
Theo bà Caitlin Wiesen - Trưởng Đại diện thường trú UNDP tại
Việt Nam: Việt Nam đạt được mức phát triển con người cao là một
thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt
hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới. Những bước tiến ấy có vai trò
quan trọng của Đảng trong phát huy sức lao động sáng tạo của mọi
giai tầng xã hội; xây dựng văn hóa và con người Việt Nam phát triển
tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, dân chủ, khoa học và nhân văn.
Tuy nhiên, chỉ số HDI là chỉ số được đo lường trên mức đánh giá
chung của một quốc gia (Việt Nam). Chỉ số này cao sẽ khái quát
chung mức thịnh vượng và phát triển của con người của nước đó.
Nhưng bên cạnh kết quả HDI cao mà nước ta đạt được thì cịn tồn tại
một số vấn đề đáng quan ngại như HDI và các chỉ số thành phần của
nhiều địa phương vùng núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn thấp.
Mặc dù đạt được tốc độ tăng tương đối cao trong những năm 20162020 vừa qua, nhưng HDI của tỉnh Lai Châu năm 2020 mới đạt
0,582, bằng 82,44% HDI của cả nước; tỉnh Hà Giang đạt 0,591, bằng
83,71%; tỉnh Điện Biên đạt 0,602, bằng 85,27%; tỉnh Gia Lai đạt
0,624, bằng 88,39%. Do đó, Đảng và nhà nước cần xây dựng những
biện pháp cụ thể và thiết thực hơn cho từng địa phương và vùng
miền để có thể đạt được những thành tựu lớn hơn trong thời đại mới.
Đảng ta cũng đặc biệt chú trong đến vấn đề giáo dục để xây
dựng và phát triển con người. Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục
là quốc sách và ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Bên cạnh đầu tư ngân
sách nhà nước cho giáo dục luôn ở mức xấp xỉ 20%/tổng chi NSNN,

tương đương 5% của GDP, Nhà nước cịn có nhiều chính sách hỗ trợ
khác cho giáo dục, đào tạo. Vì vậy, trong hơn 70 năm qua, đặc biệt
là sau hơn 30 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay đổi,
đạt được nhiều thành tựu lớn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển
của đất nước. Điều này được thể hiện qua quy mô mạng lưới giáo
dục ngày càng nhiều; các nền giáo dục của các cấp được đầu tư xây
dựng và phát triển qua từng thời kỳ; chất lượng giáo dục, đào tạo
được nâng lên và có bước phát triển mới. Một trong những minh
14


chứng cho điều này là việc ghi dấu ấn của học sinh Việt Nam trên
sân chơi trí tuệ thế giới như các kỳ thi Olympic các môn ở khu vực và
quốc tế, Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA)…; công tác
định mức chất lượng giáo dục ngày càng được chú trọng. Đảng và
nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ những vùng có khó khăn
trong việc giảng dạy ở các tỉnh miền núi; thực hiện xóa đói giảm
nghèo thơng qua đó tạo cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với giáo
dục; đồng thời có những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối với
giáo viên giúp tạo nên sự phát triển mạnh nẽ của các bậc phổ thông;
cơ sở hạ tầng cho giáo dục được đầu tư thích đáng. Các trường lớp
của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn
về cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương
đương với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả nước đã có gần
500 trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường
trung học cơ sở và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia.
Tuy nhiên, giáo dục Việt Nam cịn có một số hạn chế như thiếu
trường lớp ở các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất đặc biệt
là các trường mầm non; Tình trạng thiếu giáo viên hiện nay đang là
vấn đề đáng lo ngại buộc Đảng và Nhà nước cần có những biện pháp

kịp thời để nhanh chóng khắc phục tình trạng này. Mặc dù đã có
những hỗ trợ về tài chính cho các vùng cao nhưng chính sách hỗ trợ
vẫn chưa thực sự hiệu quả khi vẫn cịn tình trạng cơ sở vật chất chưa
đảm bảo, thiếu trang thiết bị dạy học. Bên cạnh đó, việc đổi mới giáo
dục phổ thơng chưa đảm bảo lộ trình. Việc thực hiện chương trình, kế
hoạch giáo dục ở một số địa phương còn chưa nghiêm túc; chất
lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn thấp so với yêu
cầu. Qua đó thấy được, bên cạnh những thành tựu đó thì vẫn cịn
những hạn chế vẫn cịn tồn tại trong vấn đề giáo dục, do vậy Đảng
cần có những biện pháp đánh giá, theo dõi và kịp thời điều chỉnh, cải
thiện nhằm xây dựng và phát triển con người một cách hiệu quả hơn.
Nói về vấn đề nêu gương, làm gương, làm mẫu cho mọi người
học và làm theo. Đảng và nhà nước đã tăng cường việc xây dựng và
chỉnh đốn Đảng nhằm xây dựng đội ngũ Đảng viên nhất là người
đứng đầu, sẽ mang những phẩm chất tốt đẹp để làm gương cho dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Một tấm gương sống cịn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Đảng kiên quyết ngăn
chặn tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hố" trong nội bộ. Một số
hình thức như cán bộ tự kiểm điểm, kỷ luật công khai sai phạm, xử lý
nghiêm minh những sai phạm gây hậu quả nghiêm trọng, phòng
15


chống tham ô, tham nhũng … đã thể hiện sự cứng rắn của Đảng và
Nhà nước trong công cuộc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh.
Một trong những minh chứng tiêu biểu cho việc chỉnh đối tác
phòng của Đảng là “chiến dịch đốt lò” dùng chỉ chiến dịch chống
tham nhũng quy mô lớn do nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam

Nguyễn Phú Trọng khởi xướng từ năm 2016 trên cương vị Tổng bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số vụ án
tiêu biểu trong chiến dịch Đốt lò: khởi tố, bắt tạm giam và khai trừ
Đảng đối với Nguyễn Thanh Long (nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế) về tội
"Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ"; Vụ khởi tố
Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung về các vụ án
"chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước" xảy ra tại cơ quan đơn vị thuộc
UBND Thành phố Hà Nội;...
Nhìn chung, Đảng đã đạt được những thành tựu đáng kể từ việc
kế thừa và phát huy tinh hoa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và
phát triển con người Việt Nam. Tuy nhiên, chặng đường phía trước
vẫn cịn khó khăn, kiên định với đường lối chính sách đã đề ra là
nhiệm vụ vơ cùng quan trọng trong quá trình xây dựng đất nước.
Cần xây dựng và phát triển những chính sách mới nhằm phát triển
con người tồn diện, cũng như cần có những biện pháp để khắc phục
những hạn chế còn tồn tại để xây dựng một xã hội đúng với quan
điểm: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
____________________________Hết______________________________________
Nguồn tham khảo:
(1)
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho bậc Đại học,
khơng chun ngành Lý luận chính trị, xuất bản 2019
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị quốc gia
(3)
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
(4)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.

Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
(5)
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
(6)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập
(7)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia
16


(8)
Ý nghĩa của Đại hội XIII của Đảng trong bối cảnh hiện nay;
TS. Vũ Trung Kiên
(9)
Kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần Hội nghị trung
ương 4 khóa XIII; TS. Lê Thị Chiên
(10)
Nguyễn Phú Trọng: ‘Người đốt lò vĩ đại’”. BBC tiếng việt.
Ngày 20 tháng 2 năm 2018
(11)
Báo cáo chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam và
các chỉ số thành phần

BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 6
STT
1


Họ và Tên
Trịnh Xuân Thái

MSV
11203515

Điểm
10
17


2
3
4
5
6
7
8

Nguyễn Anh Thư
Nguyễn Thị Thu Trang
Nguyễn Thị Thanh Trúc
Nguyễn Thị Oanh
Nguyễn Thị Ngọc Tuyết
Khổng Thanh Trúc
Cao Hoàng Tùng

11207062
11215856
11207307

11203080
11208359
11219005
11208320

10
10
10
10
10
10
10

18



×